Nổi Trôi Cùng Vận Nước

Chiến tranh đă đi qua và chấm dứt từ lâu. Quê hương th́ xa lắc, xa lơ nhưng không biết tại sao trong những giấc ngủ chập chờn, thỉnh thoảng đẩy đưa, đưa đẩy tôi trở về miền quá khứ…..

Có đôi lần về thăm lại quê hương sau nhiều năm xa xứ. Giờ th́ cảnh cũ, người xưa đă quá nhiều thay đổi, nhưng trong ḷng tôi vẫn nguyên vẹn h́nh ảnh một Mộc Hóa-Kiến Tường của ngày xa xưa ấy.

Là một tỉnh lỵ nhỏ bé nằm cạnh quê hương xứ Chùa Tháp, lại là vùng đất thấp. Hằng năm cứ vào khoảng tháng 9-10-11 là mùa nước lụt. Nước từ biên giới bên kia Campuchia đổ theo con sông Vàm Cỏ Tây, mang theo vô số tôm cá đủ loại vào sinh sôi nẩy nở trong các sông rạch, ao đ́a và phù sa bồi đấp cho đồng ruộng cùng những cánh rừng tràm xanh bát ngát tận chân trời.

Từ miền Bắc xa xôi đến đây, Cha Mẹ tôi chọn miền đất nầy làm nơi sinh sống bởi đất rộng, người thưa, ruộng lúa với nguồn cá tôm vô tận. Người dân địa phương th́ hiền lành, chất phát, cần cù làm ăn, giúp đở nhau trong t́nh làng nghĩa xóm. Đời sống lúc bấy giờ thật an vui, hạnh phúc của một thuở miền Nam thanh b́nh dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa của cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.

Lần lượt mấy chị em tôi ra đời, lớn lên, học hành, hồn nhiên bên cạnh những lớp trẻ nơi đó. V́ vậy nên tánh t́nh, phong cách, giọng nói không khác ǵ người dân tại địa phương.

Nhưng không lâu sau đó, tôi thường nghe những người lớn nói về cuộc chiến tranh Quốc-Cộng. Lúc bấy giờ tôi chưa hiểu biết nhiều về điều đó. Tôi chỉ biết và thấy người lính Quốc Gia như: Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn và vài đơn vị chiến đấu khác sống gần gủi bảo vệ người dân thôn xóm.

Quê tôi vùng sông nước, phương tiện đi lại bằng đ̣, ghe, xuồng ba lá …Chỉ có một con đường lộ giao thông duy nhất nối liền từ Mộc Hóa ra Cai Lậy, về Sài G̣n hay các Tỉnh lân cận. Đoạn đường chưa tới 50 Km, nhưng xe đ̣ phải chạy cả ngày mới tới, v́ ban đêm Việt Cộng nằm vùng thường xuyên về đấp mô, gài ḿn, phá cầu, giựt cống , khủng bố dân làng v… v…V́ vậy, những chuyến xe đ̣ phải chờ những người Lính Quốc Gia mở đường, khai thông an ninh trục lộ vào mỗi buổi sáng. Đôi lúc những người lính nầy phải đánh đổi bằng xương máu cho dân lành được an b́nh đi lại.

Đầu thập niên 1970. Tiếng súng càng ngày càng về gần phố chợ. Những quả đạn pháo kích của Việt Cộng rót vào khu dân cư, gây nên cảnh chết chóc, kinh hoàng cho người dân vô tội khắp nơi. Nữ thần Ḥa b́nh biến đi, nhường lại cho Thần Chiến Tranh về ngự trị. Lúc bấy giờ đời sống của người dân lành nơi đây không c̣n an b́nh như trước, mà họ phải, đang đứng trước thảm họa chiến tranh.

