Thơ Nguyễn Đắc Kiên

V́ khó khăn và bị bao vây như vậy nên bài viết của Nguyễn Đắc Kiên trở thành một trận sóng thần thông tin khi một nhà báo trẻ, đă vượt lên sợ hăi công khai viết một bài viết phản bác lại tuyên bố của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi ông này đi ngược lại mọi quy chuẩn chính trị cáo buộc nhóm kiến nghị 72 là suy thoái đạo đức, khi họ đ̣i hỏi phải bỏ Điều 4 Hiến pháp, phải tam quyền phân lập và phi chính trị hóa quân đội.
Bài viết của Nguyễn Đắc Kiên đă phá sản tận cốt lơi lập luận và thói quen áp đặt dư luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là những lănh đạo chóp bu. Sau bài viết nảy lửa này anh trở lại đời sống âm thầm của một người cầm viết tự do v́ đă chính thức bị cho thôi việc tại tờ báo mà anh cộng tác.

Nguyễn Đắc Kiên không những là một nhà báo giỏi, can trường mà anh c̣n là một nhà thơ tài năng. Góc nh́n của Nguyễn Đắc Kiên trong tập thơ mang tên “Những số không ṿng trắng” khiến chúng ta có dịp hiểu thêm về thái độ của anh trước thời cuộc hiện nay. Anh làm thơ không để thưởng thức một cách b́nh thản, với trà ngon với hương đồng gió nội hay bên khói hương trầm đọc thơ như thói quen của những người muôn năm cũ. Thơ của Kiên xoắn sâu vào ḷng người, bẻ găy sự vô cảm đang ăn ṃn từng tế bào xă hội, bắt người đọc phải chọn thái độ mặc dù chỉ là một suy tư, và hơn hết chúng mang đến cho người đọc những thông tin đến trái tim chứ không phải khối óc.

Tập thơ mỏng chưa tới trăm trang với 13 bài thơ được tác giả cho là thơ lẻ và một bài kịch thơ 4 hồi. Những bài thơ được gọi là lẻ ấy có bài như một phán xét nghiêm khắc, có bài như nỗi đắng cay tràn qua mi mắt. Lại có bài vừa đọc lên thấy lâng lâng hạnh phúc nhưng tới cuối bài th́ trở thành hụt hẫng, xót xa.

Thơ Nguyễn Đắc Kiên không có chỗ trống cho người đọc trú chân, anh buộc khách đọc thơ anh phải đồng hành, bỏ dép lê chân trên con đường đầy sạn sỏi. Những viên sỏi ấy làm khách khập khiễng đă đành, chúng c̣n bắt người dẫm lên chúng phải cúi xuống nh́n cái tác nhân gây ra đau đớn ấy.

Bài thơ “V́ người ta cần ánh mặt trời” của anh khiến không ít người giật ḿnh. Con đường mà nhà thơ dẫn chúng ta đi sao quen thuộc quá. Chúng ta đă gặp nó từ khi ngồi trên ghế tiểu học với những bài học lịch sử dài đằng đẵng. Bao nhiêu xương máu đă đổ xuống mảnh đất này nhưng đến bây giờ vẫn chưa ngừng đổ. Tuy có ít hơn, có âm thầm hơn nhưng vẫn là máu. Máu của người mất đất, của những tiếng nói đ̣i được nói. Máu rơi từ những lên tiếng kêu gào đ̣i tự do, điều mà hàng trăm năm cả dân tộc bị vùi dập v́ thiếu thốn. Máu rơi nhưng quá ít người để ư, quá ít người quan tâm. Cuộc sống vẫn trôi như không có ǵ xảy ra. Cả cuộc sống đang ngủ vùi như chưa bao giờ được ngủ. Bài thơ lay lắt gọi, thảng thốt đánh thức những trái tim gần như lạnh giá.

