Thuyền Đời …

Chuyện non nước ḿnh; chuyện trên quê hương ḿnh, từ sau ngày 30 tháng Tư…

Thuyền Đời …
23 Chương!
1 ước mơ: Tự Do!

Kỳ trước, Chương Một: Ḍng Sông Quê Hương - Ḍng Cửu Long.
Đây, Chương Hai: Xuân Quê Hương.

. . .

Rời khỏi trại tù, về với gia đ́nh đă mấy tháng nay; tôi vẫn c̣n lắm thứ ngỡ ngàng, lắm điều xa lạ. Phố xá, láng giềng, bây giờ không c̣n giống với những h́nh ảnh thân yêu trong kư ức; trước khi miền Nam bị mất, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Đất nước mất chủ quyền. Nhân dân mất quyền tự do. Láng giềng thay chủ. Chủ mới là gia đ́nh hay thân quen của những người phục vụ cho chế độ mới, chế độ cộng sản. Những người chủ cũ đă bị nhà cầm quyền cưỡng bức phải bỏ nhà cửa ra đi. Họ phải vào sống trong các vùng hoang sơ. Chốn lưu đày này có tên gọi hoa mỹ là “Vùng Kinh Tế Mới.” Những căn nhà nào coi được mắt đối với kẻ thắng cuộc, đă bị tịch thu với bất cứ lư do nào đó mà họ muốn, như là… nhà có người đă cộng tác, hay có người thân làm việc trong chính quyền miền Nam. Có nhà bị lấy mất v́ gia đ́nh có người đă bỏ trốn, vượt rừng hay vượt biển ra đi t́m tự do.

Xă hội cộng sản gông cùm đời sống, trói buộc tư tưởng người dân. Người quen, và người chưa từng biết nhau, cùng giống nhau ánh mắt tránh né, đầy e dè, sợ sệt. Người ta trông như đang mang những mặt nạ. Những mặt nạ có cùng một khuôn mẫu. Chúng giống y nhau nét u uất với mệt mỏi, mất niềm tin, hết hy vọng ở tương lai. Chúng nó có cùng nụ cười gượng gạo, cười chào lấy có.

Thế nhưng, cái khung cảnh quanh tôi, bây giờ, lại có rất nhiều thứ quen thuộc, không khác chi mấy, so với thời c̣n trong lao tù; nơi mà chế độ cộng sản gọi là “trại cải tạo.” Bây giờ, quanh quẩn nơi đây cũng lá cờ máu, cũng chữ vàng trên băng vải đỏ, cũng cái đài phát thanh. Cái đài phát thanh của nhà nước the thé giọng đọc chanh chua, huênh hoang với những ngôn từ tuyên truyền lừa mị, kỳ dị, chướng tai… Chúng nó chí chóe châm chích màng tai dân chúng từ sáng sớm đến khuya tối. Nơi đây, bây giờ cũng thế, cũng đêm “họp tổ” để “kiểm điểm,” “đấu tranh,” “đấu tố” ...

Mang xác thân trở về nơi phố cũ
Phố xưa đây, sao vẫn thấy ngỡ ngàng
Màu cờ máu vây kín mù ước vọng
Tự do đây? ... sao như chốn lao tù!


Có tiếng xe gắn máy dừng trước sân nhà. Nghe tiếng động cơ quen thuộc, tôi bước nhanh ra cửa và thấy cái dáng bạn tôi ngồi lom khom trên yên xe giữ tay lái, hai chân bơi bơi để lùi xe vào gần cửa nhà hơn. Tôi vui mừng gọi lớn:

- Ê, Vũ!

Nghe tiếng tôi, Vũ quay lại nh́n và thân mật hất mặt sang hướng yên xe phía sau ra dấu và rủ rê tôi:

- Đi, cà phê!

- Ừ!... Có cần tao thay đồ cho lịch sự không?