Là chị lớn của gia đ́nh bên cạnh các đứa em c̣n nhỏ, nên chuyện học hành của tôi dang dỡ. Ra đời sớm, làm nghề thợ may . Cuộc đời tôi bắt đầu bước sang ngă rẽ. Hằng ngày tôi nhận đồ may trong xóm và sửa đồ trận. Có những người lính mang quần áo đến sửa, nhưng không bao giờ trở lại nhận, v́ sau những lần hành quân họ không c̣n cơ hội trở về. Tôi thật sự thương cảm thân phận những người lính và gia đ́nh của họ. Tâm hồn tôi bắt đầu biết suy nghĩ vu vơ, biết cảm thông về đời Lính. Hằng đêm, nh́n lên bầu trời tôi thấy được những đóm mắt của hỏa châu, nếu không có những tiếng súng đ́ đùng xa xa vọng lại, tôi cứ tưởng đó là những vầng trăng đêm rằm tháng 8. Ban ngày th́ tiếp xúc và nh́n thấy những màu sắc của những người Lính từ những vùng xa xôi trở về, ẩn hiện trên gương mặt của họ là những nét buồn, những nụ cười méo mó, những việc làm ngông cuồng…..Nếu hiểu và thông cảm cho những người lính đó, th́ ḿnh mới thấy được sự hy sinh to lớn của họ: ra đi trong cái CHẾT, mang về sự an b́nh cho cái SỐNG.

Mộc Hóa-Kiến Tường, vùng đất bé nhỏ, dân ít Lính nhiều. Từ những người lính các sư đoàn 7, 9, các tiểu đoàn Biệt Động Quân cộng thêm những đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, đă biến vùng đất hiền lành nầy thành nơi hội ngộ của những chàng trai thời ly loạn. Là con gái mới lớn nơi tỉnh nhỏ, làm nghề may vá, sửa đồ trận cho lính, ít nhiều ǵ tôi cũng tiếp xúc với họ, những người lính dễ thương và dễ ghét. Nhất là nhà tôi lại có một vài bàn bi-da cho họ giăi trí. Thôi th́ những câu chuyện vui buồn đời lính và h́nh như cả những mùi khói súng quanh quẩn đâu đây, đă xáo trộn và phủ lên cuộc sống b́nh yên, những mơ mộng viễn vông trong một tâm hồn của cô gái vừa mới lớn.

Từng ngày tháng trôi qua, là thân con gái, tôi vẩn tưởng rằng ḿnh đứng bên ngoài ṿng cuộc chiến. Có những lúc nh́n thấy những người lính trận trở về, sao mà oai hùng, lẫm liệt. Thỉnh thoảng, nh́n thấy những người thương phế binh di chuyển trên đường phố một cách khó nhọc, ḷng ḿnh bổng dưng quặn đau, ruột thắt. Chính họ đă hy sinh một phần thân thể của ḿnh để người dân được sống an lành nơi hậu tuyến. Hoặc giă, nh́n thấy những người bạn gái trạc tuổi ḿnh, đầu quấn khăn sô, tay bồng cháu bé đi về hướng bộ chỉ huy quân sự Tiểu Khu, bổng dưng mắt ḿnh thấy cay cay, hai ḍng lệ chảy dài trên má. Đôi lúc ḿnh tự nhủ thầm: mắc mớ ǵ ḿnh phải thương vay, khóc mướn. Cuộc đời chỉ có mấy chử: hy sinh và chấp nhận mà thôi.

Trai khôn t́m gái chợ Đông
Gái khôn t́m chồng giữa chốn ba quân.

Câu ca dao của người xưa để lại, hay tại v́ ḿnh sống bằng cái nghề may vá, mỗi ngày tiếp xúc với lính thành ra ḿnh có cảm t́nh với họ. Dù vậy thời gian trôi đi, tim ḿnh vẫn chưa một lần rung động trước những màu áo hoa rừng hay trây di phèn chua nữa ống. Không phải ḿnh quá kén chọn. Thực sự ḿnh cũng mong ước một ngày nào đó có một vị Hoàng Tử đến gơ cửa trái tim ḿnh như trong chuyện cổ tích, thực tế hơn dù quan hay lính ḿnh cũng sẳn sàng chấp nhận, miễn sao họ đến với ḿnh bằng trái tim chân thành, đừng gian dối, ngụy biện: lính- mà- em.

