by Dr. Bruce Fife
Kim Tuyến chuyển ngữ
Đa số bác sĩ nhún vai lắc đầu và chấp nhận t́nh trạng thường gặp khi
điều trị bệnh nhân bị thấp khớp, họ cho toa thuốc không ǵ khác hơn
là thuốc kháng viêm và giảm đau.
Sách Y Khoa ghi rằng không có thuốc chữa trị cho hầu hết các loại
thấp khớp. Thuốc chủ yếu tập trung vào việc làm giảm bớt triệu
chứng, chứ không trị tận gốc. Vấn đề mà các bác sĩ khi đối phó với
bệnh thấp khớp, mặc dù có nhiều lư thuyết, là họ thực sự không biết
chính xác nguyên nhân gây bệnh. Nếu không biết nguyên nhân th́ làm
sao t́m ra cách chữa. Như vậy câu hỏi: Bệnh thấp khớp có thể chữa
trị được không? Câu trả lời vang dội lên: Có! Bệnh thấp khớp có thể
chữa trị được. Khoa học đă t́m ra nguyên nhân và biết cách chữa trị.
Những sự kiện này không ẩn dấu hay không phải là không biết đến, cho
dù nó không được phổ biến rộng răi. Hiện nay những tài liệu y khoa
lư thú này đang được mở ra cho các nghiên cứu, phá tan những bí mật
về bệnh thấp khớp.
Thông thường các bác sĩ quá cẩn trọng và phản ứng rất chậm trong
việc chấp nhận những lư thuyết mới tương phản với giáo điều cũ chủ
yếu đă được đặt ra hay với niềm tin đă được học hỏi. Nhiều bác sĩ
vun trồng nghề nghiệp dựa trên những tin tưởng này, và tư tưởng gạt
bỏ chúng để theo một lư thuyết mới gặp phải sự kháng cự cứng ngắc.
Những sự thay đổi có tính tương phản trong y học thường mất vài chục
năm, ngay cả một hay hai thế hệ trước khi chúng được chấp nhận cách
phổ biến. Sự chấp nhận thường được một bác sĩ tiếp nhận ở một thời
điểm nào đó cho đến một ngày quan niệm mới được mọi người đón nhận
khi nó trở nên hiển nhiên minh bạch.
Hiện tại đă đang có cách chữa trị cho bệnh thấp khớp, hay ít nhất
cho hầu hết các dạng của nó. Bạn không phải đợi nhiều thập niên hay
cả một thế hệ cho các thày thuốc y khoa bắt kịp. Bạn có thể bắt đầu
ngay bây giờ và tự chữa trị cho chính bạn trong ṿng vài tuần hay
vài tháng. Không có ǵ trong chương tŕnh này có hại, làm đau nhức,
hay tốn phí, do đó bạn không mất mát ǵ cả khi thử nghiệm. Chỉ trong
những trường hợp quá nặng mới cần đến lănh vực rộng hơn cần làm để
hoàn thành một chữa lành hoàn toàn. Vậy bạn mất ǵ chứ? Phải chăng
là mất đi cái đau đớn và khập khiễng của bạn !
CẤU TRÚC KHỚP XƯƠNG - WHAT’S IN THE JOINT?
Khớp xương là nơi hai đầu xương tiếp giáp nhau và cùng cử động được.
Tất cả các xương của bạn, ngoại trừ xương ở cổ, h́nh thành những
khớp với các xương khác. Khớp xương giữ các xương của bạn nối với
nhau và giúp cho cơ thể bạn di chuyển. Cơ thể của người trưởng thành
có 206 xương với trên 230 khớp có thể chuyển động được. Tất cả chúng
có khả năng mang bệnh thấp khớp.
Có ba loại khớp căn bản: cố định, bán chuyển động và chuyển động tự
do.
-Khớp cố định: như những đường nối ở trong sọ, không cử động.
-Khớp bán chuyển động: chỉ chuyển động được chút ít như xương cột
sống và răng. Mặc dù có vẻ như không chuyển động, răng chuyển động
vừa đủ để chúng cảm nhận được độ cứng chúng ta cắn và mức độ thức ăn
kẹt giữa các răng.
-Khớp chuyển động tự do: có cử động như bản lề, đ̣n bẩy, trụ xoay
cho phép chúng ta uốn người, đứng, chạy, đi bộ, nhảy, qùy gối, nắm,
kéo và thực hiện cả ngàn chuyển động chúng ta làm hàng ngày. Hầu hết
các khớp trong cơ thể là khớp chuyển động.
Mỗi khớp xương (joint) là một đơn vị hỗn hợp của xương, sụn, dây
chằng, và những cấu trúc khác để làm nên chuyển động. Chung quanh
toàn bộ khớp xương là bao khớp. Bao khớp (joint capsult) được cấu
tạo bởi các mô liên kết, có sợi, dẻo dai và được gắn chặt vào thân
của mỗi xương để bao bọc khớp. Bên trong bao khớp là Màng hoạt dịch
(synovial menbrane) chứa chất họat dịch (synovial fluid)để làm trơn
khớp. Dây chằng (ligaments) có cấu trúc như các sợi dây làm bằng
những mô liên kết dẻo dai như bao khớp và buộc hai xương với nhau.
Đầu khớp xương được bọc bởi một lớp sụn (articular cartilage) để bảo
vệ hai xương không chạm vào nhau. Chất hoạt dịch bôi trơn chỗ nối
giữa hai sụn của xương khớp làm cho cử động nên dễ dàng.
NHẬN ĐỊNH VỀ BỆNH KHỚP
Hậu quả: Viêm khớp làm hàng nhiều triệu người trên thế giới đau
nhức, kể cả 1/5 số người lớn ở Hoa Kỳ. Đó là bệnh làm suy giảm khả
năng hoạt động đang lan rộngở Mỹ. Trên 50% người từ 65 tuổi trở lên
bị bệnh này. Khoảng 294.000 (1 trên 250) trẻ em dưới 18 tuổi cũng bị
vài dạng viêm khớp.