Tôi hỏi để hỏi, như thói quen, chứ Vũ cũng biết rằng thằng bạn ḿnh bây giờ chẳng c̣n áo quần nào đúng với cái nghĩa lịch sự như tôi nghĩ. Vũ lấy điếu thuốc khỏi môi, thư thả cùng khói thuốc, ngó tôi ngắm nghía từ trên xuống dưới, rồi cười hề hề:

- Mày có mặc áo và mặc quần... Vậy là lịch sự quá rồi. Lên xe đi “ông”!

- Ừ! Đi th́ đi... nhưng mày chờ tao chút chớ, tao nói ít tiếng cho trong nhà biết với.

Tôi quay nhanh vào nhà, cho biết là ḿnh đi uống cà phê với bạn, và lấy cái áo kaki vàng cầm theo. Bộ quân phục kaki màu vàng nhạt của thời c̣n học ở quân trường, mặc khi đi phép cuối tuần; bây giờ chỉ c̣n sót lại cái áo đă bạc màu và sờn cổ này.

Thấy tôi trở ra, Vũ hút thêm hơi thuốc cuối thật dài, rồi cho tàn thuốc xuống rănh nước bên lề đường. Vặn ch́a khóa mở điện, Vũ nhóng người đạp cho máy chạy. Với tay nghề của Vũ, động cơ 72 phân khối của chiếc Honda từ thời c̣n đi học, nổ máy chạy ngay. Qua ống thoát hơi đă được chế biến, tiếng máy ấm và vang rền thật đă tai. Không chần chờ, để bạn ḿnh phải kêu nhắc thêm, tôi lên ngồi trên yên xe. Vũ gác hờ chân trên cần sang số, rồi quay nh́n ra phía sau lưng, hỏi tôi:

- Rồi chưa? ... Chạy nghen mậy?

- Ừ, chạy được rồi.

Tôi trả lời bạn. Và rồi câu thăm hỏi của Vũ làm tôi thoáng bồi hồi khi nh́n lại một đoạn đời, tôi lẩm bẩm như nói với chính ḿnh: “Bọn ḿnh già đi mất!”

Vũ chẳng nói chi cả; chắc là nghe không rơ đâu, nhưng bận luồn lách lái xe nên không hỏi hay trả lời. Như tôi đă đoán, nhập vào ḍng xe cộ chạy trên đường, Vũ nghiêng mặt hỏi với ra phía sau:

- Mày vừa nói cái ǵ mà già?

Tiếng xe cộ inh ỏi ồn ào quá. Tôi chồm tới, gần bên tai Vũ, nói lớn cho bạn ḿnh nghe:

- Tao nói... bọn ḿnh già rồi!

- Ờ!... Ừ!

Vũ ờ ừ, cho có vẻ là nghe tôi nói. Nhưng tôi biết, Vũ chưa hiểu hết ư tôi, và cũng chẳng buồn hỏi han chi thêm; yên lặng giữ tay lái mà theo ḍng xe cộ trên đường.
Thật vậy, chúng tôi đă già đi mất!

Tôi nhận ra, Vũ bây giờ thâm trầm hơn, thận trọng quay ra phía sau hỏi thăm, xem tôi có ngồi vững trên yên xe chưa, trước khi phóng xe chạy. Rồi nh́n lại, chính ḿnh cũng không c̣n cái nhanh lẹ nhảy lên yên xe ngồi như trước đây. Hai đứa tôi đă già nhiều hơn tuổi đời chưa đến ba mươi. Qua rồi thời tuổi trẻ bạt mạng. Cái thời, mặc cho thằng ngồi phía sau tự biết lo thân mà giữ sao ḿnh ngồi dính trên yên xe, thằng cầm lái không cần phải hỏi han dông dài, cứ mặc t́nh nhấn tay ga, vút vèo phóng đi ngay...

Sắp Tết!