Lúc bấy giờ đă có những người tứ xứ về đây làm việc. Từ công chức hành chánh, giáo chức, lính tráng hội tụ nơi nầy. Cũng như anh, một người lính mới về nhận đơn vị tại Tiểu Khu Kiến Tường c̣n bở ngỡ với vùng đất lạ trong mùa nước nổi.

Trong một sự gặp gỡ t́nh cờ, chúng tôi quen nhau khi th́ sửa bộ đồ, khi th́ may vài phù hiệu. Đời lính rày đây mai đó. Thỉnh thoảng anh ghé lại thăm tôi. Tôi mến anh qua nét phong trần, sương gió của người lính. Tôi thương anh qua tính t́nh hiền lành, giỏi tài hùng biện, nhất là gương mặt c̣n vương nét thư sinh, chưa có kinh nghiệm sống vùng sông nước. Anh đă để ư và thương tôi bởi v́ tôi là cô gái quê mùa chân chất.


Như vậy đó, hai đứa thương nhau và tiến tới hôn nhân chưa đầy 5 tháng. Một đám cưới đơn sơ được tổ chức. Cha Mẹ và Cô Bác của anh từ Thủ Đức lên tham dự cùng gia đ́nh hàng xóm của tôi trong buổi tiệc cưới nho nhỏ. Tôi mặc áo cô dâu chờ măi không thấy anh về. Gia đ́nh cũng phải làm lễ đăi khách. Khi tan tiệc, mọi người ra về với lời ái ngại:” không biết nầy là đám cưới hay đám ma đây.” V́ anh vẫn c̣n nơi tiền đồn biên giới. Ruột gan tôi như lửa đốt, nước mắt chực muốn tuôn trào…..Họ hàng bên nhà trai cáo từ v́ đường xa, chỉ c̣n cha mẹ chú rể ở lại ngóng tin con. Bổng nhiên, lúc đó trước cửa nhà có chiếc xe đ̣ ngừng lại. Từ trên xe, một người nhảy xuống, quần áo giày vớ c̣n dính bùn phèn ướt tới đầu gối, trên người c̣n mang súng đạn, đầu đội nón sắt đi thẳng vào nhà. Từ bên trong, tôi chạy vụt ra lao tới ôm anh mà nước mắt chảy dài, khóc tất tửi, nghẹn ngào trong sự vui mừng của người thân và gia đ́nh.

Chúng tôi chỉ sống trọn vẹn với nhau chỉ một thời gian ngắn, mặc dù anh có một tuần nghỉ phép cưới vợ. V́ nơi đóng quân xa, đường đi hiểm trở, nên ngày nào anh cũng liên lạc với Tiểu Khu để biết có chuyến tiếp tế mở đường cho anh đi theo để trở về đơn vị. Ba ngày sau khi cưới. Trên đường tiển anh, tôi nói với anh: hai đứa ḿnh làm đám cưới không có một tấm h́nh kỷ niệm, thôi tiện trên đường đi ghé qua chợ, ḿnh ghé tiệm chụp h́nh “ Nam Phương” chụp một tấm làm kỷ niệm nha anh.

Tôi chấp nhận làm vợ người lính đơn giản như thế, biết thế nào là sự chờ đợi của người Chinh Phụ. Chấp nhận tất cả, v́ tôi thương anh, thương màu áo LÍnh.

Sau khi tiển anh trở về đơn vị, hằng đêm tôi sống trong sự mong nhớ, trở ḿnh khi nghe tiếng súng xa xa vọng về, những đóa hỏa châu bây giờ không c̣n là những vầng trăng rằm tháng 8, mà nó là nổi lo âu hồi hộp. Nơi nào có những hỏa châu soi sáng là vùng chiến trận, nh́n hỏa châu, ḷng người vợ vô cùng lo sợ an nguy cho người lính.

Mỗi ngày, khi nghe tiếng xe Hồng Thập Tự hú c̣i là tim tôi đau nhói. Có lần tôi nghe người vợ lính cùng đơn vị với chồng tôi rủ đi thăm chồng. Tôi vội vả khăn gói, mang theo chút quà để đến đơn vị thăm anh.

