Kỳ trước, Chương 6: Chuyến Đi Cuối Năm

Ghe chạy chậm. Tiếng máy dầu nghe lưa thưa, thật buồn. Chạy chậm như thả trôi theo dòng nước, và rồi chúng tôi cũng qua dần, rời vàm lục bình. Tôi theo ánh mắt của dì Năm và dì Bảy ngoài mũi ghe, nhìn những vệt sóng đang rì rào gọi nhau tìm kiếm ven bờ. Không biết thi thể của người bất hạnh ấy đang trôi dạt hay đã chìm nơi đâu?

Có phải chăng…

Thêm một mùa xuân hy vọng đã phải chìm vào mênh mông!

Rồi đây, mùa xuân có còn trở về trong ánh mắt tiếc thương của người thân còn sót lại?

Hay mỗi độ xuân về, mâm cơm cúng chiều Rước Ông Bà, còn là để tưởng nhớ ngày giỗ thân quyến và ánh nến trắng tang thương lại đốt cháy thiệp xuân hồng!

Mắt nghe cay xót.

Dòng nước đổ ra biển vẫn đang cuộn dậy, như sôi sục sóng uất hờn…

Đây, Chương 7: Rồi Tết Lại Đến

. . .

Tiếng nói ồn ào bên ngoài làm tôi tỉnh giấc. Tôi đoán là người trên bến chuyện trò với nhau, chắc không có gì đáng lo cho lắm. Tuy vậy, theo thói quen, tôi vén nóp mà nhìn cho biết để an tâm hơn. Bàn tay chạm vào chỗ nóp bị sương thấm cảm thấy ươn ướt, mát lạnh. Hôm nay không có chuyến ra biển, và sáng này cũng không có việc gì bận rộn. Nhưng đã thức dậy thì khó mà ngủ trở lại ngay. Lại thêm, ngó ra bên ngoài thấy trời đã sáng. Tôi chui ra khỏi nóp, dọn dẹp chỗ ngủ trên mui.

Ánh ban mai hãy còn dịu mát. Một ngày mới đã khởi đầu với bình an và thanh thản. Hôm nay còn là một ngày mới của năm mới, ngày Mồng Một Tết. Thời gian đã đưa chúng tôi sang một năm mới. Sương xuống suốt đêm thấm vào cọng bàng dệt nóp, làm ướt đẫm cả mảng lớn và có màu thâm nâu. Tôi trải cái nóp lên trên băng ghế ngồi lái ghe, rồi cột xuống chân ghế cho nó đừng bay xuống sông, để phơi cho mau khô. Cái nóp dệt bằng đệm bàng rất hữu dụng cho những lúc phải ngủ ngoài trời. Nhất là lúc có nhiều muỗi, như đêm hôm qua. Người lớn lên với đời sống an nhàn, hay chỉ sinh sống ở tỉnh thành, thường ít có dịp để nghe biết qua tên gọi cái “Nóp” và cỏ “Bàng”.

Bàng là loại cỏ cao hơn cả mét, chỉ có ở miền Tây, mọc nơi đất ngập nước phèn chua và nhiễm mặn, như vùng Nhà Bàng ở Thất Sơn, các vùng khác như Cà Mau, Hà Tiên... Trái lại, cỏ lác (người miền Bắc gọi là cói) mọc khắp Bắc, Trung và Nam; từ vùng sông Hồng, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, xuống Đồng Tháp Mười ở miền Nam. Sợi lác bán có giá hơn cỏ bàng, thường dùng để dệt chiếu. Dân miền Tây, vùng đồng bằng sông Cửu Long, lấy cỏ bàng đập dẹp, phơi khô, để đan, dệt thành những vật dụng như túi xách, đệm…