Dạo này, thành phố đang trong những ngày cận Tết nên càng lắm thứ có màu đỏ, đỏ ḷm; thêm nhiều cờ máu và băng vải đỏ. Chúng nó được căng ngang qua lộ; treo trên cột đèn, cột phất phơ dọc theo lề đường, máng trên tường, cắm trước cửa các trụ sở và cơ quan… Khắp nơi nơi, chằng chịt các biểu ngữ với những thứ chữ nghĩa rất là nặng mùi “cách mạng”. Ngó đâu đâu cũng thấy những câu chữ tuyên truyền. Chúng tương tự như nhau, hay lập đi lập lại những sáo ngữ như là: mừng đảng-mừng xuân, đảng đă cho ta mùa xuân... Những câu mừng xuân đă không hề mang lại chút ǵ hân hoan, vui mừng của mùa xuân. Trái lại, chúng nó như những bệt sơn man trá, nhầy nhụa; những bệt sơn tô đỏ, phết vàng, lên những thi thể dân lành trong các hố chôn người tập thể. Họ đă bị quân cộng sản “giải phóng” bằng cách chôn sống, hay giết chết một cách dă man trong ngày Tết Mậu Thân 1968.

Phản bội hiệp ước đ́nh chiến ba ngày Tết; chỉ trong hai mươi sáu ngày tấn công và chiếm đóng, thảm sát của cộng sản đă làm cả thế giới kinh hoàng, ghê tởm. Hàng chục hố chôn người tập thể được t́m thấy trong, và xung quanh Huế; vùi chôn đến hơn bốn ngàn nạn nhân, bao gồm nữ và nam, từ bô lăo đến trẻ sơ sinh. Chỉ riêng trong các hố chôn người ở Khe Đá Mài, người ta đă t́m thấy gần năm trăm thi thể.

Bây giờ, những biểu ngữ quanh tôi, cho dù có được tạo dựng cầu kỳ, trịnh trọng; chúng nó cũng vẫn là các thứ bê bết, dối trá một cách thật là trơ trẽn. Người ta không thể nào quên tội ác của cộng sản từ khi cướp chính quyền vào năm 1945 đến nay; từ chính sách cải cách ruộng đất bất nhân, đến những cuộc đấu tố hành quyết man rợ từ Bắc vào Nam.

Hàng năm, khi xuân về th́ đảng lại tung hô chào đón “đại thắng mùa xuân”! Cái “đại thắng” của những kẻ đào đường, phá cầu, giật ḿn xe đ̣, đốt trường học, pháo kích vào chợ và nhà dân... là cơn giông tố hăi hùng, phủ trùm triền miên trên thân phận của quê hương và dân tộc.

Công Lư và Tự Do là hai danh từ mang ư nghĩa cao quư của quốc gia; nhân loại đă hy sinh biết bao xương máu để bảo vệ công lư và tự do. Ngược lại, chế độ cộng sản vốn độc tài, rất ghét sợ công lư và căm thù tự do. Cho nên, khi vừa cưỡng chiếm miền Nam họ liền cho thay đổi tên hai con đường, đường Công Lư và đường Tự Do, của thủ đô Sài G̣n ngày trước, thành các con đường mang các tên gọi kỳ dị: đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và đường Đồng Khởi. Chúng nó đă khởi nguồn cho câu thơ mỉa mai, truyền miệng trong dân chúng ở miền Nam; hai câu thơ quen thuộc, ghi lại trang lịch sử đen tối nhất của dân tộc, mà hầu như người dân miền Nam nào cũng nghe biết, sau ngày Sài G̣n bị mất tên:

“Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lư,
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do.”


Đă thế hàng năm họ vẫn ŕnh rang ăn mừng cái “đại thắng” man rợ ấy, nhảy nhót trên nỗi khổ nhục xót đau của hàng triệu tù nhân khổ sai trong các trại tù và gia đ́nh thân nhân của họ bị trù dập, đọa đày trong sinh kế. Nhân dân miền Nam chân chính kém may mắn, cũng chẳng khá hơn bao nhiêu, họ cũng bị đảng đạp vùi xuống tận đáy bùn đen của xă hội chủ nghĩa. Khẩu hiệu “lao động là vinh quang” của đảng; thực chất chính là chánh sách cưỡng bức, là phương cách bóc lột mồ hôi, nước mắt và máu của người dân miền Nam.

