Nhạc Lính

Trần Hữu Thục

Xin nói ngay, dù sử dụng từ “nhạc lính”, tôi không có ư định (và khả năng) để bàn về là nhạc lư mà chỉ bàn về lời ca. Và lính ở đây là lính Việt Nam Cộng Ḥa.

Qua 70 năm âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20, chúng ta có nhiều loại nhạc khác nhau, tùy cách phân định, tùy thời kỳ, hay tùy xu hướng: nhạc tiền chiến, nhạc kháng chiến, nhạc xanh, nhạc vàng, nhạc đỏ, nhạc t́nh, nhạc hùng, nhạc lính, nhạc bộ đội, nhạc sến, nhạc sang, nhạc chiến đấu, nhạc cách mạng, vân vân. Nói cho đúng, phải gọi là nhạc và lời. Đó là những “bài hát” = bài để hát. Hoàng Ngọc-Tuấn, trong một bài phỏng vấn của đài phát thanh Úc, gọi chung là “nhạc phổ thông” (popular music)(1).

Nếu những câu ca dao, nhờ vần điệu, dễ nhớ, dễ dàng đi vào tâm hồn con người (ḥ ru em chẳng hạn) th́ ca khúc phổ thông, nhờ các giai điệu đơn giản được lập đi lập lại, dễ dàng thấm sâu vào tâm cảm. Qua đài phát thanh, qua các băng đĩa nhạc, ca khúc được phổ biến rộng và sâu hơn tất cả mọi h́nh thái nghệ thuật khác. Nhờ âm điệu mà lời (kể cả những lời ngây ngô nhất) cũng trở thành sinh động. Những câu văn, câu thơ bóng bẩy, đầy ẩn dụ, bỗng trở thành trơn tru, dễ hiểu. Khi ḥ, người ta cần những câu có vần có điệu; nhưng khi hát, có vần th́ tốt, không vần cũng chẳng sao. Nhạc đă chuyển văn, thậm chí chuyển những câu nói, thành “vần”.

Ngày nao em đến chơi tặng tôi một chiếc h́nh/Ghi nhớ ngày chúng ḿnh vừa quen nhau/ Năm tháng dài ngày sau ghi nhớ măi/H́nh em tóc ngang vai lượt giắt với hoa cài… Đây là một trong những ca khúc mà tôi rất thích vào những năm c̣n học Đệ Tứ, Đệ Tam (lớp 9, lớp 10), vào lứa tuổi 14, 15 lúc mới bắt đầu tập tễnh biết “cua” (tán) gái. Nếu đọc, bốn câu trên chỉ là một loại văn xuôi khá b́nh thường. Nhưng khi hát, ta có cảm tưởng chúng có vần điệu. Như thơ. Chữ, câu trở thành dính, kết với nhau như trong những câu ca dao. Có thể nói, giai điệu nhạc trở thành phương tiện chuyên chở tuyệt hảo. Tuyệt hảo đến nỗi, không những làm cho loại lời ca đơn giản mộc mạc như bài “Tấm ảnh ngày xưa” nói trên, mà c̣n làm cho loại câu cấu trúc khác lạ như “Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao” hay “Vết lăn trầm/Từ hoang xưa dấu thân anh ră mềm/Như mắt thầm” cũng biến thành trơn tru, dễ nghe mặc dù…khó hiểu/hay có khi không hiểu ǵ cả.

Lời ca được sự hỗ trợ của nhạc tác động rất mạnh trên các sinh hoạt văn hóa, nhanh và nhạy hơn cả văn lẫn thơ. Chúng sớm trở thành một công cụ phát triển văn hóa, đồng thời cũng là một công cụ tuyên truyền hữu hiệu, gây ảnh hưởng lâu dài. Chính v́ thế, mà ca nhạc góp phần mạnh mẽ h́nh thành nếp sống tinh thần của người dân, nhất là thế hệ mới lớn. Không những thế, có khi chúng c̣n uốn nắn cả tư tưởng và t́nh cảm con người. Chúng gần như trở thành món ăn tinh thần cho cả một thế hệ. Chẳng hạn trường hợp Trịnh Công Sơn và Phạm Duy. Nếu cả hai mà là nhà văn hay nhà thơ th́ chắc chắn cũng nổi tiếng, nhưng sẽ thua và thua rất xa một Trịnh Công Sơn hay một Phạm Duy viết nhạc. Nhạc của họ ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến nỗi họ luôn luôn là đề tài tranh căi nóng bỏng mỗi khi được đề cập đến.

Thơ th́ tôi cũng thuộc, nhưng chỉ nhớ lơ mơ. Nhớ câu trước quên câu sau, hay chỉ nhớ vài đoạn ḿnh thích. Vả lại, thơ th́ chỉ đọc thầm. Lời nhạc th́ hát lên, hát to. Hát cho người khác nghe. Tôi lớn lên trong âm hưởng của những “Khúc ca ngày mùa”, “Gạo trắng trăng thanh”, “Ngày trở về”, “Trăng thanh b́nh”, “T́nh anh lính chiến”, “Ai lên xứ hoa đào” hay “Duyên kiếp”, “Tấm ảnh ngày xưa”… Lớn hơn chút nữa, là những “Nỗi buồn gác trọ”, “Nửa đêm ngoài phố”, “Đêm đô thị”…Các ca khúc vang vang qua các đài phát thanh, qua những đêm ca nhạc ngoài trời, qua những sáng Chúa Nhật thi hát ở rạp Quốc Thanh được trực tiếp truyền thanh hay qua chương tŕnh “Nhạc yêu cầu” hàng tuần ở các đài phát thanh địa phương.

Ḱa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát/Ánh trăng xanh chiếu qua làng xơ xác/Chiếu hồn về bao khúc ca ngày mùa (Khúc ca ngày mùa/Lam Phương)
Trong đêm trăng, tiếng chày khua, ta hát vang trong đêm trường mênh mang (Gạo trắng trăng thanh/Hoàng Thi Thơ)

Cho đến giờ này, hơn nửa thế kỷ đă trôi qua, mà âm hưởng của những khúc hát như thế vẫn đọng lại trong tâm tưởng. Gần gũi, thân thương, nồng nàn. Thậm chí cả bài ca “Xổ số kiến thiết” mà Trần Văn Trạch hát trong những chiều xổ số hàng tuần (h́nh như vào ngày thứ tư) cũng không rời bỏ được kư ức vốn đă chật ních hàng khối kỷ niệm buồn vui của đời người. Chúng nhắc đến những ngày tuổi thơ thanh b́nh và ngập tràn mơ ước. Có thể nói: chúng tạo thành những ẩn dụ mà người ta “sống trong” và “sống với”. Chúng mạnh đến nỗi (ở một mức độ nào, có thể nói) tạo nên một số quan điểm sống. Lắm khi, cả lập trường chính trị. Người ta có thể không xem tranh, không đọc sách nhưng rất dễ dàng nghe hát. Xem tranh, đọc sách là tự ḿnh ḿnh xem, ḿnh đọc. C̣n hát, nếu ḿnh không hát, đă có người hát giùm cho ḿnh nghe. Mà không nghe cũng không được. Không thích, không muốn cũng phải nghe. Nghe riết thành quen. Quen lời, quen âm điệu. Chúng thấm vào vô thức lúc nào không hay. Đường vào t́nh yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn. Chao ôi, dù đă đọc bao nhiêu truyện, đă đọc bao nhiêu tài liệu nghiên cứu “cao cấp” về t́nh yêu và đă…yêu, câu hát ví von thời xa xưa đó vẫn cứ dai dẳng trở đi trở lại trong tôi. Mỗi khi suy gẫm về t́nh yêu đôi lứa!

