Thơ cũ 2024
Thơ cũ 2023
Thơ cũ 2022
Thơ cũ 2021
Thơ cũ 2020
Thơ cũ 2019
Thơ cũ 2018
Thơ cũ 2017
Thơ cũ 2016
Thơ cũ 2015
Thơ cũ 2014
Thơ cũ 2013
Thơ cũ 2012
Thơ cũ từ 2011...
Có một tháng Tư -
Audio
Lính cao nguyên
-
Audio
Tôi sẽ đi thăm…
Nỗi
buồn tháng Tư đen
"Cư An
Tư Nguy!" lời vàng ta ghi khắc
Thôi!
Trở
về trường cũ
Văn thơ mất chó
Nhớ ngày
quốc hận 30/04/1975
Tháng Tư
Tháng Tư Đen !
Nỗi buồn tháng Tư
Tháng Tư nô lệ
Thay hội trăng rằm
Chớp bể mưa nguồn
Đã là thứ mấy
của cuộc đời
Quê em
Ta say!
Bán rẻ người thầy
Nhớ thàng bạn cũ
Có một ngày
Người trai Bất Khuất
Bài thơ kính
tặng NT Vũ Huy Chính TĐ 3 SVSQ
Tô Thùy Yên là một tên tuổi lớn trong thi ca Việt Nam. Thời chiến tranh, ông là người lính. Trong thời bình, ông là người tù. Đi lính, làm thơ lính. Đi tù, làm thơ tù. Thơ tù của ông khiến thiên hạ xốn xang, kể cả cai tù cũng phải rúng động. Nhưng thơ lính lại có người “chê”, nhất là giới trẻ. Người ta vẫn quen lối mòn suy nghĩ, thơ lính là thơ hùng, người lính lúc nào cũng lăm lăm tay súng.
Bài Qua Sông, Anh Hùng Tận, Đêm Qua Bắc Vàm Cống, Đãng Tử, Trường Sa Hành… là thơ lính, nhưng mà là thơ buồn. Người lính bơ phờ, mỏi mệt, sau những chuyến quân hành. Người lính “dô dô..”, lính nhậu nhẹt, lính quên đời. Uống để quên những gương mặt bạn bè, đồng đội… mới vừa ngã xuống. Thơ lính của Tô Thùy Yên nói lên tiếng nói tự do, quyền được khóc. Đó là điều nghiêm cấm ở Miền Bắc. Không có bài thơ lính nào ở Miền Bắc có nước mắt cả. Vì vậy thơ lính TTY là tiếng thơ nhân bản cho thân phận con người. Ông Tô không phải chỉ là người lính của Miền Nam, mà còn là người lính của thân phận, của con người. Tuy buồn đấy, nhưng cái nét bi hùng vẫn cuồn cuộn trong thơ:
“Ly rượu rót mời, xin uống cạn.
Bài ca ta hát đến đâu rồi?
Xin hát nốt – còn đi kẻo muộn…
Cho úp ly – bóng xế đường dài…
Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn.
Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê?
Đến ngã ba, đành theo một lối,
Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia.
Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm
Lược sử ta trong bí lục nào,
Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn,
Thiên thu loé tắt vệt phù du… “ (Đãng Tử)
Ngoài chiến địa, sinh mạng người lính nhấp nháy như một vì sao!
Bài “Qua Sông” cũng là một bài thơ buồn. Không những vậy, nó còn
buồn hơn những bài lính buồn khác. Nếu nó là một bài thơ hùng, chắc
hẳn nó chỉ dùng như một tiếng trống thúc quân. Số phận bài thơ cũng
sẽ khác.
Trong nhạc Việt, người ta thường ví Phạm Duy là phù thủy âm thanh. Trong thơ, phải ví Tô Thùy Yên là phù thủy của ngôn ngữ. Trong bài Qua Sông, ông dùng những chữ diễn tả thật mới lạ. Như , “trời mốc”, vẽ nên màu trời vần vũ âm âm hơi nước. “xa như nhớ” - chỉ khoảng cách trừu tượng, không thể ước lượng. Chiều mập mờ xiêu lạc dáng cò”. Thi trung hữu họa là đây. Chỉ bằng hai chữ "xiêu lạc dáng cò" Con cò phiêu hốt bỗng dưng hiển hiện như tranh,…
“Quán chật xanh lên rừng lính ướt.