Tấm đệm có hình vuông, mỗi cạnh 1 mét 7 tấc. Đệm bàng rẻ tiền, mà lại có đặc điểm là dai và mềm hơn manh chiếu lác. Đệm dệt bằng cỏ bàng thường dùng cho các công việc tạp nhạp ngoài đồng áng và làm nóp. Làm thành cái nóp thì giản dị lắm. Giản dị như hình dạng chữ nhật của cái nóp. Lấy miếng đệm vuông, chừa ba tấc, gấp phần đệm còn lại làm đôi rồi may kín hai đầu, để trống một cạnh dài, thế là xong. Tấm đệm vuông bây giờ trông giống như cái bao thư lớn, và được gọi là cái “Nóp.” Sau khi chui vào nóp nằm, người ta tự kéo ba tấc mép đệm dư ra mà chèn xuống lưng, thành cái túi ngủ kín cả bốn phía. Nằm trong nóp đệm bàng, muỗi không chui vô được và kim của chúng nó không thể nào đâm xuyên qua lớp đệm bằng cỏ bàng. Chưa quen ngủ trong nóp, lúc ban đầu cảm thấy bị ngộp hơi. Tuy vậy, một lúc sau rồi quen, hơi thở dễ chịu hơn.

Có 2 loại nóp khác nhau, đó là nóp “Hai Đệm” và nóp “Đôi”. Nóp “Hai Đệm” được dệt rộng hơn, và chừa mép bằng chiều ngang của nóp; để khi chèn mép vào hết bên dưới lưng, người ta được nằm trên hai lớp đệm, cảm thấy êm và ấm lưng hơn. Còn loại nóp “Đôi” thì như tên gọi. Nó rộng gấp đôi, thường dành cho hai người ngủ chung. Thường thì, chỉ có vợ chồng hay tình cảm thắm thiết lắm mới chịu hao tốn, hay chịu khó quảy theo cái nóp cồng kềnh, nặng gấp đôi. Và nhất là chịu nằm ngủ chung đụng với nhau. Hai người ngủ chung nóp “Đôi” mà lại là loại “Hai Đệm”, thì có cái thú vị riêng, nhưng cần khéo léo hơn. Cả hai phải đồng lòng nương với nhau, cùng lăn và cùng trở, mới luồn trọn vẹn phần mép nóp vào bên dưới lưng cho cả hai. Cho dù nằm dưới vòm lá mà trống bốn bề hay giữa trời đầy sao, bên trong nóp vẫn thấy kín bưng, một thế giới riêng tư của cả hai.

Nóp là mùng và là chiếu, và cũng là lều của đồng bào miền Tây, của dân nghèo. Nóp được dùng từ trên đất bờ, trên ruộng đồng, xuống ghe thuyền lênh đênh theo dòng sông, con rạch. Có hơn cả trăm năm, nóp đã là bạn đồng hành không thể thiếu của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhất là những nơi hoang dã có nhiều muỗi, mòng, rắn, rết, … nơi mà người dân không khả năng mua sắm mùng, hay vì sinh kế khổ cực phải nay đây mai đó, ngủ lây lất nơi đồng hoang, cỏ dại, với “màn trời chiếu đất”.
. . .

Mấy đêm nay muỗi nhiều quá. Nhiều như người ta hay nói là “muỗi nhiều như trấu”!

Khởi từ đêm 28 Tết, cả đám chúng nó tụ họp về khu bến tàu này. Lúc trời mới chạng vạng thì bè lũ khát máu chúng nó đã túa ra. Muỗi nơi đây thô kệch, chớ không thanh nhã, ẻo lả… như muỗi tỉnh thành hay muỗi Sài Gòn. Đã thế, chúng nó lại rất hung hăng, tàn bạo như loài quỉ đỏ khát máu. Chúng tìm mọi cách, mọi kẽ hở để hút lấy máu. Cứ đưa hai tay đập vào nhau là có cả chục con bị chết, và hàng chục con say máu liều mạng phóng tới. Tôi phải chui vào nóp cho yên thân. Nằm trên băng ghế và đắp qua cái mềm thì thấy an tâm, dễ ngủ hơn là chui vào trong nóp. Bởi nghe tiếng động lạ, tôi chỉ cần hé mép mền là nhìn thấy và biết chuyện gì. Cái nóp kín mít làm giấc ngủ bị chập chờn trong lo lắng, vì khó thấy được cảnh tượng quanh mình và trên bến tàu. Tôi có cái lo lắng của người dùng giấy tờ giả, di chuyển và cư trú bất hợp pháp, nên rục rịch khó ngủ yên giấc. Tai cứ phải lắng nghe tiếng động và tiếng người. Nghe xem có phải là do công an đi lùng xét khu bến tàu hay không, để kịp thời lẩn trốn xuống sông. Nằm trong nóp, tôi mơ màng trong chập chờn, lo lắng.