Viêm khớp cũng được gọi là bệnh suy thoái khớp xương. Viêm khớp
không phải là một bệnh đơn lẻ mà là một nhóm bệnh mà đặc tính chung
gồm đau nhức, viêm, và hạn chế cử động của khớp xương. Hai loại viêm
khớp thường gặp nhất là viêm xương khớp (ostheoarthritis) và viêm
khớp măn tính (rheumatoid arthritis).
Thuật ngữ viêm khớp không sử dụng rộng răi và thường được gán mơ hồ
cho đau nhức ở hầu hết các phần của cơ thể. V́ vậy cần phải được bác
sĩ chẩn bệnh để nhận dạng chính xác bệnh. Viêm khớp có thể xảy ra ở
bất cứ khớp xương nào, nhưng đa số thường là ở đầu gối, cổ tay,
khuỷu tay, ngón tay, ngón chân, hông và vai. Cổ và lưng cũng có thể
bị viêm khớp. Tuy nhiên, nếu bạn thấy đau ở khớp xương, chưa hẳn là
bạn bị viêm khớp, v́ những bộ phận khác như dây chằng hay dây gân,
cũng tạo nên cấu trúc của khớp.
Viêm khớp có thể chỉ xảy ra nơi một hay nhiều khớp. Triệu chứng của
viêm khớp là đau, sưng, cứng, và biến dạng nơi một hay nhiều khớp
xương. Triệu chứng có thể đến bất ngờ hay tiến triển từ từ. Bệnh
nhân chịu đau nhức khác nhau từ cảm giác chói, nóng bỏng, cho đến
đau dữ dội. Cử động khớp thường bị đau cho dù có lúc nó chỉ là cứng
khớp.
Thường th́ đau nhức gia tăng khi trời lạnh hay ẩm thấp. Những yếu tố
ảnh hưởngđến t́nh trạng viêm khớp gồm thức ăn thiếu dinh dưỡng,
thiếu vận động, béo ph́, nhiễm trùng, và tổn thương nơi khớp xương
hay sức căng thường xuyên nơi khớp. Những dạng viêm khớp thường gặp
nhất được mô tả ngắn gọn sau đây. Khi bạn đọc mô tả cho từng loại,
bạn hăy t́m những điểm tương đồng giữa chúng. Bây giờ bạn sẽ khám
phá nguyên nhân cơ bản của tất cả những loại viêm khớp chính.
VIÊM XƯƠNG KHỚP (OSTEOARTHRITIS)
Viêm xương khớp là loại viêm khớp thường gặp nhất gồm khoảng 80% các
trường hợp. Nếu bạn bị viêm khớp, th́ hầu như bạn bị VXK. Nguy cơ
phát triển bệnh này tăng theo tuổi tác. Nó tác động đến 2% số người
dưới 45 tuổi, 30% giữa 45 và 64 tuổi, 50 đến 85% nggười trên 65
tuổi, nhiều người trong số này chưa được chẩn đoán ra là đang bị
viêm xương khớp.
VXK được xếp vào loại không bị viêm, v́ nó thường không có triệu
chứng viêm. Ngay cả khi có hiện tượng viêm và bác sĩ kê toa cho mua
thuốc kháng sinh, nó vẫn không được công bố là một dạng khác của
viêm khớp.
VXK thường được xem là một bệnh suy thoái của người ǵa. Triệu chứng
của nó là sụn ở đầu các xương khớp ṃn dần đi, làm hai khớp xương
đối diện chạm vào nhau gây cứng khớp và đau đớn. Bệnh thương tấn
công những xương khớp phải chịu sức nặng nên bị ṃn, nứt và mất
xương như ở đầu gối, hông, xương sống phần dưới, ngón chân, ngón
tay.
VXK thường được xem như loại viêm khớp “ṃn và nứt xương” v́ những
khớp đó chịu nhiều gắng sức nhất, người lớn tuổi kinh nghiệm triệu
chứng này trước nhất khi bị chấn thương. Bác sĩ thường nói với chúng
ta rằng đó là hệ quả của tuổi ǵa, không thể tránh được, cũng không
thể chữa trị được.
Trong khi nguy cơ VXK gia tăng theo tuổi tác, th́ nó không phải là
tiến tŕnh thông thường của tuổi già. V́ có nhiều người sống rất thọ
mà không bao giờ bị VXK, trong khi có người c̣n trẻ lại bị bệnh này.
Sự suy thoái xảy ra như một tiến tŕnh b́nh thường theo tuổi tác th́
phải xảy ra đồng bộ ở mọi xương khớp; ở VXK nó chỉ xảy ra nơi khớp
phải gánh chịu sức nặng. Tuổi tác chỉ cho thấy sự thay đổi nhỏ về
thể chất và hóa tính nơi sụn và xương. Ở VXK lại có sự thay đổi đáng
kể về suy thoái thể chất, hóa tính nơi sụn và xương. Trong khi tuổi,
sức ép, và chấn thương là những yếu tố ảnh hưởng đến VXK, các bác sĩ
vẫn chưa biết nguyên nhân thực sự của nó.
Từ những năm đầu 1900, các nhà nghiên cứu đă hoài nghi rằng nhiễm
trùng là nguyên nhân chính. Trong những nghiên cứu trên người và thú
vật, VXK đă được nhận dạng là do nhiều loại vi khuẩn gây ra kể cả
salmonella và streptococcus. Các bác sĩ vẫn chưa thừa nhận ư kiến
rằng mọi trường hợp VXK là do nhiễm trùng. Lư do là việc nhận diện
vi sinh vật gây nhiễm trùng chưa có được kết luận thuyết phục trong
nhiều trường hợp.
VXK có thể chuyển sang khập khiễng, què quặt. VXK ở dầu gối là một
trong năm nguyên nhân dẫn đầu gây t́nh trạng bất lực giữa những
người trưởng thành không thuộc cơ quan, tổ chức nào, không bảo hiểm,
và nó lại thường không trầm trọng như các bệnh viêm khớp khác. Cho
nên đa số người bệnh chịu đựng với t́nh trạng bệnh, và kiềm chế bệnh
bằng thuốc uống.
VIÊM KHỚP DẠNG THẤP (RHEUMATOID ARTHRITHIS)
Khác với VXK, viêm khớp dạng thấp ảnh hưởng trên bao khớp hơn là
trên sụn khớp. T́nh trạng này nghiêm trọng hơn VXK nhiều.