Tiền đồn biên giới Long Khốt- Tuyên B́nh thuộc tỉnh Kiến Tường, hằng ngày đều ăn pháo kích từ phía bên kia biên giới Miên. Nhiệm vụ giử đất và an ninh thủy lộ, tiếp tế duy nhất bằng đường thủy, không có đường bộ. V́ vậy khi tôi theo người vợ lính thăm chồng bằng chuyến đ̣ tắc ráng, cũng là lúc tôi bắt đầu hiểu được sự an nguy của đời lính. Dọc theo ḍng sông, những người lính đóng quân dọc theo bờ vẫy tay chào, không biết họ báo về đồn như thế nào mà khi vừa tới nơi tôi thấy anh đă đứng đợi sẳn. Ghe cặp vào bờ, bắt ván cho tôi lên, th́ vừa lúc đó nghe tiếng đề ba của đạn pháo, anh vội ôm tôi lao nhanh vào đồn xuống hần trú ẩn. Nhiều tiếng nổ lớn chung quanh đồn, bùn śnh nước văng tứ tung. khi tiếng pháo tạm ngưng anh nói với tôi: em phải về thôi, không được ở đây, nguy hiểm lắm. Chưa kịp hỏi han, tâm sự, th́ anh vội vă đưa tôi đón đ̣ tắc ráng trở về, bỏ lại phía sau anh và những người lính ngày đêm đối mặt với bao nhiêu hiểm nguy bất trắc.

Biến cố 30-4-75, tôi không bao giờ quên được cảnh tang thương chia ĺa của hàng triệu gia đ́nh và anh cũng cùng chung số phận như những người lính khác.

Từ bộ đồ trây di bê bết bùn phèn, đổi sang bộ đồ sọc. Từ thân phận của người vợ lính đổi sang thân phận vợ của người tù không bản án.

Anh đi tŕnh diện “ Học tập cải tạo”, cũng là lúc tôi mang bầu đứa con đầu ḷng được 6 tháng. Tôi ở nhà chờ anh 10 Ngày như lời họ nói. Rồi Một tháng, Ba tháng, Sáu tháng, Một năm…vẫn biệt vô âm tín. Không một lá thư, không một tin tức về chồng của ḿnh hiện nay đang ở đâu, sống chết ra sau? Sau khi sinh cháu gái đầu ḷng, chịu đựng những lời ong bướm, những lời cay độc, những cạm bẩy ŕnh rập, của những người bên thắng cuộc. Ḿnh tự nguyện một ḷng chung thủy, chấp nhận hoàn cảnh đơn chiếc nuôi con ở vậy chờ chồng, tự hứa trong ḷng không bao giờ thay đổi, dù đờI đă đổi thay.

18 tháng sau. Nhận được giấy báo thăm nuôi từ trại tập trung cải tạo Kà Tum-Tây Ninh gởi về. Tôi mừng quá, vội vă một chút quà cho chồng, tay bồng con thơ, tay dắt Mẹ chồng lặn lội xuống từng địa ngục. Từ Mộc Hóa lên Sài G̣n đi Tây Ninh, qua núi Bà Đen đến Kà Tum vào trại cải tạo thăm anh. 15 phút ngắn ngũi cho buổi tao phùng, chồng vợ gặp nhau, cha con bùi ngùi nh́n nhau lần đầu tiên kể từ khi cháu mở mắt chào đời mới biết mặt cha. Sau buổi trùng phùng đầy uất lệ, anh vẫn c̣n sống bên cạnh những chiến hữu của ḿnh, tôi nguyện một ḷng thay anh làm cha, nuôi nấng con thơ đợi chờ anh trở về dù 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa.

Kà Tum -Trăng Lớn- Tây Ninh, sóc Bom Bo Bùi gia Mập-Phước Long, căn cứ Rừng Lá - Z 30D Hàm Tân, nơi nào có anh là nơi đó có bước chân mẹ con tôi đến thăm.