Vũ cũng thức rồi. Bạn tôi leo lên đứng bên trên hầm máy, ló người qua mui ghe, đốt thuốc hút, rồi nhìn quanh quẩn một lúc:

- Vắng quá há mậy!

Ngó lòng vòng từ trên bến tàu xuống dòng sông. Buổi sáng hôm nay trông buồn và vắng thật, tôi lừng khừng nói theo bạn mình:

- Ừ! … Vắng thiệt…!

Sáng nay, bến tàu vắng lặng!

Không chuyến đi và không chuyến về, bến tàu yên lặng rất khác thường. Thường ngày, bến tàu ồn ào gần như suốt cả ngày và đêm. Tiếng người, tiếng máy tàu, tiếng hàng hóa chuyển lên nhà máy, tiếng thùng không trống rỗng, kéo đi vang dội đì đùng…

Trưa hôm qua, chuyến chở tôm về công ty của ghe chú Tài là chuyến cuối cùng trong năm. Sau đó, các quan thầy cùng nhân viên bắt đầu rỗi rãi, rôm rả ăn nhậu “Tất Niên”, hay tà tà chờ hết giờ làm việc của ngày 30.

Hôm nay ngày Tết, công ty đóng cửa nghỉ Tết. Ghe chở hàng cũng nghỉ Tết. Nhân dịp này, hầu hết các chiếc đã xong chuyến cuối, đều đã chạy về quê nhà để đón Giao Thừa và ăn Tết với thân quyến, bạn bè. Chỉ còn vài chiếc từ xa xuống đây làm ăn như ghe chúng tôi, thì nằm lại bên bến của công ty. Hai đứa tôi lẩn quẩn ở đây để coi chừng ghe. Sóng lưa thưa, rì rào. Tôi lặng nghe, nghe lòng bâng khuâng, bùi ngùi: xuân này mình lại vắng nhà!

. . .

Chiều 30, chợ thường tan sớm hơn ngày thường. Người mua thưa dần sau buổi trưa. Người bán, bán hết hay không, ai cũng mong được về nhà với gia đình. Mặt trời đứng bóng, thì những người ở xa tới nhóm chợ, đã lần lượt thu dọn hàng hóa và chèo chống về nhà, để còn lo nấu mâm cơm cúng Rước Ông Bà. Mấy chiếc xuồng nhỏ chở nặng, nằm lấp lửng mặt nước trông thấy áy náy, xót thương. Có chiếc lỉnh kỉnh các loại trái cây cùng dưa hấu. Có chiếc, mấy chậu cúc chen chúc với vạn thọ… Sau giờ ăn trưa, chợ chiều 30 thưa vắng nhanh lắm. Tội nghiệp cho những người còn ráng nấn ná để bán cho hết hàng hóa, bán đổ bán tháo cho hết. Người bán gượng vui chào khách. Ánh mắt trông chờ mời mọc, nhưng tiếng mời nghe mệt mỏi. Cuối ngày, các thứ không ai mua thì phải chở hết về nhà. Người không đủ phương tiện và thời gian để mang hết về, thì đành bỏ hàng hóa lại tại chợ. Đây đó, những chậu hoa kém may mắn bị bỏ lại, và cũng không được ai lấy về chưng Tết. Chúng nghiêng ngả, tả tơi bên đám rác rưởi, trông thật tội nghiệp. Trời về chiều u buồn, càng buồn thảm hơn, khi nhìn cảnh buôn bán bị ế ẩm, trong buổi chợ chiều 30 Tết.

Đêm hôm qua, phút Giao Thừa vẫn đến theo vòng xoay của thời gian. Giao Thừa đã đến trong âm thầm, vắng lặng. Từ tháng Tư năm 1975, quân cộng sản đã chiếm được miền Nam. Chúng đã chiếm đoạt được tự do cùng đất nước của người dân miền Nam. Nhưng, chúng đã chưa và sẽ không bao giờ chiếm được lòng người yêu chuộng tự do. Thừa biết lòng dân căm thù cộng sản, kẻ chiến thắng cứ luôn nơm nớp sợ hãi mọi người và mọi thứ chung quanh, sợ cả tiếng pháo mừng xuân. Đêm Giao Thừa năm nay cũng vẫn không tiếng pháo đón mừng Năm Mới.