V́ người ta cần ánh mặt trời
tôi chưa thấy một đêm nào dài thế,
bốn ngàn năm, giờ lại ngót trăm năm.
hết phong kiến độc tài, đến lũ bạch tuộc thực dân,
hết quân, hết vương, đến lũ tượng thần chủ nghĩa.
bao thế hệ siết rên trong gọng kềm nô lệ.
chuyên chế dă man đục rỗng chí con người.
cha tôi, ông tôi, bao thế hệ ngủ vùi.
tôi chưa thấy một đêm nào dài thế.
không ánh mặt trời, bóng tối chí tôn,
lũ quỷ ám thừa cơ toàn trị,
khủng bố dă man, reo rắc những kinh hoàng,
biến lẽ sống thành châm ngôn “mày phải sợ”.
mày phải sợ mày ơi mày phải sợ,
sợ nữa đi có sợ măi được không,
cốt tủy mục rỗng rồi trí óc cũng tối đen,
mày lại đẻ ra lũ cháu con “biết sợ”.
bao thế hệ đă ngậm ngùi mắc nợ,
lũ chúng ta lẽ nào lại mắc nợ mai sau,
c̣n chần chừ ǵ mà không tỉnh dậy mau,
sống cho xứng danh xưng con người trên mặt đất.
tôi chưa thấy một đêm nào dài thế,
cũng chưa thấy có ngày mai nào không thể.
v́ người ta cần ánh mặt trời,
tỉnh dậy đi lũ chúng ta ơi!

Nguyễn Đắc Kiên mời người đọc cùng anh tiếp tục hành tŕnh t́m về cội nguồn của đất. Đất mẹ của chúng ta qua “Chuyến tàu đêm” hiện lên toàn bộ những ǵ mà đất nước hôm nay phải chịu đựng. Đó là những nấm mồ bê tông dành cho những kẻ đặc quyền trốn tránh sự phán xét của nhân dân. Đó là lăng tẩm của lănh tụ vẫn được bề tôi sử dụng như một tấm khiên che chắn mọi sai lầm hủy diệt.
Đó là nấm mồ thời gian, đang chôn kín khao khát của cả một dân tộc bởi ám ảnh quyền bính của một nhóm người…

Chuyến tàu đêm
tôi đi qua cánh đồng lúa chín,
qua những nấm mồ, nặng trịch bê tông.
chẳng ai chết rồi đội mồ sống lại,
sao phải bê tông gạch ngói làm chi.
chẳng ai chết rồi đội mồ sống lại,
mà lũ kia đi lấy lời người đă chết tụng xưng.
lúa chín là lúa sắp tàn,
mưu ma cùng cực là đến hồi mạt vận.
tôi đi qua, qua những nấm mồ,
những mồ đất loe hoe bên khung cửa.
đất se se, đỏ quạnh máu cha ông,
dựng thịt da chôn côn trùng, cây cỏ,
máu hôm qua chảy ngược đến hôm nay,
ôm nấm mồ thời gian trắng xoá,
như tóc bà bạc hong trước hiên nhà,
như xương trắng cha ông mặt ṃi muối mắt.
tôi đi qua, qua những lỗ châu mai,
những lỗ đen, đen ng̣m hôm qua,
hướng họng súng đến hôm nay đe doạ,
thè lưỡi răng cắn xé đất quê hương,
đất quê hương mỗi người có một,
đừng hỏi tôi ai bạn ai thù.
đất quê tôi không có kẻ thù,
cả những kẻ hôm nay thè lưỡi nanh ngấu nghiến,
cũng sẽ được thứ tha,
bởi lịch sử vốn bao dung.
đất quê tôi chưa biết hận bao giờ,
vậy tôi xin những người hôm nay,
tự kết tội ḿnh, ngay khi c̣n đương sống.
đất quê tôi bao đời đổ máu hồng,
phơi xương trắng,
mặn ṃi nước mắt,
vẫn chỉ mong một buổi phục sinh,
không phải hỏi bạn thù, không phải lo diễn biến.
đất quê tôi chưa thù hận bao giờ,
đừng rày xéo nữa,
những người kia trên đất mẹ.