Sau ngày 30-4-1975, một thực trạng rất bi đát của dân tộc Việt Nam trước thảm họa cộng sản. Người ta cuống quưt t́m đủ mọi cách để trốn thoát gông cùm của những kẻ xưng danh là “cách mạng,” là “giải phóng dân tộc.”

Gần triệu người đă liều ḿnh trốn đi!

Người trốn đi, dù không biết ḿnh đi đâu, sẽ đến đâu; cứ trốn đi, miễn sao thoát khỏi ngục tù cộng sản. Hầu hết, người vượt biên và vượt biển đều không hề có kinh nghiệm về hải hành hay xuyên rừng. Người ra đi đều biết và chấp nhận những khó khăn, kể cả nguy hiểm đang chờ đón họ.

Trong ba người vượt trốn t́m tự do th́ chỉ có một người đến nơi an toàn, một người chết và một người sẽ bị bắt lại và bị tù đày!

Họ là những người chậm chân trong những ngày đầu di tản; không được may mắn, để theo các tàu dân sự vận chuyển lớn, như tàu Trường Xuân, các tàu chiến của hải quân, các chiến hạm của Mỹ, như USS Midway, mà lánh nạn. Hoặc, họ chính là những người c̣n hy vọng vào con người cộng sản, cũng có chút lương tâm và sáng suốt, không nỡ đối xử với những người dân miền Nam như kẻ thù không đội trời chung; và họ sẵn sàng cộng tác với nhà cầm quyền mới, để cùng xây dựng đất nước, trong ḥa b́nh của dân tộc.

Nhưng rồi nhân dân miền Nam đă lầm.

Lầm to!

Dưới chánh sách trả thù vô cùng tàn bạo của cộng sản, họ đă phải sống lầm than và mất tất cả. Họ đă bị cướp mất từ tài sản đến quyền tự do và cả phẩm giá con người!

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, người dân chỉ ra đi khi đă cùng đường, không c̣n cách nào có thể sinh sống tại quê hương của ḿnh. Những năm sau này, người ta liều ḿnh, chỉ biết cầu mong vào số mệnh, khi vượt trốn đến đất nước tự do. Đến nơi nào cũng được, miễn sao thoát khỏi địa ngục cộng sản Việt Nam. Những cuộc ra đi t́m tự do, sau khi cộng sản chiếm miền Nam, đă tạo thành một cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể từ ngày lập quốc. Đây là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại; chống lại chế độ cộng sản bằng chính mạng sống của ḿnh.

Đảng cộng sản đă cướp đoạt mùa xuân!

Mùa xuân đă không về trong ḷng người miền Nam c̣n uất hận chế độ bạo quyền!

Gió lùa vùn vụt bên tai.

Các băng vải đỏ và màu cờ máu cuốn vút qua, để rồi lại hiện ra và nối nhau như bất tận.

Tôi nhắm mắt, không muốn đọc, không muốn nh́n thành phố thân yêu ngày nào đang bị nhuộm đỏ. Tôi muốn lừa dối trí óc ḿnh, để t́m về một thời yên ấm trong t́nh người, trong tôi. Nhưng tiếng người la réo thô tục, tiếng bánh xe ngốn nghiến mặt lộ, tiếng động cơ gào rú, tiếng c̣i xe inh ỏi; những âm thanh hỗn loạn vây chặt lấy tôi trong những sự thực đầy chán chường. Chừng như, tất cả những bực dọc, bất măn với chế độ cầm quyền trong ḷng người dân, đang trút đổ vào những âm thanh hỗn loạn ấy; cho vơi, cho nhẹ bớt đi trong tâm trí, trong ḷng ḿnh…

- Ê!... ngủ gục té chết nghen mậy!

Tiếng Vũ nói như hét lên để đánh thức tôi. Tôi cười trấn an bạn ḿnh:

- Ngủ nghê ǵ!... ngủ th́ đă bị văng xuống đường mất rồi, chờ đến mày gọi à!