***

Nếu hiểu văn hóa theo nghĩa rộng, nghĩa là những ǵ con người để lại trong quá tŕnh mưu sinh và tồn tại, th́ nhạc phổ thông đă để lại một dấu ấn khá đậm qua mấy chục năm dài đất nước lâm vào cảnh qua phân, sống trong máu lửa và hận thù, ḷng người ly tán. Hoàng Ngọc-Tuấn nhận xét: “So với thế kỷ 19, thế kỷ 20 đă đem đến cho chúng ta h́nh thức ca khúc phổ thông như một môi trường thuận lợi để diễn tả và truyền đạt những giá trị tinh thần và văn hóa. Tôi cho rằng kho tàng lời ca của chúng ta trong thế kỷ này, tính trên cả hai miền Nam Bắc, là một thứ nhật kư tập thể ghi lại mọi góc độ tâm t́nh và ư nghĩ của người Việt Nam đối với nhau và đối với lịch sử. Để hiểu tâm t́nh và ư nghĩ của người Việt Nam trong thế kỷ này, con cháu ở thế kỷ 21 có thể giở cuốn nhật kư tập thể này ra xem lại để thấy tất cả những ưu khuyết, đẹp xấu của chúng ta trong đó.” (2)

Một nhận xét xác đáng.

Nhạc miền Bắc, thường được gọi là nhạc đỏ (3), phủ nhận cái “bi”, thể hiện ư chí, ước muốn chiến thắng cả trong giai điệu lẫn trong ca từ. Các sản phẩm nghệ thuật nói chung và nhạc nói riêng, đều đuợc nhà nước kiểm soát một cách vô cùng chặt chẽ. Họ không chấp nhận bất cứ một sự xé rào nào, dù là nhỏ nhặt nhất. Mọi bi quan đều bị đè bẹp. Mọi tiêu cực đều bị lên án, bị triệt tiêu. Người bộ đội chỉ biết tiến lên, chỉ biết “nhắm thẳng quân thù mà bắn”. Bởi thế, nhạc đỏ không nhằm mục đích phản ảnh hiện thực, không thể hiện tâm lư của người dân trong thời chiến, lại càng không thể hiện một chút nào tâm t́nh riêng tư của người lính.Một số đặc điểm có thể nêu ra để giúp ta phân biệt nhạc đỏ với những ḍng nhạc khác:

- Thể hiện tính đấu tranh giai cấp, sự phân biệt địch-ta và tinh thần “ta nhất định thắng, địch nhất định thua” rất rơ ràng.

- Lời ca và giai điệu luôn luôn lạc quan, tuyệt đối không biểu lộ tư tưởng chủ bại hoặc yếm thế. Không đề cập đến nỗi thương đau, sự buồn chán hay chết chóc.

Thanh niên quê tôi làm chiếc gậy hành quân. Đặt cho tên gọi là chiếc gậy trường sơn. Luyện cho đôi chân vượt đường xa không mỏi, luyện cho tinh thần là chỉ tiến không lui. Gậy trong tay mồ hôi đă bóng, màu gỗ quê hương mang cả mối t́nh dân. Như nhắn nhủ những ai lên đường mà lời hứa với bao người thân.(Chiếc gậy Trường Sơn, Phạm Tuyên)

Cũng cần nhấn mạnh, khác với “nhạc lính”, đối tượng của nhạc đỏ không chỉ là người lính chính quy, nghĩa là bộ đội, mà bao gồm luôn những thành phần khác như du kích địa phương hay thanh niên xung phong, tóm lại là những người chiến đấu.

Quả pháo ơi, trên đường xa có mỏi, suốt đêm ngày có đói hay chăng, đường dài sức nặng càng tăng. Cùng nhau mang nặng t́nh chiến đấu, khó khăn chẳng rời. Chị em ơi, mỗi trái đạn đây mang tấm ḷng to.(…)Quả pháo ơi sao mà yêu như đứa trẻ, suốt đêm ngày ta bế trên vai. Đường về đô thị c̣n xa, cùng nhau mang nặng t́nh cứu nước, có ta có ḿnh. Chị em ơi mỗi trái đạn đây mang tấm ḷng ta. Cùng các anh góp lửa diệt thù. Dù bom rơi, dù bao bốt đồn, mong các anh yên ḷng, từng quả pháo trên tay anh. Chị em ơi niềm tin thắng lợi thôi thúc ta lên đường. Ḱa hỏa tuyến đang chờ ta.(Cô gái Sài G̣n đi tải đạn/Lư Nhất Vũ)

Nhạc đỏ gồm các chủ đề chính: thúc đẩy tinh thần chiến đấu của mọi người trong cuộc chiến đấu chống Mỹ và VNCH, ca ngợi đảng Cộng Sản Việt Nam, ca ngợi Hồ Chí Minh và các chính sách và chủ trương của nhà nước Cộng Sản. Tóm lại, đó là loại nhạc tuyên truyền. Chúng chỉ thuần túy là nghệ thuật tác động tâm lư. Có thể nói, chúng là một h́nh thức nghị quyết được diễn đạt bằng âm thanh. Đó là một nỗ lực thay đổi diện mạo của hiện thực. Hay nói khác đi, loại bỏ hiện thực. Nó không quan tâm đến cái cụ thể, càng không quan tâm đến cả cái hư cấu, mà quan tâm đến việc làm tê liệt khả năng nhận thức hiện thực. Người lính trong nhạc không như là một thân phận, một con người mà là một thiết bị được vận dụng bởi một bộ máy lớn lao và tinh vi. Do đó, nhạc đỏ khi nào nghe cũng rộn ràng, phấn khởi. Lời ca như chất men, kích thích niềm lạc quan, sự tiến tới. Và tạo tâm lư căm thù.

Như bao cô gái ở trên non, cô gái sông Ba đầu búi tóc thon./Tay vót chông miệng hát không nghỉ.
(…) Chim hót không hay bằng tiếng hát em./Mỗi mũi chông nhọn hoắc căm thù./Xiên thây quân cướp nào vô đây.

(Cô gái vót chông/Hoàng Hiệp)

Để bảo đảm cho hiệu quả lâu dài của lời ca tiếng hát và các sản phẩm nghệ thuật khác, nhà nước Cộng Sản có cả một chính sách rất chặt chẽ nhằm loại bỏ tất cả các yếu tố đưa đến sự nản ḷng: giấu cái chết của lính, giữ toàn bộ thư từ trao đổi giữa người lính và gia đ́nh, tạo tâm lư cảm tử, tuẫn giáo. Lời ca nói chung là những khẩu hiệu cộng thêm với một số diễn đạt t́nh cảm chung chung vô thưởng vô phạt, bảo đảm không bị “phạm húy”. Chúng quan tâm đến lập trường hơn là sự kiện, quan tâm đến sự thúc đẩy, động viên hơn là bày tỏ tâm t́nh.

Nhạc sĩ rốt cuộc chỉ là cái máy viết nhạc. Đọc qua những nhận xét rời của Nguyễn Thụy Kha hay “Hồi kư của một thằng hèn” của Tô Hải, ta sẽ thấy rơ hơn tính cách máy móc của người nhạc sĩ dưới chế độ Cộng Sản. Trong bài viết “Một thời nhạy cảm với ca từ”, Nguyễn Thụy Kha cho thấy cách kiểm soát những người sáng tác ca khúc chặt chẽ, chi li của bộ máy nhà nước chuyên chế.

“Mừng HN giải phóng và góp phần kêu gọi đồng bào miền Bắc không di cư vào Nam, Đoàn Chuẩn đă viết một t́nh khúc về mùa xuân HN rất đặc sắc là “Gửi người em gái miền Nam”. Bài hát đă được tài tử Ngọc Bảo thu thanh tại Đài Tiếng nói VN. Khi phát trên làn sóng điện, lập tức Gửi người em gái… nhận được những ư kiến phê b́nh rằng lời lẽ vừa ủy mị vừa vô chính trị(!), v́ muốn có thống nhất th́ phải đấu tranh, không làm ǵ có chuyện “rồi ngày thống nhất đến rất nhanh không ai ngờ” viễn vông như thế. Sự phê phán này đă khiến nhạc sĩ Đoàn Chuẩn không c̣n đủ cảm xúc để tiếp tục con đường sáng tác âm nhạc nữa. Ông đă dừng hẳn sáng tác.

