Trời tờ mờ sáng, lớp sương mỏng chưa tan, hãy còn nằm lững lờ bên mặt nước như nấng níu với dòng sông, ôm ấp người tình còn yên bình trong giấc nồng. Bên kia sông, chiếc xuồng chở nước của chú Sáu bên chân cầu, khẽ lay động theo cơn sóng nhỏ đùa vào. Chiếc xuồng của chú Sáu nhắc nhở tôi về nhu cầu nước ngọt cho chuyến hành trình tối nay. Tôi khòm xuống khung cửa trên nóc mui, nói với bạn mình bên dưới hầm máy:

- Vũ! tụi mình cần thêm nước.

Nước mà tôi nói là “nước ngọt.” Trong vùng gần biển, nước trong sông có vị biển mặn và hơi đắng. Khi nấu ăn, uống nước người ta cần loại nước sạch trong, không mặn chất muối của biển, thường được gọi là “nước ngọt,” đối nghịch với chữ “nước mặn.”

Ngước lên, nhìn tôi bên trên mui tàu, Vũ gật đầu, hiểu ý:

- Ừ, đúng vậy. Hôm qua, tao có dặn thằng Hải nhắn chú Sáu sáng nay chở nước tới tàu mình. Chắc tụi mình phải tìm Hải hay ngó chừng mà gọi chú Sáu ....

Vũ lau sạch cái chìa khóa rồi để trở lại nhóm dụng cụ tháo ráp máy. Leo lên mui ngồi với bạn mình, ngó trở xuống hầm máy, Vũ có vẻ vừa ý lắm:

- Vậy được rồi!

Tôi gật đầu, mỉm cười đồng tình với bạn mình. Cứ để nắp máy và các bộ phận lặt vặt bày tùm lum ra như vậy cho giống máy đang còn hư. Nhiều món đồ chỉ là phụ tùng mang theo ghe, phòng khi cần thay thế. Chúng tôi bày ra cho thấy bề bộn thêm, nhưng không cần ráp vào máy. Trưa nay, chúng tôi xúm vào ráp lại máy là động cơ sẽ chạy được ngay.

Nóc mui còn đọng ướt sương đêm qua, loáng thoáng hơi lạnh và ướt da chân để trần. Vũ rút hai chân lên trên băng ghế, cho khô ráo và dễ chịu hơn, ngồi ôm gối co ro như tôi cho ấm. Móc điếu thuốc gắn lên môi, Vũ bật lửa đốt thuốc và hít một hơi thuốc thật dài. Bạn tôi tư lự nhìn theo làn gió cuốn khói thuốc bay tan loãng ra ngoài sông. Ngồi kế bên bạn mình, tôi cũng lẳng lặng hút thuốc, bâng khuâng với những ưu tư trong lòng. Ai cũng mong muốn trốn đi, nhưng phải rời bỏ quê hương cùng gia đình và thân quyến để ra đi, thì làm sao không thấy luyến tiếc, xót đau.

Nghe tiếng nước khua phía cầu tàu, ngó thấy chiếc xuồng của Hải đang chèo tới. Tôi đứng dậy, vẫy tay ra hiệu và lên tiếng gọi. Hải nghe thấy, chèo nhanh tới, cột xuồng vào chân cầu rồi chạy lên mui tàu. Thằng bé cười tươi, rối rít thăm hỏi:

- Đi uống cà-phê chưa hai anh?

Vũ thở dài, ra vẻ buồn bã, lừ đừ than thở:

- Máy hư!... ghe nằm bến hổm nay!... tiền đâu mà cà-phê, mậy?

Hải quen thuộc chiếc ghe như nhà của mình, khom người kéo cuộn đệm để bên dưới băng ghế, trải ra trên nóc mui và ngồi bệt xuống. Nó ngó Vũ có vẻ như cảm thông, rồi lên giọng khuyên giảng:

- Lo gì mấy anh!... “trời sinh doi, sinh cỏ” mà!

Tự dưng nghe cái lối nói rất người lớn, nhưng từ miệng một thiếu niên, nó ngồ ngộ và thật dễ thương. Và rồi, tôi muốn bật cười khi thấy Vũ trợn mắt làm mặt giận, rầy rà thằng Hải:

- Bộ tụi tao là thú vật, là con doi, là trâu, bò sao ăn cỏ mà sống hả mậy?