- Chứ... tao thấy mày nhắm mắt?!

- Tao không muốn thấy, nên… nhắm mắt!

- Hả?... Ừ!... nhắm th́ cứ nhắm…

Vũ chưa hiểu được ư bạn, nhưng không hỏi thêm; “Hả?” rồi cứ “Ừ!” đại và nói xuôi theo tôi cho xong. Rồi Vũ ân cần dặn ḍ tôi:

- Nhưng mày nhớ là, không chết trong tù, th́ đừng có ngủ gục rồi té chết,... chết lăng nhách!

- Đúng vậy!... Mà… sắp tới chưa, bạn hiền?

- Tới rồi! Mở mắt ra đi “ông”!... Cà phê đây!

Vũ thân mật bảo tôi và bớt tốc độ, quanh xe vào trong sân quán.

Dọc theo sông, ngoài kia có chợ nhóm nên xô bồ, ồn ào. Nhưng chỉ chạy qua vài trăm mét, khung cảnh nơi quán cà phê rất khác biệt, thật yên b́nh.

Sân quán rộng lớn. Chỗ đậu xe thoải mái, tuỳ ư khách. Bàn ghế thấp, bằng gỗ và nhựa, đơn sơ, tạp nhạp. Ghế và bàn để rải rác dưới bóng mát của các tàng cây trong sân quán.

Vũ chọn một bàn gần bờ sông, và dựng xe kế bên. Tôi khoác cái áo kaki vàng lên người, che bớt bộ xương bọc da trong áo thun “ba lỗ,” nhưng không gài nút áo, cho thoáng mát, rồi kéo ghế ngồi xuống.

. . .

Con tạo xoay dần, chồng chất thêm tuổi đời, không dung thứ một ai.

Ông chủ quán trông già yếu hẳn ra. Cô con gái xinh trẻ của những năm trước đây, trước khi miền Nam bị cộng sản cai trị, nay trông khác hẳn đi, khó mà nhận ra; giờ là một thiếu phụ mệt mỏi với gánh nặng gia đ́nh, trong xă hội chủ nghĩa ác nghiệt.

Khung cảnh của quán không thay đổi chi mấy.

Cái khác biệt rơ rệt nhất đó là sự trống vắng, ít bàn ghế và thiếu mất lời ca tiếng nhạc. Những t́nh khúc ngọt ngào, nồng nàn hương vị t́nh yêu, của nhạc miền Nam trước đây... đều bị cấm đoán. Quân “cách mạng” cho rằng tất cả những ǵ ở miền Nam tự do, từ con người đến văn hoá đều xấu xa, đều cần phải “giải phóng” triệt để. Tất cả các thứ, từ sách giáo khoa đến thơ văn, âm nhạc của miền Nam đều cho là “đồi trụy,” đă bị thu gom mà thiêu huỷ, cấm dùng hay lưu trữ.

Quán cà phê này đă chọn yên lặng!

Cái yên lặng dễ chịu hàng triệu lần hơn phải nghe loại nhạc mệnh danh là “cách mạng.” Tôi ngẫm nghĩ, cho dù ly cà phê với hương vị độc đáo của Café Du Monde, lọt vào trong cái quán với thứ nhạc “cách mạng” ấy, cũng biến ngay thành chất uống đắng nghét, khét nghẹt.

Với thứ nhạc vô duyên đó, chắc ǵ đă có những sáng tác nồng ấm t́nh người, có được ḍng thơ cùng t́nh khúc “Ngày Xưa Hoàng Thị”:

“Đưa em về dưới mưa,
nói năng chi cũng thừa
Như mưa đời phất phơ,
chắc ta gần nhau chưa?
Tay ta từng ngón tay,
vuốt tóc em lưng dài
Đôi ta vào quán trưa,
nhắc nhau t́nh phôi pha.”

Không riêng ǵ nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên, những chàng trai trẻ như Vũ và tôi, cũng sẽ không thích thú ǵ để đưa em vào quán trưa nào đó, đang léo nhéo cái thứ âm nhạc gọi là “cách mạng,” để mà t́nh tứ “nhắc nhau t́nh phôi pha”!