Triệu chứng là viêm măn tính, sưng, và đau nhức. Phần lớn xảy ra ở
các khớp ngón tay, cổ tay, và chân. Tuy nhiên bất cứ khớp xương nào
cũng có thể bị viêm. Bao khớp nối hai xương khớp trở nên viêm và chỗ
khớp sưng lên. Sụn ṃn dần, gây đau buốt và khó cử động. Cơ bắp
chung quanh cũng chịu ảnh hưởng. Nếu không được chữa trị sớm, sẽ dẫn
đến t́nh trạng cứng khớp.. Tuy nhiên điều trị chu đáo, có thể pḥng
ngừa bất lực nơi đa số bệnh nhân.
Ở Hoa Kỳ, 42-68 / 100.000 người bị VIÊM KHỚP DẠNG THẤP. Nữ giới bị
bệnh này gấp ba lần nam giới. Tỉ lệ mắc bệnh này như nhau nơi mọi
chủng tộc. Bệnh có thể bắt đầu ở bất kỳ tuổi nào, nhưng thường sau
40 và trước 60. 2% số người 60 tuổi trơ lên bị viêm khớp dạng thấp.
Nguyên nhân của bệnh gây đau đớn và khập khiễng này vẫn c̣n đang
tranh luận, mặc dù nhiễm trùng đă được chú ư đến từ lâu. Đa số các
bác sĩ tin rằng đó là bệnh tự miễn nhiễm, hệ miễn nhiễm của cơ thể
tự tấn công ḿnh. Kháng thể do cơ thể sản xuất để tự bảo vệ ḿnh
khỏi nhiễm trùng lại đổi dạng để tấn công các khớp xương cũng như
các cơ quan khác trong cơ thể.
V́ nó có thể ảnh hưởng nhiều cơ quan, viêm khớp dạng thấp được xem
là bệnh toàn thân, và đôi khi được xem là bệnh thấp khớp. Bệnh nhân
có thể không thấy biểu hiện triệu chứng ǵ trong thời gian dài. Tuy
nhiên viêm khớp dạng thấp là mộtbệnh tăng tiến không ngừng có khả
năng hủy hoại khớp xương và gây tàn tật.
BỆNH GÚT và BỆNH GIẢ GÚT ( GOUT and PSEUDOGOUT)
Bạn đă từng bao giờ tỉnh giấc giữa đêm bởi ngón chân cái đau buốt
chưa? Nó nóng, sưng, mềm, và buốt dù chỉ với cái chạm nhẹ. Nếu có,
bạn bị gút cấp tính rồi. Gút là một dạng của viêm khớp có triệu
chứng là bất th́nh ĺnh đau kinh khủng, đỏ và mềm ở khớp xương.
Viêm gút là t́nh trạng rối loạn trao đổi chất trong đó acid uric,
một chất thải khi phân giải purine, gia tăng trong máu. Acid uric
thặng dư tích lũy như tinh thể muối u-rát ở khớp xương và các mô
khác.
Bệnh gút gỉa cũng giống như gút, nhưng tinh thể chính được tạo thành
là muối can-xi.
Về phương diện lịch sử, bệnh gút có liên quan đến tính phàm ăn. Nó
là bệnh của hoàng tộc với những bữa ăn thịnh soạn giàu purin như
thịt và rượu. Charlemagne và vua Henry VIII là những người bị bệnh
gút nặng. Ngày nay những người bệnh gút được khuyến khích giảm ăn
thịt và uống rượu để tránh sự tấn công của gút.
Mặc dù ăn uống qúa nhiều thịt rượu gia tăng cơ hội của bệnh gút cấp
tính, chúng thực sự không gây ra bệnh. Hầu hết những người bị gút
không cung cấp nhiều hơn số lượng b́nh thường acid uric ( sản phẩm
phụ của sự chuyển hóa protein). Thay vào đó , họ không thể bài tiết
hoàn toàn acid uric ra ngoài. Thận chịu trách nhiệm trong việc bài
tiết 1/3 acid uric, ruột đảm nhiệm phần c̣n lại. Nhiều người có
lượng cao acid uric bị suy thận. Khoảng 20% số người bị gút cũng có
sạn thận.
Những biến chứng có liên quan đến sạn thận bao gồm cả chuyện bí tiểu
và nhiễm trùng. Nếu không điều trị, gút có thể dẫn đến suy thận
nặng. Bệnh gút trở nên phức tạp hơn nếu bệnh nhân có thêm các bệnh
khác như cao máu. Điều này tạo nhiều tinh thể tích tụ ở khớp hơn,
gây thêm những tấn công khác.
Gút là loại thường gặp nhất của viêm khớp nơi nam giới. Nam giới bị
bệnh gút nhiều hơn nữ giới, nhưng thường gia tăng theo tuổi cho cả
hai, đặc biệt nơi phụ nữ thời hậu măn kinh.
Cơn đau buốt và viêm đặc trưng khi gút tấn công được cho là do khởi
động của tinh thể nhọn đâm vào mô khớp nhạy cảm. Cử đông càng gây
đau thêm. Tấn công xảy ra bất ngờ, và tồn tại trong nhiều ngày hay
tuần, rồi cũng th́nh ĺnh biến mất, chỉ tái trở lại trên vết cũ sau
vài tháng hay một năm. Gút thường ảnh hường chỉ một khớpmỗi lần.
Chữa trị gút bao gồm thuốc kháng viêm nonsteroidal (NSAIDs) cho đau
nhức và viêm, kiêng rượu, giảm thức ăn giàu protein, và thuốc giảm
sự sản xuất aicd uric hay làm tăng sự bài tiết. Việc hạn chế thức ăn
có thể hay không thể giúp. Hạn chế sữa và thực phẩm giàu calcium
dường như không hữu hiệu cho bệnh gỉa gút, là bệnh có liên quan đến
thủy tinh thể calcium.