Hải cười hề hề, giả lả, giải thích:

- Thì tui… tui nghe bà nội tui, ơ… dới lại mấy người hàng xóm hay nói dậy mà,... tui tính nói cho mấy anh vui... cho bớt lo mà, chứ ai mà dám nói hai anh là... con gì đâu...

Hải dừng lại, cười thật tươi:

- Coi tui nè, sáng giờ tui chèo lòng vòng, ế thấy bà!... có ai kêu xuồng tui đâu, chưa có cắc bạc nào mà tui cũng cười được dậy!

Vũ vói tay lật cái nón rơm vành rách te tua của Hải lên, thân mật xoa vò mớ tóc dài bù xù của thằng bé:

- Lớn thêm lên, chú em mới biết thế nào là hết vui được, khi không kiếm ra tiền mua gạo.... còn có bà nội cho ăn cơm nên chưa biết lo!... Sao, Bà khỏe hong?

Hải đội lại cái nón rơm, ngó qua nhà mình bên kia sông:

- Bả bị cảm bịnh gì đó hỏng biết mà ho um sùm cả đêm,... sáng ra bả gánh rau lội ra chợ hồi tui chưa thức lận, hỏng biết bả có khỏe hong nữa!

- Thì đó! Tao mới nói với mày mà! Người lớn phải ráng chịu cực, chịu khổ, có bịnh cũng phải ráng mà sớm hôm lội đi kiếm tiền, kiếm cơm gạo!... Mình đâu phải trâu, bò hay con doi mà ăn cỏ để sống được!

Vũ móc bóp, lấy tiền đưa cho Hải.

Nó đưa tay cầm lấy, mắt tươi vui nhưng ngạc nhiên, nên ngần ngừ chưa cất đi:

- Sao như không... anh chơi…”sộp”, khơi khơi, cho em nhiều tiền quá dậy?

Tôi nháy mắt, mỉm cười với bạn mình; khi nghe Hải xưng em thật ngọt ngào. Cậu bé cảm động và gần gũi với Vũ như là anh trai của mình. Vũ giữ cảm xúc trong lòng, làm mặt nghiêm trọng, chỉ chiếc xuồng của chú Sáu bên kia sông:

- Tao có cho em nào khơi khơi đâu? Tiền công chèo qua sông đó!... Mày chịu khó chèo qua gặp chú Sáu, nói với chú Sáu chở nước cho ghe tụi tao...

Hải kêu lên:

- Dạ! Đúng rồi! Hôm qua anh có dặn em... nhưng mà anh đưa chi nhiều quá vậy? Hơn cả tuần chèo xuồng luôn!

Vũ cười dễ dãi:

- Cất đi! dìa đưa bà, phụ bà mà mua gạo... và mua thuốc cho bà uống, cho mau hết bịnh. Nè, chèo lẹ qua bển gặp chú Sáu đi, hong thôi ổng bơi đi mất bây giờ!

- Dạ, em đi liền!

Hải vui mừng cất tiền vào túi, rồi chạy lẹ xuống bến, lấy chiếc xuồng. Lúc chèo ngang Vũ và tôi, nó còn ráng căn dặn:

- Chừng nào ghe chạy được, có đi lấy nước đá thì mấy anh nhớ kêu tụi em theo phụ nghen!

Vũ khoát tay hối:

- Rồi! Nhớ mà!... Tụi tao có khi nào quên tụi em hay tụi bây đâu mà lo... Chèo lẹ đi! Chú Sáu ổng mà bơi đi xa theo ổng mệt lắm đó!

- Dạ! Dạ!... Nhớ kêu tụi em nghen mấy anh!

Hải hối hả chèo sang xuồng nước ngọt của chú Sáu mà miệng thì vẫn ráng dặn dò đừng quên tụi nó.

Thật vậy, như Vũ nói, chúng tôi làm sao quên được Hải và nhóm trẻ chèo xuồng. Và sẽ không thể quên mấy đứa trẻ này!

Đầu đôi chèo cao hơn vóc dáng nhỏ thó của Hải. Thấy Hải vươn hai cánh tay gầy như ống tre vội vàng chèo qua sông, Vũ và tôi nhìn nhau khẽ thở dài. Tội nghiệp cho tuổi trẻ Việt Nam trong chế độ cộng sản khắc nghiệt, mới từng tuổi này phải bỏ học, phải chèo xuồng kiếm tiền để phụ gia đình.
Chúng tôi nhìn theo Hải, thay lời từ biệt!