Lấy điếu thuốc cho ḿnh, rồi tôi đẩy bao thuốc hút sang mời Vũ.

Hớp miếng cà phê, tôi lắng nghe vị đắng của cà phê và khói thuốc thật nồng ấm bên t́nh bạn. Ngó trông ra con đường dẫn vào quán, vẫn chưa thấy bóng dáng Phát.

Thường khi đi uống cà phê như thế này, có Phát đến.

Tôi nóng ḷng hỏi thăm:

- Phát đâu? ... Mày có rủ thằng Phát không vậy? ... Sao chưa thấy nó đến?!

Cũng như Vũ, Phát cùng là bè bạn từ trung học. Rồi khi vào quân trường, Phát và tôi c̣n ở chung đại đội. Trong xă hội với công an ŕnh rập, lo sợ bị bắt bớ tù tội vô cớ như hiện nay; không mấy ai muốn tiếp xúc thân mật với những người tù “cải tạo” như tôi. Chỉ c̣n ba thằng bạn thường ngồi với nhau trong quán…

Hút hơi thuốc dài, Vũ ngó ra ngoài sông một lúc, ngập ngừng, nói nhỏ:

- ... chắc nó… “đi” rồi!

Sau khi cộng sản chiếm miến Nam, chữ “đi” thường được dùng để báo tin cho nhau: ai đó đă vượt biên, vượt biển đi t́m tự do… Cũng có thể là đi mà không bao giờ tới, đi xa rời cơi trần thế…

Tôi nghe mà ngẩn ngơ một lúc, rồi hỏi thêm:

- Hồi nào? ... tới chưa?

- Tao chưa rơ hồi nào. Hồi năy, định tấp vô rủ thằng Phát đi uống cà phê với tụi ḿnh, th́ thấy “tụi nó” ngồi hút thuốc ngoài hàng ba nhà thằng Phát... tao không dám ghé vô, vọt thẳng tới mày đó...

Tôi biết “tụi nó” mà Vũ ám chỉ là bọn công an. Trong thời buổi này, rất nhiều lư do bị “nhà nước” chiếm lấy nhà. V́ có người vượt biên là một lư do thường nhất. Tôi nghe mất mát, nát trong ḷng:

- Ừ!... chắc vậy rồi... mong nó b́nh an!

Vũ ngẫm nghĩ:

- Mùa này… biển bắt đầu êm rồi!

Vũ t́m một lư do để cùng tôi thấy an tâm hơn về Phát. Nhưng cả hai đều biết, tin tức nhận được về vượt biển lắm đau thương. Cái giá của tự do đánh đổi bằng chính mạng sống của ḿnh và người thân. Ai cũng biết, vượt biên bằng đường bộ hay vượt biển qua đại đương mênh mông, là lao thân ḿnh vào hiểm nguy muôn bề; nhưng người ta phải chấp nhận khi ra đi t́m tự do.

. . .

Tiếng máy tàu văng vẳng. Tôi ngó theo ánh mắt của Vũ, ra ngoài sông. Gió từ ḍng sông thoáng nhẹ, man mát mùa xuân. Nước lớn đầy, màu phù sa nhuộm trải lên trên hai bên bờ, làm con sông trước quán trông rộng mênh mông. Có chiếc ghe chở nặng, trầm ḿnh, chầm chậm xuôi theo ḍng nước. Tiếng máy thư thả êm đềm, như không muốn khuấy động yên b́nh. Ghe chở hàng, mui gỗ đóng kín, dài đến nửa ḷng khoang. Dưa hấu chất vun đầy ra đến tận mũi ghe. Người đàn bà đứng kềm cái máy đuôi tôm phía sau ghe, giữ hướng cho ghe chạy. Dưới khoanh bóng mát nhỏ hẹp của mái che, ông chồng ngồi bẹp trên nóc mui vừa lua miếng cơm, vừa trông chừng hai đứa con cùng sông nước với vợ ḿnh. Đứa con gái lớn vừa ăn, vừa đút cơm cho em.