Bệnh gút rơ ràng có những triệu chứng biểu tỏ sự hiện diện của nhiễm
trùng cấp tính và thường bị chẩn đoán sai. Nó tỏ lộ sự nhiễm trùng
toàn thân được định vị ở khớp xương. Sốt, đỏ, khớp nóng, và số bạch
huyết cầu tăng cao là dấu chỉ của gút tấn công. Cách duy nhất để bác
sĩ nhận diện nó là lấy mẫu của chất nhờn hoạt dịch (synovial fluid)
cho xét nghiệm xem nó có tinh thể hay virút trong đó không. Nếu thủy
tinh thể hiện diện th́ nó là gút, nếu virút hiện diện th́ nó là viêm
khớp cấp (infectious arthritis) - xem Viêm Khớp Cấp trong phần dưới
đây.
Niềm tin vào sự hiện hữu của tinh thể nhọn như mũi kim là nguyên
nhân của cơn đau buốt do gút th́ không chắc chắn. Những tinh thể này
mọc rất chậm trong nhiều năm. Tại sao bất th́nh ĺnh giữa đêm khuya
khi mà xương khớp thảnh thơi nằm nghỉ, th́ mũi nhọn của cạnh tinh
thể này lại đâm vào khớp gây đau đớn, gây viêm và sưng? Nếu tinh thể
mọc ở đó lâu ngày rồi, cơn đau cũng phát triển dần dần và tăng tiến
theo thời gian chứ! Những triệu chứng sẽ không tự ra đi đột ngột,
nhưng sẽ tiếp tục bao lâu tinh thể c̣n hiện diện. Tinh thể của gút
không biến mất ngay lập tức; chúng ở đó cả đời trừ khi có chuyện ǵ
quyết liệt xảy ra làm thay đổi chất hóa học của cơ thể và làm cho
chúng tan ră đi.
Sự tấn công của gút đến và đi không có lư do rơ ràng. Tinh thể không
là nguyên nhân mà chỉ là triệu chứng, cũng như sạn thận không gây ra
bệnh thận, chúng là triệu chứng của thận suy. Vậy th́ cái ǵ gây ra
bệnh gút?
Mặc dù gút đem đến tất cả những dấu hiệu của nhiễm trùng cấp tính,
nó không được cho là do nhiễm trùng gây ra, v́ do sự vắng mặt của vi
khuẩn trong chất nhờn hoạt dịch và sự thất bại của thuốc kháng sinh.
Rất có khả năng là gút do virút gây ra. Xét nghiệm tiêu biểu có thể
đă chưa t́m ra được virút, và virút lại không bị ảnh hưởng bởi thuốc
trụ sinh. Điều này cũng giải thích sự bất thường của gút tấn công
đến và đi định kỳ mà không có lư do rơ ràng. Đây cũng là điều xảy ra
với những loại nhiễm virút khác. Ví dụ: Virút herpes ( của bệnh giời
leo), tồn tại và ngủ yên hàng nhiều tháng năm rồi bất th́nh ĺnh
xuất hiện ở môi. Nó gây nhiễm trùng cấp tính cùng với chỗ giộp phồng
và đỏ trong vài ngày rồi phai dần, đợi ngày nào đó sẽ trở lại. Hiện
nay, cũng như những dạng việm khớp (arthritis) khác, các bác sĩ vẫn
thực sự không biết điều ǵ đă gây ra bệnh gút.
BỆNH VIÊM KHỚP TRẺ EM (JUVENILE ARTHRITIS)
Viêm khớp nơi trẻ em là một dạng viêm khớp dạng thấp xảy ra nơi trẻ
em. Nó kéo dài ít nhất 6 tuần nơi trẻ em dưới 16 tuổi mà không bị
dạng viêm khớp nào khác trong thời kỳ này. Nữ thường bị nhiều hơn
nam. Nó thường khỏi sau vài năm, nhưng khoảng 40-45% bị viêm khớp
dương tính trên 10 năm. Tuổi bị nhiều nhất là từ một đến sáu và có
thể dẫn đến c̣i cọc xương khiến trẻ bị dị dạng vĩnh viễn.
Trong một số trường hợp, triệu chứng có thể là toàn thân ( Still's
disease).Những triệu chứng này dễ bị định bệnh sai như bệnh cúm hay
ngộ độc thực phẩm. Triệu chứng có thể gồm sốt 39 độ C (102 F) hay
cao hơn, sốt có thể biến mất rồi tái trở lại vào ngày hôm sau, cùng
với lạnh run cầm cập, hạch bạch huyết ( lymph nodes) sưng, và da nổi
sẩn đỏ. Người bệnh biếng ăn, sụt cân, đau bao tử, thiếu máu, đau
họng, và số bạch cầu tăng cao. Những triệu chứng này tồn tại trong
nhiều tuần hay nhiều tháng. Viêm khớp (arthritis) với khớp sưng,
thường xảy ra sau khi bị nổi sần và sốt một thời gian.
Một dạng của viêm khớp trẻ em là viêm đa khớp dạng thấp
(polyarticular juvenile rheumatoid arthritis) ảnh hưởng đến nhiều
khớp (năm hay hơn). Nó thường tấn công cách đối xứng, ảnh hưởng cùng
loại khớp cả hai bên cơ thể. Trong một số trường hợp, bệnh nhân có
thể bị sốt nhẹ và đỏ mắt. Nó thường chuyển sang dạng viêm cứng khớp
đốt sống khi đến tuổi trưởng thành.
VIÊM CỨNG KHỚP ĐỐT SỐNG (ANKYLOSING SPONDYLITIS)
Viêm cứng khớp đốt sống là loại việm khớp măn tính, đau nhức, viêm
ảnh hưởng chính yếu trên cột sống và khớp xương chậu (sacroiliac
joints). Nó thường bắt đầu ở phần dưới lưng và sau đó ảnh hưởng đến
phần giữa và phần trên của lưng. Nó có thể lan đến những khớp xương
khác và thường ảnh hưởng đến xương hông. Những dây gân và dây chằng
giúp cho lưng cử động bị viêm. Phản ứng lại, đốt xương sống mọc vào
nhau và dính liền nhau. Cột xương sống sau cùng trông giống như cây
tre, bẻ cong về phía trước dưới sức nặng của cái đầu. Nếu bạn đă
từng trông thấy một người ǵa đi cúi gập người xuống như đang nh́n
vào chân, bạn đă chứng kiến t́nh trạng sau cùng của viêm cứng khớp
đốt sống.