. . .

Hút tàn điếu thuốc, Vũ lại đốt tiếp điếu thuốc khác.

Nhìn Vũ cứ hút thuốc liên tục, tôi biết bạn mình rất bồn chồn lo lắng. Nhiều thứ lo lắng lắm. Lo cho vợ với đứa con còn bồng bế, trong chuyến ra đi đêm nay.

Tôi nghĩ là nên khuyên bạn mình đi sớm lên chợ, cho khuây khỏa; tốt hơn là ngồi đây chờ anh Ba đem tin xuống. Hơn nữa, tin tức và bàn tính công việc đón rước người, nói chuyện trên quán hay ngoài chợ, nơi có đông người lạ mặt vẫn ít bị để ý, hơn là bàn tính ở dưới ghe. Tôi cố ý nói lớn cho các ghe bên cạnh cùng nghe:

- Ê Vũ, hình như chuyến xe đầu cũng sắp tới bến rồi. Tao coi ghe, mày nên thả lên bến để đón anh Ba với mấy cháu… đi ăn sáng cho vui...

Vũ hiểu ý, đứng dậy đi lấy cái giỏ xách:

- Ừ!... tao đi chợ mua đồ ăn trưa với anh Ba luôn thể...

Vũ đi lên chợ. Tôi quay xuống dọn dẹp lòng tàu và chuẩn bị cái thùng phuy 200 lít, dung chứa nước ngọt, đặt gần ngoài mũi ghe.

“Đổi nước… hơ ơ!”

Tiếng rao mời đổi nước, tức là mua nước ngọt thật gần. Tiếng “hơ” sau cuối kéo dài ra, với âm điệu cao thấy đặc biệt và quen thuộc của chú Sáu, rất dễ nhận ra. Đúng là xuồng “đổi nước” của chú Sáu, mà Hải đã giúp gọi đem nước đến. Tôi leo nhanh lên mui ghe để vẫy tay đón xuồng nước của chú Sáu.

Ở vùng nước mặn có loại xuồng chở cái thùng phuy thật lớn, chiếm hết khoang xuồng nhỏ hẹp. Sức nặng của 200 lít nước trong thùng khiến chiếc xuồng chỉ còn nổi lấp xấp trên mặt sông. Người bơi phải khéo giữ thăng bằng cho xuồng đừng bị lật chìm, và thỉnh thoảng cất tiếng rao mời “đổi nước!” Cái thùng “phuy” chứa nước sạch, để cung cấp “nước ngọt” cho người sống ven sông trong vùng nước mặn. Họ làm cái nghề ít vốn này, lấy công sức chở nước để “đổi” lấy tiền mà sinh sống và gọi là “đổi nước”.

Hồi mới nghe qua tiếng rao mời “đổi nước” trên sông, cũng như hầu hết những người chưa từng nghe biết, tôi rất ngạc nhiên, thắc mắc!

Chở nước đi bán lấy tiền, tại sao không gọi là “bán nước” cho dễ hiểu?

Biết ra, với truyền thống chống xâm lược suốt hàng ngàn năm qua, dù là người dân lao động trong thôn làng, họ cũng hiểu rằng hai chữ “bán nước”, đồng âm và trùng nghĩa với "bán Tổ Quốc". Đấy là một điều vô cùng sỉ nhục. Tinh thần quý trọng Tổ Quốc, không cho phép dân mình dùng chữ “bán nước”, dù là tên gọi cho cái nghề tầm thường, bơi xuồng chở nước sạch đi bán cho người dân sống dọc theo bờ sông ở vùng nước mặn. Vì chữ “bán nước” nghe rất là trái tai đối với công dân, nên họ đổi sang chữ “đổi nước”. Đồng bào mình không ai chịu rao gọi “bán nước”!

Trong khi đó, đảng cộng sản tự xem mình là tối cao, trên cả Tổ quốc. Tham vọng và quyền lợi cá nhân của các đảng viên cao hơn quyền lợi của dân tộc. Đảng còn thì các đảng viên cầm quyền còn cơ hội để tiếp tục vơ vét tài sản của nhân dân. Chính vì thế, tập đoàn lãnh đạo cộng sản đã dẹp bỏ lương tri, bất chấp sỉ nhục để cắt đất bán biển cho Trung Cộng, hầu được mẫu quốc phương Bắc che chở.