Đời thương hồ, lấy ghe làm nhà, quanh năm đây đó để mưu sinh; dập dềnh suốt tháng này sang năm khác, mấy đứa nhỏ học hành chữ được, chữ mất, sao không khỏi chạnh ḷng. Cuộc sống trên sông có lắm khó khăn, thiếu thốn đủ bề; gặp khi đau ốm nặng, thường không kịp đưa lên bờ, đến nơi cấp cứu. Những con sông chở nặng phù sa, mang đến nguồn sống cho hàng vạn người; nhưng nó cũng cướp đi sinh mạng của chồng, vợ, và những đứa trẻ phải sống trên sông nước. Thường th́ đời cha lại nối tiếp đời con, cứ đeo mang theo nghiệp trôi dạt trên sông nước. Đời thương hồ nay đây, mai đó, không biết đâu là bến bờ, lênh đênh như cánh lục b́nh trên sông. H́nh ảnh ghe thuyền bây giờ c̣n là ước mơ vượt thoát chế độ cộng sản, gợi nhắc đến biệt ly tan tác trong triệu con tim.

Mùa biển êm hay mùa biển động, người ta vẫn ra đi!

Giờ này đây, bao con thuyền mong manh đang đưa thuyền nhân lênh đênh vượt đại dương t́m đến bến bờ tự do…

. . .

- Giờ c̣n tụi ḿnh...

Vũ nói lầm thầm như nói một ḿnh, rồi bỏ lửng.

Cũng như bạn ḿnh, thật khổ tâm khi chọn con đường ra đi, rời bỏ quê hương cùng thân bằng quyến thuộc. Một lần đi là một lần vĩnh biệt, sao không khỏi đớn đau. Ra đi là ngh́n trùng cách biệt; biết đến bao giờ mới được trở về, đón xuân có trọn vẹn ư nghĩa mùa xuân trên quê hương!

Chúng tôi yên lặng, nh́n theo khói thuốc. Khói thuốc cuốn bay theo gió. Chợt nghe khói thuốc như vương cay đôi mắt. Hai đứa tôi nh́n theo bóng dáng chiếc ghe ngoài sông xa dần, ḷng chập chùng với lắm ưu tư.

Xuân sắp về!

Mùa xuân vẫn về trong không gian, trong mùa màng, nhưng đă không về với “đại thắng mùa xuân” của đảng. Xuân quê hương đă không c̣n trên quê hương Việt Nam, đă không về trong ḷng người!

Dọc theo hai bên bờ sông, đây đó từng rặng dừa nước xanh mướt. Đám lục b́nh c̣n vướng víu với hàng lau, lao chao nhấp nhô theo gợn sóng đùa vào. Những mảng lục b́nh ngoài khơi, lững lờ theo vận nước đang đổi chiều trôi ra cửa biển…

(Kế tiếp: Chương 3 – Con Thuyền)

Bùi Đức Tính

Audio: Thuyền Đời - Chương 2:

 

 

 

 


Bùi Đức Tính

Tập Truyện Thuyền Đời

Chương 1 - Ḍng sông quê hương - Audio
Chương 2 - Xuân quê hương - Audio
Chương 3 - Con thuyền - Audio
Chương 4 - Cuộc đời - Audio
Chương 5 - Đêm vẫn đen - Audio
Chương 6 - Chuyến đi cuối nămAudio
Chương 7 - Rồi Tết lại đến - Audio
Chương 8 - C̣n thương quê hương tôi - Audio
Chương 9 - Nhớ cả trời Việt Nam - Audio
Chương 10 - Một lần đi - Audio
Chương 11 - Từ ḍng sông này - Audio


Passage to Freedom  
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân  
Tết  
Hồi Kư Thuyền Đời của nhà văn Bùi Đức Tính  
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long   
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  Audio
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Mùa hè đỏ lửa  
Có chuyến bay  
Lời ca
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Tết