5 năm sáu tháng. Chuyến đi thăm anh nhưng không gặp. họ bảo đă thả anh về, nhưng tôi không tin, đến khi gặp được người bạn tù của anh, trao món quà thăm nuôi nho nhỏ cho người bạn, tôi mới trở về.

Anh trở về với thân xác hao gầy bởi lao tù đói khổ. Từ nhà tù nhỏ bước vào nhà tù lớn. Là tù cải tạo, anh không có quyền được ở gần cha mẹ nơi thành phố mà phải chấp nhận đi vùng kinh tế mới. Một lần nữa, anh trở về Mộc Hóa quê tôi. Suốt một năm bị quản chế tại địa phương, họ đă bắt anh khi th́ đi gở ḿn, khi đi làm thủy lợi. Mỗi tháng phải tŕnh diện đồn công an một lần, hạn chế tối đa sự đi lại.

Anh muốn t́m một công việc làm để ổn định cuộc sống, nhưng thật không dễ lúc bấy giờ với cái lư lịch Tù Cải Tạo. Cuối cùng, Trời không phụ người hiền. Anh được nhận vào làm phụ hồ, mộc cho một nơi cần người làm công việc nặng nhọc mà ai cũng phải sợ.

Ngày qua ngày. Nghề dạy nghề. Anh đă học hỏi được nhiều cộng thêm vào vốn kiến thức căn bản của ngành Công Thôn từ thời c̣n đi học dưới mái trường Nông Lâm Súc B́nh Dương dấu yêu. Anh đă đem ra áp dụng cho công việc, kiếm được chút đỉnh tiền phụ giúp tôi nuôi con. Anh đă vượt qua tất cả, v́ người vợ hiền và những đứa con thơ.

Năm 1995, gia đ́nh tôi đến được miền đất TỰ DO qua chương tŕnh H.O. Định cư tại thành phố Chattanooga thuộc Tiểu Bang Tennessee, cách thành phố Atlanta, Tiểu Bang Georgia hai tiếng lái xe. Georgia là Tiểu Bang có số lượng cộng đồng Người Việt đông đảo và các hội đoàn sinh hoạt, tổ chức hằng năm những ngày lễ, ngày kỷ niệm của QLVNCH. Các chương tŕnh gây quỷ dành cho các anh em Thương Phế Binh QLVNCH c̣n sống lây lất nơi quê nhà, có dịp là chúng tôi đến tham dự và ủng hộ. Dịp để chúng tôi nh́n lại màu cờ, sắc áo, nhớ lại quăng đường gian khổ của chồng tôi và những chiến hữu của ḿnh đă đi qua, nhắc nhở và giăi thích cho con cháu ḿnh hiểu được v́ sau ḿnh phải bỏ Quê Hương sống tạm dung nơi đất khách quê người. Cũng tại nơi nầy, anh đă t́m liên lạc với một số bạn cùng khóa Bất Khuất 8B+C, và quí Thầy Cô, các bạn học cùng trường NLSBD ngày xưa. Hằng năm chồng tôi đều dành thời gian đi họp mặt ở khóa Bất Khuất hay cuộc họp mặt của hội cựu học viên NLSBD tổ chức ở Nam Cali.

Mùa Thanksgiving nữa lại về. Cám ơn Cha Mẹ đă sáng suốt, quyết định rời bỏ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn vào miền Nam Tự Do, để mong sau con cái lớn lên được hưởng cảnh thanh b́nh, no ấm. Được hưởng quyền căn bản Tự Do của con người. Cũng như tôi luôn luôn biết ơn Cha Mẹ gia đ́nh hai bên đă ở bên cạnh chúng tôi trong những lúc khó khăn nhất. Xin cám ơn quí Thầy Cô và các bạn học cùng chung dưới mái trường NLSBD đă hướng dẫn, đào tạo những con người sống có trách nhiệm với đất nước, với xă hội và gia đ́nh. Cũng không bao giờ quên những người Lính đă hy sinh hay thương tật hiện giờ đang sống lây lất đâu đó nơi quê nhà. Rất trân trọng đối với những người đă từng cầm súng chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam thân yêu, cho chúng tôi được sống an lành trong suốt hai mươi năm.