Những ǵ liên quan đến bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần và t́nh h́nh hiện nay th́ đúng là tôi có cảm thấy ranh giới như thế. Ranh giới bây giờ nó không rơ ràng như một đường vĩ tuyến nhưng mà ranh giới giữa ḷng người nó c̣n khó để giám định hơn.
Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên
Không phải bỗng dưng mà tác giả chọn bài “Những số không ṿng trắng” làm tựa cho tập thơ. Qua vài câu, người đọc thấy ngay hàm ư của tác giả: nỗi điêu linh của người dân vẫn c̣n đó sau khi hai cuộc chiến tranh kết thúc. Phạm Tiến Duật từng viết:

bom nổ trên trời hiện lên những ṿng đen
nhưng mặt đất lại sinh bao ṿng trắng…

Những ṿng trắng ấy được viết năm 1974 lúc hai miền Nam Bắc vẫn c̣n chia đôi. Vậy mà gần bốn mươi năm sau, những chiếc ṿng trắng h́nh số không ấy vẫn bay lởn vởn trên khắp đất nước sau khi người ta gọi là thống nhất hai miền.
Những chiếc ṿng trắng ấy ám ảnh cả dân tộc. Chúng như chiếc ṿng của dây thừng đong đưa trên số phận của hàng triệu con người.

Những số không ṿng trắng
bom đạn qua lâu rồi,
ṿng đen vẫn c̣n đó,
Phạm Tiến Duật ơi,
ṿng trắng vẫn quanh đây.
đêm hôm nay,
trời Vụ Bản mù sương,
đất không chiến tranh,
đất vẫn nḥa ṿng trắng.
ṿng trắng trên khuôn mặt,
người rám nắng,
trên vai áo sờn,
người giữ đất quê hương.
ṿng trắng trên,
đôi mắt mẹ chúng ta,
sợ lắm lũ quỷ ma,
hăi hùng hơn cái chết.
v́ phải sống với thây ma di động,
với lũ vô lương, hèn nhát đến bất nhân.
Phạm Tiến Duật ơi,
ông c̣n thích vẽ vời.
dừng lại hết đi!
đêm nay im lặng quá!
những ṿng trắng,
lặng câm tuyên thệ.
ta hôm nay không vẽ những số không,
không vẽ những hờn căm,
không phân biệt địch ta,
không gieo bom văi đạn.
tại sao ư? tại ta biết hận ai,
kẻ thù là ai,
dội bom đạn lên ai,
chẳng phải đồng bào ḿnh hết thảy.
ta hôm nay cởi ra ṿng trắng,
bỏ khăn tang,
gh́ siết trong tay,
những đứa con ta, những đứa cướp ngày.
dạy chúng lẽ yêu thương,
bài học vỡ ḷng Nhân tính.
dạy chúng biết lẽ nào là Sống,
lẽ nào là Tự do, đâu thương xót Đồng bào.
ta hôm nay,
đă cởi ra rồi,
không cần nữa đâu,
những số không ṿng trắng
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
(Nhất định thắng, Trần Dần, 1956)

“Bài thơ của Trần Dần là bài thơ tôi rất yêu thích khi nhắc đến bài “Nhất định thắng” của nhà thơ Trần Dần th́ người tôi nổi gai ốc.
Tôi viết bài thơ “Đi giữa Sài G̣n” vào một đêm khi đứng giữa Sài G̣n lúc mới làm nghề báo, lúc ấy tôi làm cho VNExpress. Đấy là cảm xúc của tôi khi thấy người lao công hay những cô gái ở quán bar vỉa hè…
Khi đó không biết tôi có nhớ tới bài thơ của Trần Dần hay không nhưng đúng là cảm xúc của tôi khi đó rất mạnh. Những ǵ liên quan đến bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần và t́nh h́nh hiện nay th́ đúng là tôi có cảm thấy ranh giới như thế. Ranh giới bây giờ nó không rơ ràng như một đường vĩ tuyến nhưng mà ranh giới giữa ḷng người nó c̣n khó để giám định hơn.”