Cũng thời kỳ này, sau Hoàng Việt, Phạm Tuyên viết hợp xướng “Miền Nam anh dũng và bất khuất” cho Đoàn Ca nhạc Đài Tiếng nói VN tŕnh diễn trên làn sóng hồi mùa thu 1960. Một hợp xướng hừng hực tinh thần cách mạng như vậy mà có cán bộ lănh đạo khi nghe ca từ “Máu thắm máu kêu trả máu/ Đầu oan kêu trả đầu” cũng đặt ra câu hỏi: “Cái ấy định đ̣i ai để trả nợ máu đây?” May cho Phạm Tuyên, ca từ nói trên là lấy từ diễn ca 30 năm đời ta có Đảng của Tố Hữu.

Cũng v́ những nhận định “lửng lơ” về ca từ như thế mà “T́nh em” của Huy Du sau công diễn cũng “bỏ xó” hơn chục năm. Cũng v́ những ám chỉ ác nghiệt như vậy mà những sáng tác của Vũ Ngọc Quang như “Nón bài thơ”, “Gửi người em gái An-giê”, hay của Thái Quư như “Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc” đều bị liệt vào loại có vấn đề.

Vũ Ngọc Quang v́ uất quá mà bỏ hẳn đam mê âm nhạc, chuyển sang dịch tiếng Pháp. Thái Quư th́ từ đó ít cảm hứng đi, không thể thăng hoa như “Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc” được nữa.

Cũng v́ những cái án không thành văn như thế mà “Bài ca tâm t́nh người thủy thủ” của Hoàng Vân – thơ Hà Nhật, đă bị cấm như cấm nhạc vàng. Hoàng Vân đă lao đao, Hà Nhật sống ở Quảng B́nh c̣n lao đao hơn nữa suốt một thời chống Mỹ.” (4)

Nhưng có lẽ không có tác giả nào vẽ lên một cách cặn kẽ và sống động thực trạng âm nhạc miền Bắc trong bộ máy kềm kẹp của nhà nước bằng Tô Hải. Khác với cách viết nhẹ nhàng của Nguyễn Thụy Kha, Tô Hải nói thẳng, nói ngay, nói không giấu giếm, không úy kỵ, không cần rào trước đón sau về “bản lai diện mục” của nền âm nhạc đó. “Hồi kư của một thằng hèn” chất ngất sự kiện, chất ngất đắng cay, chất ngất phẫn nộ của một người trong cuộc. Sau đây là một vài trích đoạn:

Nổi đ́nh đám và ồn ào nhất, nhưng cũng sớm mất dạng nhất là hàng loạt bài hát với đề tài đào mương, chống hạn, làm thủy lợi. Những Cờ Ba Nhất, Sóng Duyên Hải, Gió Đại Phong ra đời một cách…ŕnh rang, với mục đích “tŕnh làng” – đúng ra là tŕnh Đảng! Sự “tiến bộ” trong tư tưởng của nhạc sĩ, sau khi thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng, đều được “ép” ra đời…ông ổng!

Riêng tôi, về nông nghiệp, tôi đă “rặn” ra một …đống, nào Nước Đă về Đồng, Bài Ca Của Đội Thủy Lợi được giải của…bộ Thủy Lợi! Về công nghiệp, chỉ riêng đề tài ḥn than thôi, tôi đă viết tới…6 bài! Nào Mỏ Đẹp Mỏ Giàu, Bài Ca Từ Trong Ḷng Đất, Hành Khúc Công Nhân Mỏ…nào Mai Đây Con Lại Lên Tầng, Lên Đèo Ngang…Về điện, về xi măng, về tất cả…những ǵ đi thực tế cũng có ngay tác phẩm, tôi cũng được đề cao, khen thưởng, ít nhất cũng do cấp bộ!

Tóm lại tao, mày, nó, chúng tôi, các anh, chúng nó…đều làm dối, nói dối, khen nhau dối…”(5)

“Sống hay chết trong âm nhạc hiện thực xă hội chủ nghĩa chỉ là do ba cái khẩu hiệu “Giết, giết, giết! Chiến thắng!” hoặc “Muôn năm Bác Hồ, muôn năm Đảng Cộng Sản Việt Nam”, hoặc “Người về đem tới ngày vui…Đảng đă cho tôi sáng mắt, sáng ḷng”, c̣n âm nhạc th́ đúng là…”bố ai biết được” tôi nói ǵ ở cái nước Việt Nam ù ù cạc cạc về âm nhạc này! Thời chống Mỹ, giới âm nhạc miền Bắc cứ như trứng mùa… đẻ non. Đủ kiểu bài hát nôm na chưởi cha mách qué, viết ra chỉ sau khi động viên 15 phút là…hoàn thành!”(6)

“…không phải ít người từng se ḷng mủi dạ trước thực tế đau thương bầy ra trước mắt. Tôi đă thấy…cả một xă không c̣n bóng đàn ông, trắng xóa khăn tang của các chị, các mẹ…Cả một đơn vị, một chuyến phà, một đoàn xe, một gương mặt, thậm chí một bà mẹ già c̣ng lưng chở lính qua sông, mẹ Suốt, một tiểu đội con gái đêm đêm san đường, lấp hố bom, mới gặp mặt hôm trướng th́ hôm sau đă thành tro bụi.”(7)

“Đặc biệt về các anh hùng ở miền Nam th́ có…trời mới biết các ông ấy đă anh hùng thế nào! Điều này giải thích v́ sao, các bài hát ngợi ca các vị ấy cứ ra ông ổng (…) nhưng cuối cùng, tất cả đều “x́ hơi”…Cái kiểu viết “người thật” để xây dựng điển h́nh rồi cuối cùng nhân vật điển h́nh đó không như thế, thậm chí không hề có, hoặc có nhưng không quá đỗi anh hùng như thế, đă được chứng minh bằng chính những nhân chứng lịch sử (…) đó là những nhân vật chẳng …thật tí nào” (8)

***

Trong lúc đó, là một xă hội mở hơn nhiều so với xă hội đóng kín của miền Bắc Cộng Sản, người miền Nam có cơ hội để bày tỏ chính ḿnh. Qua văn, thơ, hội họa, nhiếp ảnh và qua nhạc. Trong suốt những tháng năm dài chinh chiến, người lính là h́nh ảnh nổi bật trong cuộc sống của xă hội miền Nam. H́nh ảnh đó gắn chặt với cuộc chiến, diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước. Gia đ́nh nào, không ít th́ nhiều, cũng đều có thân nhân nằm trong quân đội. Vả lại, ngay cả nếu không có thân nhân (điều này khá hiếm), th́ cũng có bạn bè, người hàng xóm hay người yêu là lính. Những thắng, bại trên chiến trường của người lính đều nhất nhất ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người. Và bi kịch của chiến tranh gắn liền với bi kịch cá nhân của từng người lính. Do đó, có nhiều, khá nhiều những bài hát đề cập đến người lính hoặc dành riêng hẳn cho đề tài người lính, gọi là “nhạc lính”.