Bệnh bắt đầu ở tuổi tương đối trẻ, từ 18 đến 30. Đau nhức nhiều khi
nghỉ ngơi, và tăng lên khi hoạt động. Nam bị bệnh này nhiều hơn nữ
với tỉ lệ là 3:1. Khoảng 40% trường hợp, nó gây mắt đỏ và nhạy cảm
với ánh sáng, một triệu chứng thông thường khác là hay mệt mỏi. Khi
t́nh trạng xảy ra trước 18 tuổi, nó thường gây đau và sưng ở khớp
xương lớn của tay chân, đặc biệt là hai đầu gối.
Đa số các bác sĩ không thực sự biết nguyên nhân nào đă gây ra viêm
cứng khớp đốt sống, nhưng nhiều bằng chứng cho thấy nó do kết hợp
của di truyền và nhiễm trùng. Nhiễm trùng rơ ràng kích thích sự bắt
đầu của viêm cứng khớp đốt sống nơi người bị di truyền. Nó thường có
liên kết với nhiễm trùng đường tiêu hóa và bệnh Crohn. Sự tin tưởng
rằng vi khuẩn đường ruột vào máu, thường qua một viêm loét trong
đường tiêu hóa, kích thích viêm cứng khớp đốt sống. Vi sinh vật có
liên quan đến viêm cứng khớp đốt sống gồm campylobacter,
clostridium, salmonella, sh́ella, yersinia, bacteroides, và đặc biệt
vi khuẩn Klebsiella pneumoniae. Gene có liên quan với viêm cứng khớp
đốt sống là HLA-B27. Tài liệu nghiên cứu cho biết chuộtđược gây
giống với gene này và giữ trong môi trường vô trùng không phát triển
viêm cứng khớp đốt sống trừ khi nó bị nhiễm một trong những loại vi
khuẩn này. Thật không may là thuốc kháng sinh không thành công trong
việc chế ngự bệnh này.
Khoảng 90% những người bị viêm cứng khớp đốt sống có gene HLA-B27;
đây là lư do v́ sao nó được cho là bệnh do di truyền. Thế c̣n 10% só
người bệnh không có gene này th́ sao? Tại sao họ lai bị bệnh? Di
truyền dường như không phải là câu trả lời hoàn toàn.
VIÊM KHỚP PHẢN ỨNG (REACTIVE ARTHRITIS)
Viêm khớp phản ứng, trước đây gọi là hội chứng Reiter, có nhiều đặc
tính với viêm cứng khớp đốt sống. VKPƯ là một dạng viêm khớp măn
tính với ba đặc tính riêng biệt: viêm ở khớp, mắt đỏ, và viêm ở bộ
phận sinh dục, đường tiểu hay hệ tiêu hóa. Dạng viêm khớp này được
gọi là viêm khớp "phản ứng" v́ hệ miễn nhiễm "phản ứng" với nhiễm
trùng ở hệ sinh dục, đường tiểu, hay hệ tiêu hóa.
VKPƯ được xem là một bệnh thấp khớp măn tính. Điều này có nghĩa là
ngoài khớp xương, nó có thể ảnh hưởng đến các cơ quan khác nhiều hơn
là ở khớp xương, gây viêm ở các mô như mắt, miệng, da, thận, tim, và
phổi.
Cũng như viêm cứng khớp đốt sống, VKPƯ được xem là do sự kết hợp của
di truyền và nhiễm trùng gây ra. Nó cũng có cùng loại gene HLA-B27
nơi đa số bệnh nhân. Một nhiễm trùng nào đó xảy ra th́ mới tạo điều
kiện cho VKPƯ h́nh thành. VKPƯ có thể xuất hiện sau bệnh hoa liễu.
Vi khuẩn thường gặp nhiều nhất có liên quan đến hậu bệnh hoa liễu để
h́nh thành VLPƯ là Chlamydia trachomatis. Một lần nhiễm độc thực
phẩm hay một nhiễm trùng hệ tiêu hóa hay nhiễm trùng đường tiểu có
thể mở đường cho VKPƯ. Tính đặc trưng của nó là: các triệu chứng
phát triển một đến ba tuần sau nhiễm trùng. Phản ứng giữa vi khuẩn
gây nhiễm trùng và viêm khớp chưa hiểu rơ. Môi trường của vi khuẩn ở
chất hoạt dịch thường âm tính, dẫn đến việc cho rằng VKPƯ là bệnh tự
miễn nhiễm do hệ miễn nhiễm bị kích thích quá độ phản ứng lại, v́
một lư do nào đó không biết, trở thành măn tính.Điều trị gồm thuốc
giảm đau, NSAIDs, và thuốc làm suy yếu hệ miễn nhiễm.
VIÊM KHỚP VẢY NẾN (PSORIATIC ARTHRITIS)
Viêm khớp vảy nến là một bệnh măn tính có đặc tính là viêm ở da (vảy
nến) và xương khớp. Vảy nến là một bệnh thông thường ở da ảnh hưởng
trên 2% dân số Caucasian ở Mỹ. Triệu chứng của nó là những mảng nhỏ
không đồng đều nối kết với nhau, nổi sần, đỏ ở chỗ bị viêm, có vảy.
Vảy nến thường ảnh hưởng chỗ cuối của khuỷu tay, đầu gối, da đầu,
vùng rốn, và chung quanh bộ phận sinh dục. Khoảng 10% người bị bệnh
vảy nến cũng phát triển bệnh viêm khớp vảy nến.
Viêm khớp vảy nến thường xảy ra sau tuổi 40, không thiên vị nam hay
nữ. Da nổi bùng vảy và đau khớp thường xảy ra riêng biệt. Khoảng 80%
bệnh nhân có bệnh da đi trước bệnh đau khớp. 15% bệnh nhân phát
triển bệnh viêm khớp trước bệnh vảy nến. Chẩn đoán bệnh viêm khớp
vảy nến có thể khó nếu viêm khớp xảy ra trước vảy nến nhiều năm.
Thực tế, bệnh nhân có thể bị viêm khớp 20 năm hay hơn trước khi vảy
nến xuất hiện. Ngược lại, bệnh nhân có thể bị vảy nến trong nhiều
năm trước khi phát triển viêm khớp.