Đi giữa Sài G̣n
trời mưa.
tôi đi.
phố vắng.
đêm dài.
chỉ có những hạt mưa.
khắc khoải.
như giọt nước mắt.
nước mắt cuộc đời.
chát mặn.
nước mắt em tôi.
những đứa trẻ không nhà.
nước mắt mẹ tôi, người lượm ve chai.
nước mắt ba tôi, người chạy xe ba gác.
nước mắt chị tôi, người công nhân thất nghiêp.
nước mắt anh tôi, mỗi lần tỉnh dậy, sau cơn phê
thuốc.
nước mắt người yêu tôi, gái bao nhà hàng.
đêm đen mịt mùng.
tôi vẫn đi.
tôi vẫn đi.
giữa những ánh mắt.
giữa những cái nh́n.
lặng câm. ám ảnh. ớn lạnh.
tôi đi.

Sân ga có lẽ là nơi dễ làm cho thi sĩ lấy cảm hứng để viết nên những bài thơ t́nh bất hủ. Nơi ấy là những cuộc chia ly, những giọt nước mắt t́nh nhân rơi xuống cho t́nh nhân, nơi bắt đầu cho thương nhớ kéo dài sau đó.
Thế nhưng sân ga trong thơ Nguyễn Đắc Kiên không lăng mạn và đầy những h́nh ảnh của t́nh yêu đôi lứa. Sân ga của Kiên là áo rách, là đói nghèo, là mồ hôi đầm đẫm. Sân ga của anh là những chiếc bánh vẽ nằm cong queo khô khốc không c̣n ai muốn nh́n. Sân ga của anh là chen chúc t́m danh lợi, là giành giật miếng đỉnh chung. Sân ga của Kiên buồn và đau đớn hơn cả khi nó không hứa hẹn một chút ánh sáng nào ở cuối đường hầm.

Như chiều sân ga
em ơi sân ga,
chiều mưa bay.
anh ngao ngán
trông đường ray eo hẹp,
o bế con tàu “Đổi mới” mấy chục năm.
mấy chục năm rồi,
c̣n bao nhiêu mấy nữa.
tàu sắt thâm ś,
“Đổi mới” xám tro,
tà vẹt gầy hao,
dan díu những lối ṃn.
em ơi sân ga,
chiều nay mưa.
khách đợi tàu,
vẫn những con người cũ,
lam lũ, áo cơm,
cuộc sống chẳng đổi thay.
bao hao gầy,
gặm ṃn từng đôi mắt,
ngó thăm thẳm vào đêm,
thấy dằng dặc chỉ đêm.
kẻ lên tàu,
như anh,
t́m nơi em.
hay t́m tới áo cơm, danh lợi.
hết thảy giống nhau,
ṃn mỏi kiếp người.
mấy chục năm rồi,
c̣n bao nhiêu mấy nữa.
tàu quê ḿnh,
bao đêm nữa phải qua.
bao ṃn mỏi,
bao nhiêu trông ngóng,
mà nào thấy đâu,
một chút sáng cuối đường.
em ơi sân ga,
chiều như vẫn chưa qua?

Một buổi sớm mai khi thức dậy có khi nào bạn tự hỏi tại sao hôm nay hoa không c̣n thơm, chim không c̣n hót và nhất là cái hương vị thanh tịnh buổi sáng tinh mơ hầu như đă bỏ chúng ta mà đi rồi?
Bởi v́ những sớm mai như thế đă bị nhốt lại trong các nhà tù vô h́nh. Những nhà tù ấy mang những cái tên mỹ miều như xuất khẩu lao động, như lấy chồng xứ lạ, như khu sinh thái xanh hay những danh, tính từ tương tự như thế… Quê hương một sáng nào đó bật lên tiếng khóc trong thơ Nguyễn Đắc Kiên khi tất cả đội nón ra đi chỉ c̣n lại tiếng ḥ lạc giọng.