Nhạc lính, trước hết, nói về người lính, đă hẳn. Mà cũng là nói về chiến tranh. Về một xă hội vùng vẫy để tồn tại, để thích nghi với hoàn cảnh bom đạn. Và mơ ước. Nếu gạt qua một bên vấn đề kỹ thuật, tŕnh độ, chuyên môn, gạt qua một bên chuyện phản chiến hay trợ chiến, b́nh dân hay cao cấp, nghĩa là “sến” hay “sang”, lời ca trong nhạc lính (cùng với các sản phẩm văn chương khác) phản ảnh một cách khá trung thực xă hội và tâm t́nh người miền Nam, đặc biệt là những ngựi ở thành phố. Những gian khổ, nhọc nhằn, vất vả, tiếc nuối, buồn chán, thất vọng, cay đắng , tủi nhục cùng với ước mơ – những ǵ vô cùng đời thường, vô cùng dân dă -, tất cả đều được bày tỏ qua lời ca mà không cần phải sử dụng một ẩn dụ xa xôi nào. Nói chung, nhạc lính đầy tính cách nỗi niềm và mang tính nhân bản rơ nét. Tất nhiên, nhạc lính miền Nam không thiếu những bản nhạc ca ngợi đời sống quân ngũ, ca ngợi tinh thần hy sinh của người lính với nhịp điệu hùng tráng, thúc giục. Lời ca động viên tinh thần chiến đấu, tạo niềm lạc quan, sự tin tưởng cho người lính xông pha ngoài chiến trường hay vinh danh những gương anh hùng, hy sinh trong cuộc chiến đấu. Nhưng số lượng những bài hát như thế không nhiều so với loại nhạc tâm t́nh.

Có khá nhiều tác giả viết về người lính: Y Vân, Trần Thiện Thanh,Nhật Ngân, Nguyễn Văn Đông, Lê Dinh, Anh Bằng, Minh Kỳ, Hoài Linh, Huỳnh Anh, Phạm Thế Mỹ, Đinh Miên Vũ, Phạm Đ́nh Chương, Tuấn Khanh, Lam Phương, Trúc Phương, Trầm Tử Thiêng, Phạm Duy, Nguyên Đàm, Nguyên Diệu, Phan Trần… Trong số đó, Trần Thiện Thanh là nhạc sĩ viết nhiều nhất. Không những nhiều nhất, Trần Thiện Thanh c̣n là người viết sống động nhất, mô tả rất đa dạng nhiều khía cạnh của người lính và đời lính. Có thể nói sự nghiệp của ông gần như gắn liền với nhạc lính, từ đầu cho đến cuối. Ông ca ngợi đời lính, ca ngợi người lính và cũng không giấu giếm tâm trạng bi lụy của người lính về t́nh yêu, về mơ ước bị đổ vỡ, về tương lai vô vọng…

Ta ghi nhận một vài đặc điểm của nhạc lính:

- Lời ca nhạc lính, phần lớn hay hầu hết, chủ yếu mô tả đời lính, nghiệp lính, những gian khổ của đời lính, mô tả sự chia cách, nhớ nhung, mơ ước ngày đoàn tụ, mơ ước ḥa b́nh.

- Nhạc lính có tính cách động viên hơn là tuyên truyền; có tính tâm sự hơn là thúc đẩy, có tính cách chia xẻ hơn là lên án; có tính cách than thở nhưng không chủ bại.

- Đặc biệt, khác với nhạc đỏ, nhạc lính không nhằm gây căm thù. Không những thế, trong một số trường hợp, c̣n kêu gọi xóa bỏ căm thù, kêu gọi t́nh thương, kêu gọi ḥa b́nh. Ngược lại với mục đích và nhiệm vụ hàng đầu của người lính là bắn giết kẻ thù, th́ nhạc lính nói chung lại “hiền”, thậm chí rất hiền. Lời ca phần lớn và chủ yếu nói về nhiệm vụ, về ḷng hăng say, sự hy sinh, ca ngợi sự chịu đựng gian khổ và ḷng quả cảm của người lính. Đề cập đến kẻ thù, ta t́m thấy những câu như “Diệt thù bên rừng sâu”, “Súng thù từ rừng sâu vẫn c̣n đó” (Phạm Thế Mỹ), “tiêu diệt thù”, “giặc tràn qua”, “súng căm hờn vẫn đổi trao” (Lam Phương), “Thép súng đang c̣n xây máu thù” (Nhật Ngân); “tiếng súng trong quân tàn tham đang rền vang ngoài bờ cơi” (Hoài Linh). Tóm lại, lời ca chỉ nói về kẻ thù một cách rất chung chung. Ngay cả một trong những bài hùng ca ca ngợi chiến công chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị, ta chỉ thấy có mấy chữ “sạch bóng thù”. C̣n toàn bộ nội dung nói lên niềm vui chiến thắng và xây dựng lại quê hương:

Cờ bay, cờ bay tung trời trên thành phố thân yêu/Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu (…)Niềm vui rồi này mẹ này cha, trong đêm đen t́m thấy ánh mặt trời.(Cờ bay/Lê Kim Hoa)

Và ngay cả khi đề cập đến cái chết anh hùng của những người sĩ quan chỉ huy trên chiến trường, ta cũng không hề thấy khêu gợi chút căm thù nào. Chỉ nói về cái chết, về sự hy sinh và nỗi tiếc thương:

Ôi! Vết đau nào đưa anh đến
Ngàn đời của nhớ thương
Hỡi bức chân dung trên công viên buồn (Người ở lại Charlie/ Trần Thiện Thanh)

- Nhạc lính đồng thời cũng là nhạc t́nh. Cũng là nhạc quê hương. Nói về lính cũng chỉ để nói về t́nh. Mặt khác, trong một số bản t́nh ca thuần túy, h́nh ảnh người lính cũng hiện diện. Có lẽ v́ đời lính, tự bản chất, chứa đựng sự xa cách, nhớ mong, niềm tuyệt vọng và bi kịch t́nh yêu.

Thành thật mà nói, không phải ai cũng nghe được nhạc lính. Để thưởng thức nhạc lính, trước hết phải là …lính. Và là người yêu của…lính. Không là lính hay không mang tâm cảm của một người đêm ngày đợi chờ tin từ chiến trường, th́ không thể nào thâm cảm được cái tâm trạng “Tôi ở miền xa, trời quen đất lạ/Nhiều đông lắm hạ/nối tiếp đi qua/thiếu bóng đàn bà”. Hay “Chào xuân đến súng xa vang rền/Xác hoa tàn rơi trên báng súng”. Chỉ khi đă đi hành quân rồi, chỉ khi đă từng ở giữa cái sống và cái chết rồi, ta mới có thể thấm thía được cái giai điệu và lời ca của nhạc lính. Nhạc lính không thể là nhạc thính pḥng. Không phải là nhạc để ngôi nhâm nhi từng cốc cà phê hay cốc rượu Tây. Cao xa quá, trừu tượng quá, và điêu luyện quá không thích hợp với thực cảnh và tâm t́nh người lính. Giữa bom rơi đạn nổ, giữa sự xa cách, nhớ mong, giữa cái mịt mù của một kiếp người, người lính cần cái ǵ cụ thể, gần gũi, trực tiếp, đơn giản và thậm chí…sến!

***

Sau hiệp định Genève, tuy bị chia đôi, nhưng đất nước được trải qua một thời gian yên b́nh. Ở miền Nam, việc đi lính – dù là hiện dịch, trừ bị hay quân dịch – là nhiệm vụ b́nh thường của những trai tráng vừa đến tuổi trưởng thành. H́nh ảnh của người lính được xây dựng từ những năm đầu của thời Đệ I Cộng Ḥa vẫn là h́nh ảnh chung cho ḍng nhạc lính cho đến trước tháng 4/1975. Đó là h́nh ảnh của một người ra đi để “bảo vệ xóm làng, quê hương”. Họ được gọi là “chinh nhân” hay “lính chiến”. Bước chân họ đi thi hành nhiệm vụ là “gót chinh nhân” hay “bước chinh nhân”. Cuộc sống rày đây mai đó là “đời lính chiến”. Một trong h́nh ảnh sắc nét và hoàn chỉnh nhất về chân dung người lính trong thời gian đầu có lẽ là h́nh ảnh được xây dựng trong “Anh đi chiến dịch”:

Anh đi chiến dịch xa vời/Ḷng súng nhân đạo cứu người lầm than/Thương dân nghèo ruộng hoang cỏ cháy/Thấy nỗi xót xa của kiếp đọa đày/Anh đi…(Phạm Đ́nh Chương)

Anh đi chiến dịch của Phạm Đ́nh Chương – Ban hợp ca Thăng Long

Một số khái niệm lư tưởng về người lính hầu như được gói trọn trong bản nhạc lính ra đời khá sớm này. “Ḷng súng nhân đạo”, một cụm từ mới mẻ diễn tả về vai tṛ của một quân nhân: súng là vũ khí bắn, giết nhưng chỉ bắn, giết nhằm bảo vệ dân lành. Ngoài ra là những h́nh ảnh khác gắn liền với đời quân ngũ: đời trai, sa trường, gió sương, nhịp quân hành, tiễn đưa, đợi chờ, ngày về quang vinh. Những cụm từ đó hầu như gói trọn hết tính cách “lính tráng” của một thanh niên thời chiến: nhập ngũ, chấp nhận một cuộc sống gian nan, xa cách gia đ́nh, xa cách người yêu, trực tiếp chiến đấu và mơ ngày chiến thắng, chấm dứt chiến tranh để trở về đoàn tụ.