Phần đông bệnh nhân bị vảy nến nhiều tháng hay nhiều năm trước khi
bị viêm khớp. Viêm khớp thường thấy nơi đầu gối, mắt cá chân, và
khớp xương ở chân, nhưng cũng có thể gặp ở phần xương sống và lưng
dưới. Viêm ở ngón tay và ngón chân có thể gây sưng cho toàn ngón,
làm cho ngón có dạng như miếng xúc xích vậy. Cứng khớp là t́nh trạng
chung và tệ hơn vào mỗi sáng sớm.
Việm khớp vảy nến là một bệnh măn tính có thể gây viêm nơi những
vùng khác như mắt, tim, phổi, và thận. Viêm khớp vảy nến có nhiều
triệu chứng giống những loại viêm khớp khác như viêm cứng khớp đốt
sống và viêm khớp phản ứng.
Nguyên nhân tới nay vẫn chưa rơ, nó được cho rằng do kết hợp của di
truyền và nhiễm trùng. Bệnh nhân có gene HLA-B27 khoảng 50% thời
gian. Các bác sĩ cho rằng 50% c̣n lại là do những gene có khuyết
điểm khác gây ra.
FIBROMYALGIA - ĐAU CƠ BẮP và MÔ LIÊN KẾT
Các khớp của bạn cứng, bạn đau khắp người, bạn khó ngủ, và lúc nào
cũng cảm thấy mệt mỏi. Xét nghiệm không t́m thấy ǵ, bác sĩ bảo bạn
không có bệnh ǵ. Bạn nghe điều này có quen thuộc không? Nếu có
triệu chứng đó, bạn có thể bị fibromyalgia.
Fibromyalgia là chữ kết hợp của chữ Latin fibro (fiber: sợi) và chữ
Đức myo(muscle: cơ bắp) và algos (pain: đau), có nghĩa là đau nơi cơ
bắp và mô liên kết.Fibromyalgia được xem là t́nh trạng có liên hệ
đến viêm khớp. Tuy nhiên nó không là một dạng của viêm khớp v́ nó
không gây tổn thương hay viêm ở khớp, cơ bắp, hay những mô khác.
Fibromyalgia cũng như viêm khớp, có thể gây đau rơ rệt. Nó thường
kết hợp với cứng khớp và đau ở vùng lân cận. Fibromyalgia được xếp
loại ở đây v́ nó có khởi đầu giống viêm khớp và bệnh nhân khi áp
dụng những kỹ thuật điều trị ghi trong sách này cũng có kết qủa rất
tốt.
Triệu chứng của bệnh là đau kinh niên lan rộng nơi cơ bắp, dây
chằng, dây gân, và khi chạm nhẹ đến càng làm tăng đau nhức. Nó có
thể gồm cả nhiều triệu chứng khác, kể cả từ trung b́nh-tới-nặng: mệt
mỏi, mất ngủ, cứng khớp, tê thấp hay da bị kim châm, đau nhức bắp
thịt, vọp bẻ, yếu cơ bắp, đau dây thần kinh, đau bụng, phù bụng,
buồn nôn, táo bón thay phiên với tiêu chảy, nhức đầu, xương hàm và
mặt nhạy cảm, khó tập trung , khó làm việc đầu óc, gia tăng việc mót
tiểu và đi tiểu, giảm sức chịu đựng khi thể dục, cảm thấy sưng phù (
mặc dù không bị thật sự) ở tay và chân, đau thời ḱ kinh nguyệt,
chóng mặt; và nhạy cảm với mùi, tiếng động, ánh sáng chói, thuốc
men, một số thực phẩm; và lạnh. Bệnh nhân thường không bị hết mọi
triệu chứng này nhưng có thể bị vài triệu chứng chung với nhau.
Trong nhiều năm, fibromyalgia không được chính thức công nhận thuộc
t́nh trạng cần thuốc điều trị. Lư do là những xét nghiệm không cho
thấy những bất thường nào là đặc tính của t́nh trạng này, và nó bao
gồm khá nhiều triệu chứng khác nhau làm cho khó chẩn bệnh. V́ khó
chẩn bệnh, nó thường được gọi là hội chứng ẩn nấp(invisible
syndrome). Nó thường được gán cho là bệnh tâm lư, và bác sĩ tin rằng
đó là do người ta tưởng tượng họ bị bệnh. Măi đến năm 1990 American
College of Rheumatology offically nhận ra fibromygia như là một bệnh
thực sự. V́ không có xét nghiệm, nó được xem như là hội chứng hơn là
bệnh.
Nguyên nhân tới nay vẫn chưa được biết, nhưng vài gỉa thiết đưa ra
bao gồm di truyền, làm việc qúa sức, khó ngủ, hormon hoạt động không
b́nh thường, trầm cảm, nhiễm độc tố, và nhiễm trùng. Triệu chứng
thường xảy ra sau một chấn thương thể lư hay t́nh cảm. Nhiều người
được chẩn bệnh fibromyagia nói rằng các triệu chứng của họ xảy ra
trong lúc hoặc ngay sau một nhiễm trùng như bệnh cúm. Những loại
nhiễm trùng kể cả viêm gan C (hepatitis C), HIV, và Lyme disease có
liên kết với sự bắt đầu (tấn công) của fibromyalnia. Cũng có bằng
chứng cho vai tṛ của chủng ngừa (vaccinations) trong việc khởi đầu
của bệnh.
Điều trị hiện nay: Người mắc bệnh thấp khớp nào đó (mô liên kết) như
viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis), viêm cứng khớp đốt sống
(ankylosing spondylitis), và lupus ban đỏ toàn thân (systemic lupus
erythematosus) cũng hay bị fibromyalgia. Chưa có phương thuốc nào
được công nhận và cách chữa tiêu chuẩn là nhắm đến kiềm chế triệu
chứng.
VIÊM KHỚP CẤP (ACUTE INFECTIOUS ARTHRITIS)
Infectious arthritis cũng được biết đến như là septic arthritis:
viêm khớp cấp. Điều này rất quan trọng, nó là dạng của bệnh thoái
hóa khớp xương và cung cấp ch́a khóa để am hiểu cách giải quyết cho
hầu hết các dạng khác của viêm khớp (arthritis).Đây là dạng viêm
khớp duy nhất mà bác sĩ biết nguyên nhân và cách chữa. Như tên của
bệnh hàm chỉ, bệnh do sự xâm chiếm của vi sinh vật, thường là vi
khuẩn, vào khớp xương từ vùng bị nhiễm trùng lân cận hoặc từ vỉ
khuẩn ( nhiễm trùng máu).