Quê Hương
Mùa thu cội vàng - hoa mướp - đắng.
Đất nước ḿnh - vẫn chẳng được - tự do.
Sớm thu lạnh - gió cúi đầu - đưa đám,
Một thế hệ - Một thế hệ - Một…
…. Thôi xin đừng lần hồi - thêm một.
Ai đem bán - tự do?
Cho anh hỏi:
“Em ơi - c̣n không vườn vương hương - hoa khế,
mà tím - mà thương - mà nhớ quá - quê ḿnh?”.
Em cười lúng liếng - hoa xoan:
“Con c̣ bay lả bay la.
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng.
Đồng quê chúng chiếm hết rồi.
Thân em cũng bán chợ giời - tiếc không anh…”

Tôi nghĩ rằng chúng ta cần rất nhiều sự dũng cảm, và tôi quan tâm nhất là sự bao dung, cởi mở để chúng ta đi qua ranh giới đó cả hai phía của những người đấu tranh dân chủ và phía đảng cầm quyền.
Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên
Thơ Nguyễn Đắc Kiên độc đáo ở cách nh́n và anh cũng tỏ ra tài t́nh trong cách đặt vấn đề cho ư tưởng. Một trong hàng vạn câu hỏi: Nếu v́ lư do nào đó phải vào tù th́ anh chọn nhà tù nào?
Câu trả lời khá bất ngờ: anh chọn nhà tù cộng sản!
Bởi với anh, chỉ nơi đó mới xứng đáng giam giữ anh, một con người khao khát tự do đích thực. Khi được giam vào một nhà tù cộng sản anh sẽ t́m thấy những khao khát như anh. Những cháy bỏng của họ hôm nay sẽ đốt sáng tương lai đất nước. Chỉ một thông điệp này thôi cũng đủ cho cả tập thơ bùng cháy. Thơ Nguyễn Đắc Kiên dũng mănh và cuốn hút người đọc chính do thiên hướng của ḷng can đảm, trí sắc sảo từ một người làm thơ nhồi nặn ư tưởng bằng tấm ḷng của một người yêu nước.

Bởi v́ tôi khao khát Tự do
tặng những người biểu t́nh ngày 9.12.2012
nếu một ngày tôi phải vào tù,
tôi muốn được vào nhà tù cộng sản,
ở nơi đó tôi gặp những người ngay,
ở nơi đó đồng loại tôi đang sống.
nếu một ngày tôi phải vào tù,
tôi muốn được vào nhà tù cộng sản,
ở nơi đó giam giữ Tự do,
giam giữ những trái tim khao khát Sống.
nếu một ngày tôi phải vào tù,
tôi muốn được vào nhà tù cộng sản,
ở nơi đó giam giữ những nhà thơ,
giam giữ kẻ ngủ hoang để thức tỉnh muôn đồng bào
vô thức.
bắt nhà thơ giam vào trong ngục tối,
là mở ra ngàn thiên thể Tự do.
bắt Tự do giam vào trong ngục tối,
là mở ra ngàn thơ tứ Con người.
nếu một ngày tôi phải vào tù,
th́ chắc chắn là nhà tù cộng sản,
bởi v́ tôi khao khát Tự do.

“Tôi thấy những niềm tin và hy vọng của ḿnh là có cơ sở. Bản thân tôi vững tin hơn vào những ǵ tôi tin tưởng trước khi viết bài báo đó. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần rất nhiều sự dũng cảm, và tôi quan tâm nhất là sự bao dung, cởi mở để chúng ta đi qua ranh giới đó cả hai phía của những người đấu tranh dân chủ và phía đảng cầm quyền. Chúng ta bớt đi sự tức giận. Chúng ta bớt đi, chúng ta cởi mở hơn, chúng ta chịu khó lắng nghe nhau hơn.

Chúng ta đều là con dân nước Việt Nam và không có ǵ có thể thay đổi được điều đó cả. Không có ư thức hệ nào, không có giới tuyến nào nên chia rẻ chúng tôi… đấy là điều tôi băn khoăn nhiều và điều tôi quan tâm nhiều nhất. Tôi nghĩ rằng trí thức Việt Nam cũng quan tâm làm sao Việt Nam có một quá tŕnh chuyển đổi ḥa b́nh, tránh được nhiều xương máu nhất cho nhân dân.”