Cũng trong thời điểm này, một bài hát khác được phổ biến rộng khắp, đề cập đến những người thanh niên thi hành quân dịch:

Nói rằng nước non đang mong/Đi quân dịch là thương ṇi giống/(…)Lạy trời tṛn năm tṛn tháng/Nợ làng ơn nước đă đền xong/Xóm làng hát câu thanh b́nh/Về nơi cũ t́m vui duyên lành (Bức tâm thư/Lam Phương)

Bài hát có tính cách động viên. Lời ca không phong phú và nhiều h́nh ảnh bằng “Anh đi chiến dịch”, nhưng nội dung th́ cũng từa tựa. Chia xa, làm trọn nhiệm vụ và đoàn tụ. Chân dung lư tưởng của người lính như thế được hầu hết các nhạc sĩ chia xẻ khi viết về người lính.

- Đời tôi quân nhân, chút t́nh riêng gửi núi sông(…) Những người trai đi giúp núi sông. (Nguyễn Văn Đông)

- Tôi bước đi theo tiếng gọi của người trai hay/ Vai súng lên đường cùng hiên ngang viết sử xanh (Anh Bằng)

Anh chiến trường tôi nơi hậu tuyến/Đời lính chiến xui gặp nhau đây/Đôi đứa ḿnh c̣n mỗi đêm nay/Nói ǵ cạn niềm thương để rồi mai ta lên đường/Rồi ngày mai ra đi/Chốn biên thùy anh sá chi gian nguy/Có bao giờ anh nhớ chăng/Đêm nào nằm gần nhau/Hồn xây mộng ước mai sau (T́nh anh lính chiến/Lam Phương)
- Anh về đây xây dựng miền quê hương/C̣n tôi năm tháng giữ biên cương (Ba người bạn/Minh Kỳ)

Ta để ư thấy nhiều bản nhạc sử dụng từ “biên cương”, “biên thùy”, “biên khu” để mô tả nơi người lính được điều đi phục vụ. Có lẽ hồi đó, trong những năm sau khi hiệp định ḥa b́nh Genève, công việc chính của người lính là bảo vệ các vùng biên giới, nơi có núi non hiểm trở, cách xa các vùng dân cư. Chẳng thế mà Tuấn Khanh mô tả:

Chiều nao anh đứng gác ngoài biên khu/Gió xa về dâng sương khói mịt mù/(…) Đây núi đồi âm u/Suối rừng vi vu/
Khói lam u huyền lửng lờ buông trên thôn vắng (Chiều biên khu)

Buồn và đẹp!

Anh Bằng mô tả cảnh biên cương không khác mấy với Tuấn Khanh:

Mẹ ơi . . . biên cương giờ đây
Trời không . . . mưa nhưng nhiều mây
Nửa đêm nghe chim muông hú trong rừng hoang
Nghe . . . gió rung cây đổ lá vàng
Sương xuống mênh mang (Nửa đêm biên giới)

Ngoài ra, c̣n có “sa trường”, một từ cổ xưa chỉ nơi có chiến trường: Dấn bước chân trên sa trường. Về sau, xuất hiện từ “tiền tuyến”. “Tiến tuyến” nghe mới, cụ thể hơn, rộng hơn v́ chiến trường không chỉ là vùng biên cương mà là ở khắp nơi, núi rừng, đồng ruộng, làng mạc và cả thành phố. Đối lại với “tiến tuyến” là “hậu phương”, chỉ chung những khu vực an ninh, xa các chiến trường đẫm máu. Như tựa đề một bài hát của Minh Kỳ “Anh tiền tuyến, em hậu phương.”

Anh hưởng văn thơ cổ, các nhạc sĩ dựng nên h́nh ảnh “chí làm trai”. Người lính mang phong thái của kẻ giang hồ lăng tử, những người không ngại xông pha ngoài sương gió. Đi lính, nói như Lam Phương, “Chốn biên thùy anh sá chi gian nguy”. Nguyễn Văn Đông đi xa hơn, “tang bồng hồ thỉ” hơn:

Anh như ngàn gió, ham ngược xuôi, tóc tơi bời lộng gió bốn phương

Một ví von thật đẹp, thật hào khí!

Cũng thế, Tuấn Khanh ví người lính với “cánh chim bằng”:

Đời anh như cánh chim bằng theo gió

Người lính của Lam Phương c̣n đáng yêu hơn: nghệ sĩ. Bên cạnh cây súng là cây đàn.

Để rồi một năm nơi biên cương dấn bước thân trên sa trường/Ngày th́ t́m vui bên chiếc súng khi đêm anh vui với đàn. (Chiều hành quân/Lam Phương).

Nhưng có lẽ không có bản nhạc nào vẽ ra h́nh ảnh của một người lính đẹp, trong sáng, lạc quan như trong “Thư người chiến binh”:

Giờ chia tay tôi ra chốn biên cương/Anh đi sa trường/T́nh ngàn phương đời vui với phong sương/Lăng quên ngày tháng (…) Nhớ lúc chiến tuyến/Những đêm nh́n trăng lên trên đồi hoa sim/Kê chung ba lô nằm canh giữa rừng già/Chuyện tṛ vu vơ (…) Hẹn mùa xuân về vui giữa thôn trang/Cắm hoa đầu súng…

(Nguyên Đàm & Nguyên Diệu)

Tôi cho đây là một trong những bản nhạc lính điển h́nh của thời chiến tranh chưa mở rộng. Dù lời ca đầy tính cách “lính tráng”: biên cương, sa trường, t́nh ngàn phương, phong sương, chiến tuyến, ba lô, cắm hoa đầu súng… nhưng lại chẳng khác ǵ diễn tả một buổi đi cắm trại trong rừng! Không có bom rơi đạn réo, không nghe lính chết trận, không có góa phụ. Những người lính “ra chốn biên cương” chỉ là những người đi công tác xa nhà. Sa trường, chiến tuyến không phải là nơi hiểm địa, mà là một khung cảnh thanh b́nh. Đi lính là để “lăng quên ngày tháng” và đợi chờ ngày trở về. “Cắm hoa đầu súng”, một h́nh ảnh rất đẹp, biểu tượng cho vinh quang, chiến thắng. Chính v́ thế, niềm vui của một ngày đoàn tụ dường như không phải là một nỗi niềm canh cánh bên ḷng hay một ước mơ bất trắc mà chỉ là chuyện thời gian. Ngày đoàn tụ luôn nằm trong tầm tay:

Chiều nay khi nghe xóm làng xôn xao/Đón anh mừng vui ôi phút nghẹn ngào/Ngồi bên lửa bếp gia đ́nh êm ấm/Lặng nghe anh kể cuộc đời buồn vui (Chiều biên khu/Tuấn Khanh)

Đi để về. Xa cách để đoàn tụ. Lính, trong khung cảnh trên, là một cuộc phiêu du đầy hứng thú.