Rồi Tết lại đến!

Sáng nay, ngày Đầu Năm, dân chúng không nhóm chợ. Nãy giờ lèo tèo vài chiếc xuồng chèo ra hướng chợ, nhưng không thấy chở theo hàng hóa để bán buôn chi cả. Người ta chỉ đi đâu đó mà thôi.

Nước đã vào đầy sông. Nước trên sông gần như đứng yên một chỗ, chờ lúc đổi chiều. Sông nước tĩnh lặng. Dòng sông lúc này lững lờ, ngừng trôi chảy, trông như mặt hồ; trông như dòng sông Hương của Huế.

“Hò ơ… Con sông dùng dằng, con sông chảy.
Sông chảy vào lòng… ơ… ơ…
Hò ơ… Sông chảy vào lòng, nên Huế rất sâu…”


Con sông dùng dằng.

Người muốn rời Huế, dùng dằng không bước chân đi được!

Sông chảy vào lòng sông, như sông chảy vào lòng người. Mà lòng người Huế thì rất sâu, rất đậm trong vui buồn, trong nhung nhớ, trong yêu thương… Để rồi, từ sau Tết năm Mậu Thân ở Huế, câu hò còn làm người ta liên tưởng đến xác người bị thảm sát chưa được vớt lên hết, còn nằm lại trong lòng sông; đã làm cho dòng sông Hương đã phải dùng dằng, quyến luyến, không muốn chảy đi đâu cả.

Sông Hương!

Đoạn sông Hương ở cầu Trường Tiền, nước chảy chậm lắm, gần như không nhìn thấy, cứ tưởng là dòng sông đứng yên một chỗ, trông giống cái hồ lớn rộng, thật yên bình. Qua khỏi cồn Hến, sông Hương lại quanh quặt về hướng tây-bắc, hai nhánh sông Hương nhập lại. Vùng đất nơi đây là đất bồi, rất tốt, gọi là Bãi Dâu.

Bãi Dâu là một trong các nơi đã bị quân giặc chiếm thành phố Huế vào Tết Mậu Thân, biến thành bãi tha ma kinh hoàng với các hố chôn người tập thể.

Huế bị tang thương nhất!

Tang thương từ Đêm Mồng Một Tết!

Giặc cộng tràn vào thành phố Huế và chiếm đóng suốt 25 ngày đêm. Chúng đã biến Huế thành địa ngục trần gian. Chỉ đọc một đoạn ngắn của nhà văn Nhã Ca trong chương có tựa đề là “Tựa Nhỏ: Viết Để Chịu Tội”, người ta đã đủ phải kinh khiếp trước cái dã man của những kẻ xưng danh là “giải phóng” đã tàn sát đồng bào mình.

Nhã Ca đã xót xa kể lại rằng:

“Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sài Gòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dắt súng lục bên hông, hăng hái đi lùng người này, bắt người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên là Mậu Tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc:

- Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm!

Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ….”

Người tên Đoan, mà Nhã Ca nhắc đến, chính là Nguyễn Thị Đoan Trinh. Trinh là sinh viên Dược, Sài Gòn, về Huế ăn Tết, “để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế.”

Còn tên Đắc, chính là Nguyễn Đắc Xuân. Xuân là sinh viên Sư Phạm, đã theo quân cộng sản. Tết Mậu Thân, Xuân trở về Huế, chỉ huy các cái như: Lực Lượng Học Sinh, Sinh Viên Giải Phóng Huế… Đồng thời, Xuân cùng với Hoàng Phủ Ngọc Phan chỉ huy các Đoàn Thanh Niên Võ Trang An Ninh Bảo Vệ Khu Phố, còn gọi là Đội Tự Vệ Thành.

Lực lượng man rợ này đã gieo tang tóc kinh hoàng cho dân Huế, trong hơn ba tuần lễ chúng chiếm thành phố Huế. Xuân và Phan cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kết án tử hình hàng trăm người dân Huế…

Thế đấy!