Bây giờ cứ nhắc đến danh xưng “Nhà Nước” là lập tức đồng bào mình liên tưởng ngay đến hai chữ “bán nước.” Cứ nhắc đến Hoàng Sa, Trường Sa, thì đồng bào lại không thể quên được cái văn thư mà Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã gửi cho Trung Cộng vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, với nội dung hiến dâng các biển đảo cho Trung Cộng. Người Việt đã không kiềm được nỗi uất hận để gọi cái văn thư ấy là “công hàm bán nước”!

Nhưng không chỉ có cái văn thư đó. Đảng và nhà nước còn có nhiều hành động tiếp tay cho Trung Cộng. Chẳng hạn như bản đồ thế giới của bộ Tổng Tham Mưu, hay bản đồ của Cục Đo Đạc và Phủ Thủ Tướng cho in ấn, đều có chú thích câu: “Các đảo ở Nam Hải, bao gồm cả quần đảo Nam Sa, tức Trường Sa, là thuộc lãnh thổ Trung Quốc.”

Độc hại nhất là họ đã in trong sách giáo khoa môn địa lý, giảng dạy cho học sinh như sau: “Các đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa) Nam Sa (tức Trường Sa) cùng đảo Hải Nam và đảo Đài Loan… đã tạo thành một bức tường thành bảo vệ đại lục Trung Quốc.”

Năm 1974, khi hải quân Trung Cộng tấn công lực lượng bảo vệ Hoàng Sa của quân đội Việt Nam Cộng Hòa thì nhà cầm quyền Hà Nội không có một lời phản đối, và còn đồng thuận với hành vi xâm lấn đó.

Ông bà mình hay nói: “Máu chảy ruột mềm.” Nhưng nhà cầm quyền Hà Nội đã bị chủ nghĩa cộng sản hủy diệt lương tri, không còn chút tình nghĩa đồng bào. Trong khi máu đồng bào mình đang chan hòa trên Biển Đông, thì đảng cộng sản ở Hà Nội thản nhiên ăn mừng và chúc tụng các đồng chí Trung Cộng đã chiếm được Hoàng Sa của dân tộc Việt Nam...

. . .

Chiếc xuồng chở cái thùng phuy còn đầy nước, nặng khẳm, nằm lấp lé mặt sông.

Tôi ái ngại nhìn người đàn ông đã trọng tuổi, dáng nhỏ gầy vừa giữ thăng bằng cho chiếc xuồng, vừa múc chuyền từng thùng nước lên cho tôi. Đến tuổi làm ông ngoại, ông nội; chú Sáu còn vất vả lo tìm từng miếng ăn cho gia đình.

Sang nước cạn đến phân nửa thùng phuy, thì xuồng bớt nặng nên nổi cao hơn trên mặt sông, dễ giữ thăng bằng nên chú Sáu múc nước chuyển cho tôi nhanh lẹ hơn. Thêm một lúc thì hết nước trong phuy. Chú Sáu nghỉ tay, kéo khăn lau mồ hôi trên mặt, vui vẻ hỏi thăm:

- Bữa nay chạy ra trạm nào hả cậu?

Tôi trả tiền cho chú Sáu:

- Dạ, máy hư hai ngày rồi chú Sáu ơi! Chưa biết chừng nào mới chạy được… Bữa nay, tụi cháu còn đậu đây để sửa máy nên cần xài nhiều nước. Khoảng 12 giờ trưa nay, chú làm ơn trở lại cho tụi cháu “đổi” thêm nước nghen chú?

- Ừ! Trưa tui chở nước lợi ghe mấy cậu. Thôi mấy anh em ráng lo sửa cho xong đi nghen!

Chú Sáu vui vẻ nhận lời. Tựa tay vào thành ghe của chúng tôi, chú đẩy cho chiếc xuồng của mình tách ra xa.

- Tôi tui đi nghen, 12 giờ tui quay lợi!

Chú Sáu nói, rồi chèo đi. Chiếc xuồng chở nước bây giờ trông nhẹ hẳn ra. Nó lướt dễ dàng trên mặt sông. Bóng dáng chú Sáu lưng trần khom lưng chèo thuyền khuất xa đi, nhanh chóng biến mất trên dòng sông hiền hòa. Đây, thêm một hình ảnh quê hương thân yêu khác mà tôi mong muốn mang theo và trân trọng mãi mãi.