Một trong những bản nhạc khác tô vẽ nên h́nh tượng phiêu du hứng thú đó là “Trăng tàn trên hè phố”. Tôi nói “tô vẽ” v́ bản nhạc được diễn tả như một bức tranh: hai người bạn – một người là lính vừa từ chiến trường về phép và một người bạn ở thành phố – gặp lại nhau, cùng nhau đi dạo trên hè phố trong một đêm trăng sáng vô cùng đẹp. Họ tṛ chuyện (chắc là rất rôm rả) suốt đêm về cuộc sống, về chiến đấu cho đến khi trăng tàn, mới chia tay. Để rồi sau đó, người lính trở lại chiến trường tiếp tục chiến đấu chống quân thù, không băn khoăn, lo lắng. Người đi và kẻ ở không quá khác biệt. Giữa thành phố và chiến tuyến, không là một biên giới sinh tử. V́ thế, cuộc chia tay không là “tráng sĩ một đi không trở lại” như của Kinh Kha ngày nào trên sông Dịch.

Tôi gặp lại anh người trai nơi chiến tuyến, súng trên vai bước lê qua hè phố /Tuổi ba mươi mà ngỡ như trẻ thơ (…) Anh sống đời trai giữa núi đồi (…) Bờ tre quê hương/Cây súng anh ǵn giữ (..) Súng thù từ rừng sâu vẫn c̣n đó/Đừng lưu luyến ǵ đây /Thôi bọn ḿnh chia tay/Thôi bọn ḿnh chia tay (Trăng tàn trên hè phố/Phạm Thế Mỹ)

Lời ca có mấy điểm đáng lưu ư: thứ nhất, cuộc sống thành phố rất thanh b́nh; thứ hai, chiến tranh đă có mặt, nhưng chỉ diễn ra trong “rừng sâu” (người Cộng Sản chỉ mới đánh du kích từ rừng núi); và thứ ba, thái độ lạc quan của người lính: “tuổi ba mươi mà ngỡ như trẻ thơ”. Dù đề cập đến người lính chiến, dù có nhắc đến sự chiến đấu – súng thù – nhưng bài hát là một bức tranh thanh b́nh.

Cảnh một người lính từ chiến trường trở về đầy “phong thái” như thế, cho nên cảnh lên đường ṭng chinh của một thanh niên không có ǵ sầu năo, bịn rịn. Trong buổi tiệc tiễn hành, tâm trạng người ra đi khá hưng phấn:

Bạn ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi/Ngày mai tôi đă đă đi xa rồi(…) /Bạn ơi ! khi nào ai hỏi đến tên tôi/Đời tôi lính chiến cánh chim tung trời/Ngày nào khi đất nước hết binh đao /giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu/trở về thành đô nắm tay ta mừng nhau. (Biệt kinh kỳ/Minh Kỳ-Hoài Linh)

Biệt Kinh Kỳ của Minh Kỳ & Hoài Linh – Sĩ Phú hát

Đời lính là một cái ǵ vươn lên, bay bổng: cánh chim tung trời. Tương lai là một viễn ảnh rạng rỡ: cuộc chiến nhất định sẽ chấm dứt, người đi nhất định sẽ trở về trong chiến thắng. Điều này khiến ta nhớ đến h́nh ảnh những kẻ lăng du trong nhạc tiền chiến. “Dừng bước phiêu du về thăm nhà” (Cô láng giềng/ Hoàng Quư). Đi lính là một cuộc lăng du. Tất nhiên là anh hùng hơn, lẫm liệt hơn! Nói như Trần thiện Thanh, “Anh đi anh lại về …Anh đi anh lại về” (Không bao giờ ngăn cách/Trần Thiện Thanh).

Nếu “Trăng tàn trên hè phố’ hay “Chiều hành quân” hay “Biệt kinh kỳ” vân vân… cho ta h́nh ảnh lăng mạn (và đầy hứa hẹn) của đời quân ngũ, th́ cũng xuất hiện trong thời kỳ này, lúc chiến tranh c̣n đang giới hạn, “Phiên gác đêm xuân” của Nguyễn Văn Đông. Bản nhạc vẽ nên một h́nh ảnh khác, nếu không muốn nói là hoàn toàn khác, về đời lính:

Đón Giao Thừa một phiên gác đêm
Chào xuân đến súng xa vang rền
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi.

Không có cảnh “hồn xây mộng ước mai sau”, “cánh chim tung trời”, “vui với phong sương”, “lăng quên ngày tháng”…, lại càng không “tuổi ba mươi mà ngỡ như trẻ thơ”. Mà là “súng xa vang rền”, “xác hoa tàn rơi trên báng súng”. Tâm sự và nỗi ḷng của người lính nghe như một tiếng thở dài:

Ước mong nhiều đời không bấy nhiêu/V́ mơ ước trắng như mây chiều/Tủi duyên người năm năm tháng tháng/Mong chờ ánh xuân sang, ngờ đâu đêm cứ đi/Chốn biên thùy này xuân tới chi?/T́nh lính chiến khác chi bao người/Nếu xuân về tang thương khắp lối/Thương này khó cho vơi, th́ đừng đến xuân ơi!

Bản nhạc này, theo Du Tử Lê trong một bài viết (đăng hai kỳ trên nhật báo Người Việt) về Nguyễn Văn Đông[ix] (9), được sáng tác đêm giao thừa 1956, khi tác giả đang đóng quân ở Khu 9, Đồng Tháp Mười. Có thể nói, sự xuất hiện của “Phiên gác đêm xuân” là dấu mốc đầu tiên đánh dấu tính hiện thực trong các ca khúc về lính, mở đầu cho những bản nhạc lính đặc thù sau này của nền nhạc miền Nam. Nó e ấp tiên báo sự lan rộng của cuộc chiến, trong đó người lính mang tính cách của một thân phận. Anh không c̣n là kẻ lăng du. Không c̣n là niềm hưng phấn. Mà là kẻ gánh vác khổ nạn. Người lính đối diện với súng đạn, tuy c̣n “xa” nhưng đă “vang rền”. Trong khung cảnh đó, mọi mơ ước trở nên “trắng như mây chiều”, v́ bóng “đêm cứ đi”.

Sau “Phiên gác đêm xuân”, Nguyễn Văn Đông cho ra đời thêm hai bản khác, mở rộng ư nghĩa và đi sâu hơn vào thân phận người lính: “Chiều mưa biên giới” được sáng tác khi ông đóng quân gần biên giới Việt-Miên và “Mấy dặm sơn khê,” khi đồn trú ở vùng cao nguyên Trung phần. Khác với h́nh ảnh người lính chỉ như là một nét phác thảo có tính biểu tượng và một vài mơ ước chung chung, Nguyễn Văn Đông đă đưa ra một cái nh́n trực diện vào đời lính tráng: sự bất trắc. Mở đầu bản nhạc “Chiều mưa biên giới” là một câu hỏi khá “nỗi niềm”:

Chiều mưa biên giới anh đi về đâu?/Sao c̣n đứng ngóng nơi giang đầu/Ḱa rừng chiều âm u rét mướt

Tự hỏi và tự trả lời:

Đêm đêm chiếc bóng bên trời (…) Đường rừng chiều cô đơn chiếc bóng (…)/Người đi khu chiến thương người hậu phương/Thương màu áo gởi ra sa trường/Ḷng trần c̣n tơ vương khanh tướng/Th́ đường trần mưa bay gió cuốn.

“Chiều mưa biên giới” mới chỉ đề cập đến sự cô đơn, xa vắng. “Mấy dặm sơn khê” đi xa hơn: cái chết.

Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng/Ngoài mưa khuya lê thê/Qua ngàn chốn sơn khê.
Mấy ai ra đi hẹn …về dệt nốt tơ duyên /Chít lên vành tang trắng,/Cầm tay nhau đi anh /Tơ trời quá mong manh.(10)

Về giai điệu th́ nhạc Nguyễn Văn Đông chưa có sắc thái ǵ mới so với những bản nhạc cùng thời. Nhưng lời ca th́ trau chuốt hơn, nhiều ẩn dụ và đầy “tâm trạng”. Với những cụm từ rất gợi h́nh như “đứng ngóng”, “chiếc bóng”, “vành tang trắng”, “mưa khuya lê thê”, “mong manh”…, Nguyễn Văn Đông vẽ nên một khung cảnh buồn về người lính phục vụ ở các tiền đồn. Lời ca vừa khinh bạc vừa chán nản. Ông dựng nên h́nh tượng một người lính miền Nam khá nghịch lư: một kẻ phiêu lăng, gắn bó với đời quân ngũ đồng thời lại là một kẻ cô đơn, khắc khoải về tương lai. Giấc mộng “khanh tướng” được đổi chác bằng một cuộc chơi sinh tử đầy “mưa bay gió cuốn”. Đọc kỹ hơn lời ca, ta t́m thấy tâm trạng rối rắm của tác giả: vừa nhận rơ và chấp nhận trách nhiệm và vai tṛ của ḿnh trong quân ngũ lại vừa than thở về chính trách nhiệm và vai tṛ đó. Vừa “bèo trôi theo xóm đưa”, lại “ngh́n sau nối ngh́n xưa”; vừa “Nước non c̣n đó một tấc ḷng, không mờ xóa cùng năm tháng” lại “Chít lên vầng tang trắng, cầm tay nhau đi anh”; vừa “Anh hỡi anh, đường xa vui đấu tranh” lại “ngh́n sau tiếc ngh́n xưa”. Vừa chấp nhận lại vừa khước từ. Như đă nói ở trên: một nghịch lư. Hăy gọi là nghịch lư Nguyễn Văn Đông! Bên cạnh những “Chiều mưa biên giới”, “Mấy dặm sơn khê” hay “Anh trước tôi sau”, ta lại có “Khúc t́nh ca hàng hàng lớp lớp” hay “Hải ngoại thương ca” chất ngất một niềm lạc quan hiếm thấy: “đời dâng cho núi sông”, “ḷng này thách với tang bồng”, “cờ bay phất phới quên chuyện ngày xưa”…Một nghịch đảo hoàn toàn với “Đêm đêm chiếc bóng bên trời” hay “Sao c̣n đứng ngóng nơi giang đầu”.

Qua ba bản nhạc, ra đời trong thời điểm chiến tranh đang c̣n diễn ra đâu đó xa xôi, ta t́m thấy h́nh ảnh người lính vừa bi hùng lại vừa bi tráng. Và không ngạc nhiên ǵ khi cả ba, đặc biệt là hai bản “Chiều mưa biên giới” và “Mấy dặm sơn khê” (và tác giả của chúng), phải trải qua nhiều “gian khổ”[xi] (11) trước khi đuợc phổ biến một cách rộng răi. Nói như Du Tử Lê, Nguyễn Văn Đông là người nhạc sĩ “đứng chông chênh giữa hai đầu tả, hữu”. Có lẽ Du Tử Lê muốn nói: “tả” là bi quan, tiêu cực; “hữu” là lạc quan tích cực. Theo tôi, không chỉ Nguyễn Văn Đông là kẻ đứng chông chênh. Mà nhạc lính về sau này, nói chung, đều đứng chông chênh như thế. Có thể xem đó là một trong những đặc tính của nhạc lính miền Nam trong suốt thời kỳ chiến tranh.

Trong khoảng thời gian chừng bốn, năm năm sống trong ḥa b́nh thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, người lính chỉ có một nỗi buồn là đồn trú nơi chốn biên pḥng heo hút, xa gia đ́nh. Gian khổ th́ gian khổ, nhưng chưa có mối hiểm nguy thực sự. Khi Cộng Sản miền Bắc bắt đầu phát động chiến tranh, th́ cái đích đầu tiên chẳng ai khác hơn là những người lính biên pḥng. Về sau, chiến tranh càng mở rộng, càng khốc liệt và lúc đó, mọi người thanh niên đều có thể phải vào quân ngũ do lệnh động viên, do t́nh h́nh đôn quân để phục vụ chiến trường, th́ tính “tả” trong nhạc lính lại càng nhiều. Nói cho đúng ra, không phải là “tả” hay “hữu”, bi quan hay lạc quan. Nhạc lính, trong lúc vẫn ca ngợi đời lính, nói lên tinh thần trách nhiệm và hy sinh để bảo vệ quê hương, chống lại cuộc tấn công liên tục của Cộng Sản, th́ đồng thời cũng phản ảnh khá sinh động hiện thực đời lính và qua đó, hiện thực chiến tranh. Có bản đầy trách móc. Có bản th́ thương thân trách phận. Có bản sướt mướt, bi lụy, là những tiếng kêu xé ḷng, đứt ruột. Có bản là nỗi khao khát ḥa b́nh.

Đây là điều ta không thể t́m thấy trong nhạc đỏ của miền Bắc Cộng Sản.

H́nh ảnh giang hồ, phong sương và tinh thần trách nhiệm của người người lính trong những năm đầu của thời Đệ Nhất Cộng Ḥa vẫn là h́nh ảnh lư tưởng của những người cầm súng. Vẫn là nguồn động viên, là dưỡng chất của một quân đội ngày đêm xông pha trong lửa đạn mịt mù của một cuộc chiến tranh không thấy ngày kết thúc. Ta có thể t́m thấy những h́nh ảnh đó qua những lời ca đơn giản và trong sáng:

- Tôi có người yêu tuổi ngọc vừa tṛn/V́ chinh chiến ngược xuôi ít về để hẹn ḥ

(…) Trách tôi yêu tay súng hơn nàng/V́ sao yêu sa trường hiểm nguy
Hơn phố phường với bao chiều lang thang (Lính xa nhà/Nhật Ngân)

- Khi lính đă yêu bướm ghen t́nh thắm /Muôn kiếp vẫn yêu nói chi ngàn năm
Khi lính đă yêu rừng tàn núi lở,/T́nh c̣n vững bền muôn thuở
Bao la như ḷng đại dương. (Ai nói với em/Minh Kỳ-Hoài Linh)

- Sa trường anh say /Hoa cài khắp trên đầu súng
Anh cười tiễn lên oai hùng /V́ ḷng anh nguyện ḷng
Một tâm trí v́ núi sông (Hôm nào anh đi/Lê Dinh)

Một trong những bản nhạc mô tả sống động nhất về đời lính là bài “T́nh thư của lính”. Các chi tiết về đời lính rất sống thực, ngôn ngữ dung dị, không sáo ngữ màu mè, lại nhiều chất thơ.

Từ khi anh thôi học/ và từ khi anh khoát áo treilli/ Đồn anh bên sông cạn/ và hoàng hôn ướt đẫm đáy sông thưa.

(…) Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước dâu em /Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa da t́nh/ Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay/ Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy.

Trong một số tác giả, lời ca của họ luôn luôn lạc quan về người lính và đời lính. Anh Bằng chẳng hạn. “Huynh đệ chi binh” cổ vũ tinh thần huynh đệ trong quân ngũ. “Nửa đêm biên giới” bày tỏ tấm ḷng yêu nước không lay chuyển của người lính chiến:

Thời gian không phai ḷng son/ Trường Sơn không ngăn t́nh con/ Ngày nao con ra đi nhớ câu mẹ khuyên/Yêu nước như yêu mẹ hăy c̣n /Giữ trong linh hồn

Nhưng cùng trong lúc đó, hiện thực chiến tranh và những bi kịch của nó vẫn được phản ảnh hết sức trung thực trong nhạc lính. Chính điểm này đă khiến cho nhạc lính, trở thành một “nhật kư tập thể” (12), ghi lại một cách trung thực dấu tích bi thảm về một giai đoạn đau thương của lịch sử đất nước. Điều khó thể t́m thấy trong nhạc tuyên truyền của miền Bắc Cộng Sản. Vể điểm này, ngôn ngữ trong nhạc lính là ngôn ngữ trực tiếp, cụ thể, diễn tả về người lính và đời lính: dài và gian khổ.