Mặt bơ phờ dính gió bao la”
Lần đầu tiên có người diễn tả người lính qua sông là “lính ướt”, mặt “dính gió”,... Những chữ đặc thù của Tô Thùy Yên khiến thơ ông không lẫn với ai được. Nhưng cái “tuyệt chiêu” nhất là chữ “ngời” trong câu kết. Tô Thùy Yên dùng chữ như Giả Đảo làm thơ.
“Xuống đò đời đã bỏ quên,
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời”
“Mắt ngời”? Nước mắt trào sông, long lanh trong khóe ?
“… Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền.
Xuống đò, đời đã bỏ quên…
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.”
Ở bốn câu cuối, âm điệu, tiết tấu bỗng lạc hẳn đi, nó khiến người ta liên tưởng tới tiếng khóc lạc thần trong hai câu thơ khác.
"Thùng thùng trống đánh ngũ liên.
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa."
Đời lính xưa nay, thời nào cũng "Túy
ngọa sa trường…”, cũng “Cổ nhân chinh chiến…” cả. Nếu sống sót thì
lại chỉ sống bằng ký ức.
QUA SÔNG
Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện.
Mưa lâu, trời mốc, buồn hôi xưa.
Con đường đáo nhậm xa như nhớ.
Chiều mập mờ xiêu lạc dáng cò.
Quán chật xanh lên rừng lính ướt,
Mặt bơ phờ dính gió bao la.
Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét,
Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa.
Vang lên những địa danh huyền hoặc,
Mỗi địa danh nồng một xót xa.
Giặc đánh lớn – mùa mưa đã tới.
Mùa mưa như một trận mưa liền.
Châu thổ mang mang trời nước sát,
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên.
Tiếp tế khó – đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên.
Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên.
Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh…
Sông cái nước men bờ sóng sánh.
Cồn xa cây vướng sáng mơ màng.
Áo quan phong quốc kỳ anh liệt.
Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang.
Quê xa không tiện đường đưa tiễn,
Nghĩa tận sơ sài, đám lạnh tanh.
Thêm một chút gì như hối hả,
Người thân chưa khóc ráo thâm tình…
… Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền.
Xuống đò, đời đã bỏ quên…
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.
TÔ THÙY YÊN
nguyễn thị thảo an
Tôi và anh
Muôn thuở ân tình
Đà Lạt phố núi
Tình sử
Mẹ đưa con vào lớp vở lòng
Đà Lạt phố núi
Cho em tình cuối
Cạn lòng
Đời chan hòa những tình
yêu
Hạ buồn
Lệ tình
Trả lại em
Đọc Nửa hồn Xuân Lộc
Tự nhiên già!
Qua sông
Nếu ai có hỏi
Bà mẹ đất Thừa Thiên
Gánh dừa
Tượng tiếc thương
Khúc bi hùng giữa rừng lá thấp
Đà Lạt phố núi
30 tháng Tư, nhớ cơn mưa
dầm
Tháng Tư, những câu ngắn
Tháng Tư và những câu hỏi
Tháng Tư này lật trang sử sang chương
Nụ cười trong mắt anh
Lời nguyện cầu của người ngoại đạo
Tháng Ba về
Về lại Charlie
Nhớ
Em đi
Sắc màu
nỗi nhớ
Ngày tàn cuộc chiến
Tình chiến hữu
Thuyền nhân lại nhớ thuyền nhân
Anh hùng không tên
Tâm sự người lính
trẻ Pháo Binh
Thập loại cô hồn hiễn hách chi
mộ kính...
Hoài cảm
Huynh đệ chi binh
Thương Ca 1 - Tưởng như còn người
yêu
Đường về Hậu Giang
Ướp hồng tuổi ngọc
Duyên nghiệp
Chị và em
Nụ cười sao thánh thiện
Một bài thơ hay của TT Nguyễn
Văn Thiệu
Bóng Xuân xưa
Xuân nơi
đây
Xuân chưa về
Khu vườn tình ái
Lời nguyện cầu của
người ngoại đạo
Anh ơi chỉ còn thơ
Chỉ một lần thôi