Những lời nầy nói ra tuy có muộn màng, nhưng cũng xin nói lên một lần cho tất cả: “ Nếu có một kiếp sau là người con gái, người chồng của tôi cũng vẫn là người Lính, người lính Việt Nam Cộng Ḥa."

Chattanooga Mùa lễ Tạ Ơn-Thanksgiving 2016
Tâm sự người vợ Lính
Minh Nguyễn

 


VĂN CHƯƠNG

Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013 
Bài vở cũ 2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Những bài viết của Bất Khuất


Giấc mộng kinh hoàng  
Hồi Kư của vợ người tù “cải tạo”  
Viễn thám
Trong bóng hoàng hôn
Tâm sự cùng Nữ Sĩ Dư Thị Diễm Buồn  
Phản bội Đồng Minh hay thay đổi chiến lược chống CS
Cái áo Jacket Không Quân
Ánh sáng cuối đường hầm
Sức mạnh của đồng tiền  
Di chúc tuyệt mệnh  
Rồi tôi sẽ hạnh phúc  
Anh không chết đâu anh  
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?  
Nồi chè của Ông Tướng  
Người cha trăm tuổi  
Hai ngày gác ở Nghĩa Trang Quân Đội
Dự lễ Phật Đản  
Từ mặt đường dậy sóng ...  
Viết cho một người lính  
Mặt trận Tân Cảnh, Kontum 1972 
Nghĩa Quân 
Chia sẻ với các em của chị
Có những chuyến tàu
Những mảnh hồn phiêu bạt ...
Cho nhau cuộc đời  
Cha và con với biển và cá  
Kẹt cứng gọng kềm

Người tù binh hồi chánh bên bờ sông Ba  
Cái bóng của vị thầy tu  
Cái nón sắt của người lính VNCH  
Trăm ngh́n nhánh khổ  
Sài-G̣n miền đất địa linh nhân kiệt
Triết lư nhân sinh - Luận về mộng mơ qua Văn chương và Triết học  
Tấm thẻ bài  
Tung cánh chim t́m về tổ ấm  
T́nh nghĩa Vợ, Chồng khi kẻ mất, người c̣n đời sống sẽ ra sao?  
Viết cho Nguyễn Viết Dũng  
Việt cộng - Việt cộng
Tháng Ba chôn súng  
Băi biển Non Nước: Một kết thúc tức tưởi, oan nghiệt 
Tiểu Đoàn 9 TQLC - Trận chiến sau cùng  
Một lần chào cuối cùng của đời quân ngũ !  
Mất Đà Nẵng  
Sự quan tâm của vị Tướng  
Saigon xưa ...cái thời xé tiền để .. thối lại !  
Giọt nước mắt của lính
BTL/HQ/V4 DH – Di tản với 3000 đồng bào  
Người lính Việt Nam Cộng Ḥa sau 30 tháng Tư  
Bàn thờ hai mặt  
Ngôi nhà thờ cổ bên ḍng sông Saigon 
Ṿng tṛn nhân quả  
Bạn tôi người lính trẻ
Nhớ kỉ niệm .…
Một lần mất mát  
Chuyện buồn người vợ tù  
Nhẩy Dù tử chiến tại mặt trận Quảng Trị 
Ngô Quang Trưởng - Cổ kim như danh tướng 
Khai bút đầu Xuân Bính Thân 2016 - Sát cộng nô hịch

Về thăm quân trường cũ 
Xuân đă tàn chưa?

Tưởng như … Mùa xuân không c̣n nữa 
Táo quân về trời 
Đi chợ... Tri thiên mệnh  
Điều bố không dặn lại

Một đời lận đận chiến tranh  
Gió mùa xuân  
Viên đại bác cuối cùng nơi phà Cát Lái 
Người vợ là một vĩ nhân

Chưa tu đă thành Phật  
Tướng Ngô Quang Trưởng - Cô kim như danh tướng

Bắc Kỳ 9 nút - Bắc Kỳ 2 nút