Sau khi chuyển hết nước của chú Sáu sang các thùng chứa 20 lít, tôi cất giấu đi những thùng chứa nước ngọt quá nhiều và có vẻ bất thường đó. Phuy chứa nước ngọt của chúng tôi giờ đã cạn, sẵn sàng chờ chú Sáu mang thêm nước, cho đầy thùng trở lại. Tôi loanh quanh dọn dẹp ghe và chờ tin tức từ Anh Ba và Vũ.

. . .

Nước từ biển đang đổ vào!

Nước thật đầy sông, vượt qua mép bờ, dòng sông trải rộng ra mênh mông; hai bên bờ trông càng cách xa nhau hơn.

Từ dòng sông này, không còn bao xa sẽ là cửa biển.

Cửa biển như vòng tay mở rộng, đón chào tàu thuyền trở về sau chuyến hải hành.

Từ khi miền Nam tự do bị cộng sản cưỡng chiếm, cửa biển còn là vùng trời và nước đầy ước mơ của người dân. Ước mơ được cơ hội vượt thoát, tìm đến đất nước tự do. Cũng nơi đây, biển nước đã cuộn chôn vào lòng đại dương biết bao xác thân người vượt biển bạc mệnh, đã chết vì đạn thù của cộng sản, vì sóng gió ngoài khơi. Ra đi trong những con thuyền mong manh, không ai dám tin chắc là mình sẽ đến được bến bờ như ước mơ!

Đây là ngày cuối cùng của chúng tôi trên vùng biển quê hương Việt Nam!

Tôi bồi hồi lắng nghe tiếng nước và sự im lặng của dòng sông.

Sự im lặng ngậm ngùi!

Có lẽ đây là lần cuối cùng tôi được gặp gỡ, trò chuyện với Hải, chú Sáu và những người thân quen quanh đây. Tôi không thể mang theo dòng sông này, với những con đường quê hương yêu dấu, những vòng tay rộng mở và tất cả những hình ảnh thương yêu, cùng chúng tôi vượt biển đến tự do trong đêm nay!

Sau khi rời cửa biển, chuyến đi đêm nay sẽ là lần cuối cùng của chúng tôi, dù sống hay chết. Cửa biển Việt Nam với những vòng tay rộng mở, sẽ cảm thông cùng mong ước của chúng tôi, không còn phải chào đón chiếc ghe quay trở lại với chế độ khắc nghiệt này.

Từ dòng sông này, sau khi rời cửa biển, hành trình đêm nay sẽ là chuyến ra khơi lần cuối cùng, dù còn sống hay đã chết. Các cửa biển Việt Nam sẽ thông cảm cùng niềm mong muốn, và lượng thứ cho chiếc ghe và thuyền nhân: chúng tôi không thể quay trở lại với vòng tay rộng mở chào đón, để phải tiếp tục sống dưới chế độ cộng sản.

Bùi Đức Tính
 

(Kế tiếp: Chương 12 – Nghìn Trùng Cách Biệt)

 

 


Bùi Đức Tính

Tập Truyện Thuyền Đời

Chương 1 - Dòng sông quê hương - Audio
Chương 2 - Xuân quê hương - Audio
Chương 3 - Con thuyền - Audio
Chương 4 - Cuộc đời - Audio
Chương 5 - Đêm vẫn đen - Audio
Chương 6 - Chuyến đi cuối nămAudio
Chương 7 - Rồi Tết lại đến - Audio
Chương 8 - Còn thương quê hương tôi - Audio
Chương 9 - Nhớ cả trời Việt Nam - Audio
Chương 10 - Một lần đi - Audio
Chương 11 - Từ dòng sông này - Audio


Passage to Freedom  
Đất nước tôi!
Còn nhớ mùa xuân  
Tết  
Hồi Ký Thuyền Đời của nhà văn Bùi Đức Tính  
Dòng sông quê hương - Dòng Cửu Long   
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  Audio
Trong âm thầm còn nhớ ai! - Audio  
Sài Gòn là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng nghìn cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
Còn nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đò - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Nghìn trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - Tìm về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài Gòn Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện còn  
Con chim Hoàng Yến Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
Còn thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
Còn nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng nghìn cay  
Con đường tôi về
Hãy còn đó niềm tin
Chiều ra biển  
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Mùa hè đỏ lửa  
Có chuyến bay  
Lời ca
Để nhớ để quên
Cờ mình!
Khắc chữ Tự Do
Tết