Nguyễn Đắc Kiên có lẽ sẽ c̣n nhiều tác phẩm hay nữa nếu ước mơ của anh không trở thành sự thật: làm thơ trong một nhà tù cộng sản.
Chúng ta có quyền hy vọng thế. Không ai có thể nhốt một ư tưởng, đặc biệt khi ư tưởng đó tự nguyện được nhốt để chứng minh rằng cộng sản không đáng sợ như mọi người vẫn nghĩ…

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

 


Thơ

Thơ cũ 2012
Thơ cũ từ 2011...


Chùm thơ 4 câu  
Tưởng niệm Chiến sĩ QLVNCH  
Thật t́nh  
Thằng Cu Tí mất gốc 
50 năm ngậm ngùi
Ḍng nước mắt của mẹ  
Tâm vẫn chưa yên  
Nỗi buồn nhớ nhau  
Nhỏ về 
Thanh Sơn thương nhớ 
Giáng Sinh hoài niệm  
Xuân rỉ máu  
Những bài thơ về mưa  
Rứt ray tận hồn  
Tạ ơn anh  
Bản trường ca thứ 7  
Tiễn em rời K18
Vá mảnh Giang Sơn
Vui buồn
Gởi hết về cho...
Thư gửi lú
Người lính vẫn c̣n đây
Làm sao?
Lời tử sĩ
Tôi không biết...
Chữ rớt từ tâm
Chùm thơ "T́nh đă chết"
Khen đáp trả
Nước mất, về đâu
Nỗi buồn chim sáo
Thật tươi sắc hồng
Mùi hương tím
Gậy ông đập lưng ông
Ngày măn khóa
Đành hẹn nha em
Vườn cau quê mẹ - Phong Điền
Thơ biển
Một đêm sông  
Tâm sự một đảng viên
Bông điên điển
T́m người đang nhớ  
Được tin bạn chết 

Đợi  
Chuyện ở VN 
Nhớ Tây Đô  
Oan hồn báo  mộng 
Những điều sỉ nhục và căm giận  
Bước lạ t́m về  
Nguyễn Phương Uyên  
Thuận gịng cứ sang...  
Giả "Ái Quốc" "Tất Thành" Bại Hoại
Chén cơm chan máu
Nỗi khổ quê hương
Nhắc lại lời nguyền
Vần thơ lục bát
Tiếc anh, tổ quốc ngậm ngùi
Thông điệp của thế kỷ 21
Nhớ trường xưa
Em ngồi em nhớ
Thơ - Nguyễn Tấn Danh
Lời trước nghĩa trang Quân Đội
Tháng 9 nhớ mùa nước nổi  
Nắng úa bước đời
Việt ơi!
Bản trường ca 17
Bản trường ca 24
H́nh ành một Anh Thư
Trực diện vụ xử Uyên & Kha
Tính sổ
T́nh đă bay xa
Nhớ thương U-Minh
Thư gửi những người bạn trẻ
Độc ẩm  
Thơ Á Nghi - Bùa yêu
Nhớ và thương
T́nh nước t́nh người
Viết cho em thơ
Đảng cướp
Giá trị ǵ?
Ư Nga - Ai sẽ cứ dân ta?
Đoá sen Phương Uyên
Đâu phải là mơ
Say khói thuốc
Chân dung chiến hữu
Chùm thơ "Hồn theo bóng trăng trôi"
Niềm vui vẫn c̣n
Buồn xưa mơ ước
Nỗi ḷng người ly xứ
Tiếng gọi núi sông
Khóc sớm bạn hiền
Bài ca cho Bạt Mạng
Nh́n bè bạn
Cờ xưa vẫn đẹp
Tôi yêu nước Mỹ
T́nh xưa... em bé
Tăng sâm giết người
Nỗi buồn chim sáo
Nh́n Bằng Lăng mà nhớ...  
Bài thơ cho những búp măng xanh 
Một lời cầu cho quê hương  
Sàig̣n em yêu ơi!  
Một thoáng ngậm ngùi  
Ḥa nhịp  
Ngày Quân Lực 19/6  
Chiêu niệm Anh Hùng!  
Con có c̣n thương Ba?  
Thương  
Em vững ḷng tin  
Vinh danh ngày Quân Lực  
Đảng đểu  
Gửi người tuyệt thực trong tù
Tưởng nhớ ngày QL 19/6
Mưa hạ nhục
Chẳng thể nào
Chữ rớt t́nh vương
Hè viễn xứ
Tâm sự người Thương Binh
Hăy góp tay làm lịch sử
Xin hỏi em là ai?
Má ửng hồng
Phù Đổng đă vươn ḿnh
Người "may áo quan"
Ơi đồng bào Việt Quốc !!!
Phương Uyên ơi ! Em là bồ câu trắng
Hai bản án
H́nh ảnh khó phai
Chợt nhớ Pleiku
Viết cho em
Hỏi người có phải yêu tôi?
Đồi cả thiên thu tiếng mẹ cười
Ư t́nh thương nhớ
Có ai về Việt Nam
Đôi nạng gỗ
Bờ sông vẫn gió
Lời cho thằng bạn đă chết
Nhắc nhớ mà chi
Nhớ ngày tháng cũ
Mẹ tôi  
Sài Gòn trong mắt biếc  
Nhớ ngày Quân Lực  
Bài thơ c̣n dang dở  
Sao anh không về thăm Giá Rai  
Tưởng nhớ  
Chuyện t́nh buồn  
Có những ước mơ  
Tấm ảnh ngày xưa  
Đời măi điêu linh  
Với người một thuở….Cư-An  
Mày bảo tao quên sao?