Loại viêm khớp này phát sinh duy chỉ từ một nhiễm trùng mà không do
ảnh hưởng của di truyền, rối loạn trong sự trao đổi chất, hay những
yếu tố phức tạp khác. Nó chỉ là một nhiễm trùng đơn thuần tấn công
các khớp xương.
Viêm khớp cấp xảy ra nơi mọi nhóm tuổi. Ở người lớn, nó thường ảnh
hưởng ở cổ tay, nhiều nhât nơi đầu gối là nơi chịu sức nặng của cơ
thể, mặc dù 20% người bệnh có triệu chứng nơi nhiều khớp. Viêm đa
khớp thường gặp ở trẻ em đặc biệt ở vai, đầu gối, và hông.
Tác nhân gây bệnh chính: Bất cứ loại vi khuẩn, virút, hay nấm nào từ
máu t́m đường vào trong khớp th́ có thể gây ra viêm khớp cấp. Tác
nhân thường gặp nhất là vi khuẩn, đặc biệt là Staphylococcos aureus,
Streptococcus pyogenes, Streptococcus viridans, và Haemophilus
influenzae. Nơi người có nguy cơ cao nào đó, những vi khuẩn khác có
thể gây ra viêm khớp cấp. E. coli và Pseudomonas spp. có thể gây ra
viêm khớp cấp nơi những người lạm dụng tiêm thuốc vào tĩnh mạch và
nơi người ǵa; Neisseria gonorrhoeae (vi khuẩn gây bệnh lậu) có thể
gây bệnh nơi người trung niên qua quan hệ t́nh dục; và Salmonella
spp. có thể gây bệnh nơi các em thiếu niên hay người có bệnh tế bào
h́nh liềm (sickle cell anamesia). Người ǵa thường dễ bị nhiễm trùng
khớp gây ra bởi gram-negative bacilli, kể cả salmonella và
pseudomonas. Những vi khuẩn khác có thể gây nhiễm trùng bao gồm
Mycobacterium tuberculosis, gây bệnh lao, và những loài của
spirochete bacterium gây Lyme disease và bệnh giang mai.
Virút có thể gây viêm khớp cấp gồm siêu vi gan A, B, và C,
parvovirus, herpes viruses, mumps, và ebola. Nấm gây bệnh gồm
histoplasma, coccodiomyces, blastomyces, và candida. Nhiều loại vi
khuẩn, virút, và nấm gây viêm khớp cấp lập nơi thường trú ở cơ thể
con người tại da, miệng, hay đường tiêu hóa. Chúng tương đối vô hại
ở tư gia của chúng, nhưng nếu chúng có dịp đi vào trong máu và định
cư ở khơp xương, nơi không phải là nhà, chúng sẽ trở thành quân
khủng bố.
Trong khi viêm khớp có thể ảnh hưởng đến người không rơ tác nhân gây
nguy cơ cho sức khỏe, nó thường xảy ra nhiều hơn khi t́nh trạng nguy
cơ nào đó hiện hữu.Nguy cơ có thể phát triển viêm khớp cấp gồm uống
nhiều thuốc làm hệ miễn nhiễm chịu áp lực nặng, tiêm thuốc tĩnh mạch
qúa nhiều, có bệnh hay thương tổn khớp cũ (đặc biệt nơi người gắn
khớp giả), giải phẫu, và nhiều loại bệnh khác như tiểu đường, nghiện
rượu, ung thư, bệnh tế bào h́nh liềm (sickle cell anemia), các bệnh
thấp khớp (kể cả những dạng khác của viêm khớp và lupus), và rối
loạn hệ miễn nhiễm.
Triệu chứng của viêm khớp cấp gồm : cứng, sưng, nóng, đỏ, đau. Trong
nhiều trường hợp, bệnh nhân bị nóng + ớn lạnh, mặc dù có thể chị là
sốt nhẹ. Trê em thỉnh thoảng bị buồn nôn và ói mửa. Những khớp bị
ảnh hưởng là đầu gối, vai, cổ tay, hông, khuỷu tay, và khớp nơi các
ngón tay. Hầu hết nhiễm trùng vi khuẩn và nấm ảnh hưởng chỉ một khớp
hay, thỉnh thoảng, vài khớp. Ví dụ: Vi khuẩn gây bệnh Lyme đa số
thường ảnh hưởng ở đầu gối. Vi khuẩn Conococcal và virút có thể gây
nhiễm trùng vài hay nhiều khớp cùng một lúc. Nhiễm trùng thường h́nh
thành đột ngột, nhưng triệu chứng nhiều khi kéo dài từ 3 đến 14
ngày.
Chẩn đoán viêm khớp cấp tùy thuộc vào sự kết hợp của kết quả xét
nghiệm và khám xét nơi vùng khớp đau. Viêm khớp cấp có thể cùng hiện
diện với những dạng viêm khớp khác, sốt thấp khớp, bệnh Lyme, hay
những bệnh khác. Chẩn đoán bằng cách lấy mẫu của chất hoạt dịch ở
khớp. Lượng bách huyết cầu được xét nghiệm để xem nếu nó tăng lên,
đó là dấu hiệu hệ miễn nhiễm đang đánh trả nhiễm trùng. Pḥng xét
nghiệm thường cấy và nhận dạng vi khuẩn tử chất hoạt dịch, trừ phi
bệnh nhân đang uống thuốc kháng sinh. Tuy nhiên, vài loại vi khuẩn,
gồm vi khuẩn gây bệnh lậu, bệnh Lyme, giang mai, và một số bệnh
khác, rất khó t́m lại trong hoạt dịch. Nếu vi khuẩn được cấy, xét
nghiệm sau đó được thử xem loại thuốc kháng sinh nào sẽ hữu hiệu.