Chỉ một đoạn ngắn trong chương “Viết Để Chịu Tội” của tác giả, về hồi ký “Giải Khăn Sô Cho Huế” của mình, Nhã Ca đã mang lại nỗi xót xa đau, cùng niềm uất hận quân cộng sản đến tột cùng.

Sau Tết Mậu Thân, đến khoảng rằm tháng Giêng, Tổng nha Thanh niên kêu gọi tham gia cứu trợ đồng bào Huế. Chủ yếu là giúp tìm xác trong các hố hầm chôn người tập thể của quân cộng sản. Máy bay C130 chở 100 sinh viên tình nguyện đáp xuống phi trường Phú Bài, thì có đoàn xe GMC của Quân Vận chở vào thành phố Huế, đưa tất cả về tạm trú trong câu lạc bộ, ở gần chợ Đông Ba. Đây là Câu Lạc Bộ về các bộ môn thể thao dưới nước nên được xây cất sát bờ sông Hương…

Huế!

Tết Mậu Thân 1968!

Nơi đây, “tôi đã thấy, tôi đã thấy”: những hố hầm cộng sản đã chôn vùi thân xác anh em, thân xác đồng bào tôi…

Nơi đây, tôi không nghe và đã không có ai “hát trên xác người”!

Tôi chỉ nghe tiếng kêu khóc thảm thiết. Có những tiếng khóc đã bị tắc nghẹn trong uất hận tột cùng!

Huế với “Những Con Đường Trắng” và dấu hờn chưa nguôi, như lời thơ của Tô Kiều Ngân:

“Ngày nay Huế có nhiều con đường trắng.
Ơi con đường trắng.
Áo chế thương đau,
Nước mắt tuôn mau.
Áo trắng ngây ngây.
Áo trắng lạnh người!”

. . .

Rồi Tết lại đến!

Tết đến gợi nhắc thảm sát Tết Mậu Thân của quân cộng sản năm 1968!

Áo trắng, giải khăn sô, nước mắt tuôn mau, uất hận hãy còn âm ỉ mãi mãi trong lòng người miền Nam!

Trống vắng dễ gợi nhắc dĩ vãng thương tâm. Tôi tìm cái gì đó làm cho khuây khỏa trong lòng:

- Ê! Tao đi lấy nước, nấu chút nước sôi…

Tôi nói với Vũ, rồi bước xuống mui ghe. Lấy cái ấm trong góc bếp, tôi đi ra thùng phuy nước ngọt ở mũi để lấy nước. Thấy vậy, Vũ rút người xuống mui, soạn ly tách, chuẩn bị pha trà để cúng và pha cà phê cho hai đứa như thường ngày.

Ngày Tết, sáng nay chúng tôi sắp thêm dĩa bánh mứt lên cái trang thờ nhỏ, trên vách mui ghe, cho có vẻ Tết. Vũ rót chun trà, ly nước lạnh, đốt ngọn đèn cầy và thắp nén nhang. Ánh nến đơn độc, lung linh. Làn khói mờ nhạt và mong manh. Lời cầu nguyện đong đầy với lòng thành. Cúng kiến xong, cà phê cũng sẵn sàng. Hai đứa dựa lưng vào vách mui, nhâm nhi vị đắng của cà phê; hương vị cà phê sáng sớm, đầu ngày. Bây giờ, trong lúc mọi thứ đã bị khan hiếm dưới chế độ cai trị khắc nghiệt của cộng sản, cái chất đắng ấy không biết chắc là từ những gì. Thế nhưng, may mắn có cà phê như sáng nay, đời còn ấm áp và hương vị lắm.

Nghe có tiếng tàu đánh cá lớn chạy tới, Vũ vói tay kéo mở cửa sổ để ngó xem. Chốc sau thì cái khối gỗ màu xám tro, to dềnh dàng, vẹt nước phóng ào qua khung cửa nhỏ.