30 tháng 4: Ngày Quốc Hận
Tạm biệt Việt Nam...
Bi trường ca thế kỷ
Khi về ngang đồn cũ
Em ơi! Thành phố lại mưa
Mơ ước t́nh quê
Chiếc xuồng quê hương
Lưu Vong Hành và Đông Hải Hành
Lệ đá
Ta lính miền Nam
Chuyện buồn tháng 4
Thiên thần mũ Đỏ
Một quăng đời
Những vần thơ tháng 4...
Không quên lời hẹn
Góa phụ buồn
Hăy trả ta
Trả lại
Đi ṿng qua biển nhớ tháng Tư
Nỗi buồn tháng Tư
Đạo đức khó t́m
Chiếc áo bà ba
Tháng 4, năm 1975
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Tự do lên tiếng
Ngọt ngào tương ngộ
Ngủ đi con
Ngẫm thế sự
Khó tṛn ư thơ
Nhớ nhung nhau!
Khóc đồng môn Phan Dương
Rối xanh màu cỏ
Thành phố thủy tinh anh tan vỡ
Thơ Nguyễn Đắc Kiên
Bởi v́ tôi khao khát Tự do
T́nh Huế trong tôi
Xa quê hương nhớ Mẹ hiền
Bạn tôi đó !   
Vết của thời gian
Thơ viết ngày hăm chín
Đảng phải chết  
Nh́n mưa thấy nhớ  
Mời em thăm lại quê xưa
Ngày đó  
Xuân nào tôi đưa em về 
Măm cơm Tết cung kính mời  
Sao là tống biệt  
Trường Sơn Xuân quạnh đồn biên trấn  
Xuân... Viết cho chàng
Nỗi đau tết Mậu Thân chưa có phút nào nguôi!
Viết trong ngày giỗ mẹ
Thơ Xuân của Dương Thượng Trúc
Viết ngày đầu năm
C̣n đâu nữa quê hương ơi!
Chùm thơ xuân Quư Tỵ
Bài thơ cuối năm
Xuân Qy Tỵ
Từ băi tập về
Ư gửi bạn xưa
Ngụy ơi, em sợ một bóng ma
Hải chiến Hoàng Sa

Lời thương từ bà quả phụ Ngụy Văn Thà
Nhớ chuyện đổi dời