Điều trị gồm rút nước hoạt dịch bị nhiễm trùng ở khớp ra và lập tức
cho thuốc kháng sinh. Thường th́ bệnh viện sẽ cho thuốc kháng sinh
qua truyền vào tĩnh mạch khoảng hai tuần, hay đến khi hết viêm. Sau
đó bệnh nhân sẽ c̣n uống kháng sinh thêm đến bốn tuần nữa.
Phần 2
Phục dương đại bổ tửu
Toa rượu thuốc Minh Mạng
11 bài thuốc trị
bệnh bất lực
Tin tốt về Covid-19
Bạn có biết quả tim thứ 2 thứ 3 là gì?
Ai
cũng nghĩ tiểu đường là do ăn ngọt
Bệnh mất trí nhớ
Loại rau
có thể làm giảm lượng đường...
Tiếng Anh trong Y khoa
Bệnh
thận dưới cái nh́n của một bệnh nhân
10 tín hiệu cảnh
báo “vỡ” mạch máu năo
COVID - Cách bảo toàn
sinh mạng
Thuốc hết hạn vẫn c̣n hữu dụng
10 thực
phẩm tốt nhất cho tim
Nước tiểu và những điều cần biết
Làm sao để áp huyết không cao?
Một
bác sĩ Mỹ t́m ra thuốc trị virus Vũ Hán
Tác
dụng của thuốc trị khớp glucosamine, colchicine, thuốc
trị sốt rét
Triệu chứng nhiễm bệnh Covid-19
Cholesterol
Sinh tố
Bệnh tiểu đường
loại 2
Bệnh sạn thận
Kiến thức y khoa
21
cách đơn giản giúp bạn sống khỏe mạnh ...
Chống lại cảm cúm, cảm lạnh vào mùa đông
Ung thư cuống phổi
Toa thuốc trị
ung thư gan
Công thức thông tắc động mạch, “làm sạch” mỡ máu
Tự điều trị bại liệt sau đột qụi
Trị bệnh mẹo
Công dụng
của trái BƠ (avocado)
Bệnh GOUT đến
từ đâu ?!
Tập Yoga để bảo vệ sức
khỏe
Bệnh nấc cụt, bài
thuốc lạ kỳ
Húng chó
– vị thuốc dân gian
Chữa bệnh gai cột
sống
Toa thuốc trị
ung thư gan
Lá lốt chữa đau
nhức xương khớp
Tai biến mạch
máu năo
Dấu
hiệu cảnh báo các bệnh hiểm nghèo
7 loại
thực phẩm tốt nhất cho gan
Một toa thuốc rất hay cả về tinh thần lẫn thể xác
Đôi Điều về bệnh
Lú Lẫn Alzheimer
12 bí quyết
loại bỏ bệnh tiểu đường đơn giản
Công dụng của
Cần Tây
15 tác
dụng chữa bệnh không ngờ của củ hành
Những bài thuốc
trị bệnh...
Mật ong trị lành
vết thương
Thuốc ở trong rau
Trị bệnh nắc cụt
Toa thuốc
trị bệnh tê bại....
BÍ ĐÁI -
Tiên Dược Cứu Bịnh...
24 triệu chứng
trong người bạn không thể lơ là
Chanh trừ được
các bệnh ung thư
Cảm lạnh và
những hậu quả biến chứng
Công
dụng Củ Cải - Trái Chanh - Củ Nghệ cho sức khỏe
Hạt Methi - Trị tiểu
đường
Đậu Bắp - Vị Khắc Tinh
Của Bệnh Tiểu Đường
Lọc thận không đến 1 đô-la
Thuốc chống tai biến
Lá đu đủ chống ung
thư...
Trị bịnh tiền liệt tuyến
Trí nhớ giảm sút, phải làm
sao ?
Pḥng bệnh
Alzheimer
Lợi ích của đi bộ
Những triệu chứng
cần lưu ư cho tuổi già
Chữa bệnh
GOUT không cần uống thuốc
Tại sao bạn cần chất béo...
(saturated-fat)?
Các loại
bệnh thấp khớp
Clean your
kidneys
Măng tây và bệnh ung thư
Clean your kidneys
Trị Sạn, Ho và Ung Thư
Trị cảm cúm đơn giản
Khoai lang tốt
cho bệnh tiểu đường
Chất bổ từ quả nho
Bài thuốc trị bệnh viêm
gan
Trị bệnh Gout đơn giản
Sách thuốc gia truyền
Trị ho đơn giản nhưng mầu
nhiệm
Củ nghệ trị ...
Sự kỳ diệu của đôi bàn tay
Thuốc bổ thận
Bài thuốc trị Gout
Bài thuốc hữu hiệu để giảm :
máu cao, mỡ cao
Chữa phỏng
Dầu dừa - Thần dược của nhiều
bệnh
Dầu dừa chữa bá bệnh !!!
Huyết áp thấp
Nấm sữa Kefir
Tỏi với sức khỏe
Thuốc trong rau
Bệnh cúm heo
Cập nhật về bệnh ung thư
Trị bệnh đau ngang thắt
lưng
Tin vui cho người bệnh
nghèo
Dầu dừa chữa bệnh...
Huấn thị điều hành căn bản cho
người cao niên
Sơ Gan
Cây Sả chữa bệnh ung thư!!!
Cholesterol Tốt, Xấu ...
5 phương pháp tập thể dục
buổi sáng
Chữa bệnh Gout
không cần thuốc
Bệnh Dời Ḅ (Shingle)
Toa thuốc trị cao máu và mỡ
trong máu
Trị Cholesterol bằng
lá Aloe-Vera
Trị bệnh bằng "Đậu Đen"
Thuốc xông chữa cảm cúm
Phương pháp cầm máu
dị thường
Bệnh Gout đến từ đâu
Dùng "dấm táo & mật ong" để
trị bá bênh
Heart attacks
and drinking warm water
Tắm âm dương
Canh chua bạc
hà - Gây chứng bệnh Gout
Lá dứa trị bện tiểu đường
Cây Aloe Vera
Những lợi ích về việc đi bộ
Nước gạo lức, thần dược !!!
Với cây kim, ta có thể cứu
người
Làm thế nào để khỏi già ?
Thuốc trị tê bại, đau nhức
...
Thuốc thần chữa bệnh "gout"
Những toa thuốc "mẹo"
Khám phá mới về gạo lức
Viêm gan