Máy tàu chúng nó mạnh lắm, sóng cuộn dậy thật cao. Vũ và tôi nhanh tay cầm lấy ly của mình lên, cho cà phê đừng bị sóng hất đổ tạt ra ngoài, thì sóng vừa đùa vào tới. Nước ào ào cuộn dậy và xô đập vào bờ nghe đì đùng. Sóng làm ghe thuyền cột nằm trong bến tàu bị nghiêng ngả, nhồi lắc dữ dội một lúc lâu. Vũ buồn bực đóng cửa lại, ngồi tư lự hút thuốc.

Không ai đi đánh cá sáng Mồng Một Tết cả!

Chiếc tàu này không xa lạ gì với dân địa phương. Thấy nó, biết ngay đó là tàu đánh cá trá hình của công an biên phòng. Nhất là với chúng tôi, Ba Thơ và công an trên chiếc tàu này đã có lần hung hăng bắn chận ghe của ba anh em. Chúng tràn qua, hống hách lục xét ghe, và còn bắt chúng tôi phải chở Ba Thơ lùng kiếm chiếc ghe vượt biển, còn đang trốn lánh trong vùng. May là nhờ chúng tôi có lý do phải chở tôm tươi đã bị tồn kho nhiều ngày. Sợ tôm “xuất khẩu” bị hư, chúng nó mới cho ghe chạy về công ty để giao hàng.

Sáng nay, tàu “đánh cá” của công an biên phòng phóng ra cửa biển, cũng là để tìm bắt ghe thuyền vượt biên. Mùa xuân, ngày Tết, trời và biển thường yên sóng. Đã có biết bao ghe thuyền mong manh, cần nhờ vào thời tiết tốt ngày Tết để vượt đại dương. Nhưng ghe và người đã ra đi mà không hề tới bến bờ tự do…

. . .

Rồi Tết lại đến!

Khi giặc đã gây cảnh nổi trôi và lòng người hãy còn chồng chất hận đau, Tết đến gợi nhắc thêm lắm tiếc thương. Những “tiếc thương lời vắn dài” như nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã nhớ về Tết Mậu Thân tang thương, năm 1968.

Có nhiều điều muốn nói. Lời vắn, lời dài chìm lắng vào tĩnh lặng của dòng sông. Sáng nay, Tết theo thời gian lững lờ đến và lẳng lặng đi qua, không lời chúc nhau. Tết xa nhà và còn lênh đênh trên sông nước. Ngoài sông, dòng nước chưa đổi chiều để chảy ra biển, nãy giờ hãy còn nằm lặng yên. Dòng sông theo lòng người còn dùng dằng, nấn ná… Lòng người mong muốn; nhưng chưa muốn xuôi chiều ra biển, chưa muốn xa rời dòng sông quê hương và khi quê hương còn lắm đọa đày…

Người ơi xin chớ quên!

Bùi Đức Tính

(KỲ TỚI: CHƯƠNG 8 – CÒN THƯƠNG QUÊ HƯƠNG TÔI)
 

 

 

 


Bùi Đức Tính

Tập Truyện Thuyền Đời

Chương 1 - Dòng sông quê hương - Audio
Chương 2 - Xuân quê hương - Audio
Chương 3 - Con thuyền - Audio
Chương 4 - Cuộc đời - Audio
Chương 5 - Đêm vẫn đen - Audio
Chương 6 - Chuyến đi cuối nămAudio
Chương 7 - Rồi Tết lại đến - Audio
Chương 8 - Còn thương quê hương tôi - Audio
Chương 9 - Nhớ cả trời Việt Nam - Audio
Chương 10 - Một lần đi - Audio
Chương 11 - Từ dòng sông này - Audio


Passage to Freedom  
Đất nước tôi!
Còn nhớ mùa xuân  
Tết  
Hồi Ký Thuyền Đời của nhà văn Bùi Đức Tính  
Dòng sông quê hương - Dòng Cửu Long   
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  Audio
Trong âm thầm còn nhớ ai! - Audio  
Sài Gòn là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng nghìn cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
Còn nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đò - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Nghìn trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - Tìm về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài Gòn Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện còn  
Con chim Hoàng Yến Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
Còn thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
Còn nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng nghìn cay  
Con đường tôi về
Hãy còn đó niềm tin
Chiều ra biển  
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Mùa hè đỏ lửa  
Có chuyến bay  
Lời ca
Để nhớ để quên
Cờ mình!
Khắc chữ Tự Do
Tết