Đời tôi chinh chiến lâu năm(…)/Kiếp chúng tôi như kiếp sông dài trôi đi miệt mài …(Mùa xuân lá khô/Trần Thiện Thanh)

Rôi tôi vào quân đội gian khổ ngập chiến trường (Chuyện t́nh người con gái ao sen/Anh Bằng)

Các ca khúc trong giai đoạn này chất ngất một trời tâm sự. Tâm sự về sự gian khổ, về sự cô đơn, tâm sự với mẹ, với người yêu và với…chính ḿnh. Đồng thời cũng là những gửi gắm. Đến gia đ́nh, quê nhà, thành phố, nơi có cuộc sống êm ấm, thanh b́nh. Tóm lại, từ tiền tuyến gửi gắm về hậu phương!

Để h́nh dung trở lại khung cảnh xă hội miền Nam trong khói lửa chiến tranh lúc cao điểm, không ǵ bằng nghe lại “Đưa em vào hạ” của Trầm Tử Thiêng. Tôi nhớ là đă nghe bản nhạc này lần đầu tiên khi đang ở một trong những vùng khá heo hút của sông nước miền Tây, tỉnh Chương Thiện (xưa là khu Trù Mật Vị Thanh-Hỏa Lựu), vào mùa hè năm 1967. Lúc này, chiến tranh Việt Nam đang ở thời kỳ cao điểm, máu lửa ngụt trời từ rừng núi đến đồng bằng. Những người thanh niên tiếp tục lên đường ra chiến trường. Cuộc sống bất an, ḷng người xao xuyến.

Mùa hè năm nay, anh sẽ đưa em về phố chợ đôi ngày

Qua miền xa mà nghe rừng thiêng gọi lá

Tiếng nỉ tiếng non khi chiến trường nằm im thở khói
Đứa bé nh́n cha đang chờ giặc dưới giao thông hào
(…) Bạn bè em giờ đây người sương người gió
Chí cả trót mang nên chẳng cần về thăm trường cũ
Có đứa từ lâu nay vẫn c̣n đi biệt chưa về
(…) Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em ṿng khắp cả hư trường
Nghe người ca bài ca lời thương lời nhớ
Chén tiễn chén đưa cho ră rời một đêm hẹn ước
Rước áo t́m vui nơi chiến trường có bạn có thù (Đưa em vào hạ/Trầm Tử Thiêng)

Giai điệu trầm buồn, da diết. Lời ca phác họa ra khung cảnh bùi ngùi của những tiễn đưa, chia biệt, của những đợi chờ. Của những cuộc t́nh mong manh, bất trắc. Của hậu phương và tiền tuyến. Của những nơi an b́nh và vùng lửa đạn hiểm nguy. Tiếng nỉ non v́ kẻ c̣n người mất sau khi một trận đánh dữ dội kết thúc – chiến trường nằm im thở khói -, nỗi “ră rời hẹn ước” của thêm/rồi thêm/rồi thêm… một người nữa sắp ra đi! Bạn và thù. Đó là tất cả những ǵ mà người lính gánh vác. Gánh trọn, gánh hết bằng tất cả sinh lực của đời ḿnh. Hăy lắng nghe tâm sự của một người lính vừa trở lại đơn vị sau ba tháng dưỡng thương (tuy chưa lành hẳn) ở vùng hậu cứ:

Tôi trở lại vùng hành quân vùng xa xôi đá sỏi biết buồn (…)/Đời tôi chinh chiến lâu năm, yêu lúc băng rừng như mộng t́nh nhân / Kiếp chúng tôi như kiếp sông dài trôi đi miệt mài chẳng cần ai biết cho ai. /Tôi đến đơn vị lại đi, nhọc hơi đâu đếm mỏi tháng ngày (Mùa xuân lá khô/Trần Thiện Thanh).

Lời ca cho ta những h́nh ảnh đầy ấn tượng: “yêu lúc băng rừng như mộng t́nh nhân”, “kiếp sông dài trôi đi miệt mài”, “Nhọc hơi đâu đếm mỏi tháng ngày”. Tất cả cho ta cái cảm giác về những tháng ngày hành quân dài lê thê của một người lính chiến. “Vùng xa xôi sỏi đá biết buồn”, đối với lính, là khắp nơi. Và là những địa danh hoàn toàn xa lạ:

Toumorong, Dakto, Krek, Snoul
Ôi Dambe, Đức Cơ, Krek, Snoul
Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu (Người ở lại Charlie/Trần Thiện Thanh)

Không những lạ mà c̣n hung hiểm:

Vùng cao nguyên đất đỏ, trời lạnh với sương mù

(…)Khi đôi chân vẫn chưa ṃn trên núi cao /Khi đêm đêm súng căm hờn vần đổi trao
Anh vẫn đi đi giết thù (Đêm tiền đồn/Lam Phương)

Đinh Miên Vũ , trong Sương trắng miền quê ngoại, diễn tả nỗi khắc khoải của người lính đang ở trận tiền, nghĩ đến quê nhà và tương lai. Một cố gắng nối kết giữa rừng sâu và quê nhà, giữa hố nhỏ (cá nhân) và mẹ, giữa thép súng và “chuyện ngày mai”. Giai điệu và lời ca tuy nhẹ nhàng, không nhiều bi lụy, nhưng âm vọng của nó nghe thật tê tái:

Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm /Sương trắng rơi vai tôi buốt lạnh mềm /Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu /Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau/ (…) Nào những khi ôm thép súng tê tay /Đắm mắt theo bao hư ảo thở dài/(…)Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi /Dăm đứa thân nghe tin chẳng trở về (Sương trắng miền quê ngoại/Đinh Miên Vũ)

Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi. Tôi thích hai từ “lớp tuổi”, một mô tả khá chính xác t́nh h́nh động viên thời chiến. Hết “lớp tuổi” này đến “lớp tuổi” khác ra đi. Và bùi ngùi với “dăm đứa thân nghe tin chẳng trở về”. Ngồi ngẫm lại, chẳng ai mà không có “dăm đứa thân” bỏ xác ngoài chiến trường! Bao nhiêu năm chiến tranh đă trôi qua, mà mỗi lần nghe Quang Lê hát “Sương trắng miền quê ngoại”, tôi vẫn có cái cảm giác bùi ngùi của ngày tháng cũ khi nghĩ đến những người bạn cùng xóm hay cùng trường cùng lớp:

Bận hành quân nên chắc khó thăm nhau.

Bận hành quân! Nghe như bận …việc nhà, bận…học bài. Trời ơi, khói lửa ngụt trời th́ khi nào mới hết bận để ghé thăm nhau đây, hả Thụ, Khôi, Tiến, Hân, Sùng, Khánh…? Thằng nào sẽ về, thằng nào cứ bận dài dài và thằng nào sẽ hết bận, nhưng …không thấy trở về?

Nói về gian khổ của đời lính một cách sống động, theo tôi, ngoài Trần Thiện Thanh, c̣n có Trúc Phương. Qua hai bản “Trên bốn vùng chiến thuật” và “Kẻ ở miền xa”, lời ca của Trúc Phương đă diễn tả một cách sống động thân phận của người lính chiến miền Nam. Giai điệu trầm buồn, lời ca b́nh dị, cụ thể , rất gần gũi với những người lính – nhất là những lính trơn, không quân hàm, không chức tước. Một phác thảo vô cùng hiện thực về chân dung của người lính trận.

Lính, trước hết, là đi. Nói theo một cụm từ cùa Anh Bằng: gót chinh nhân.

Tôi thường đi đó đây /Bùn đen in dấu giày /(…)Chân nghe lạ từng khu chiến thuật/áo đường xa không ấm gió phương xa (Trên bốn vùng chiến thuật).

“Thường đi đó đây”, nghe như đi…du lịch. Thực ra, bước chân người lính giẫm lên mọi miền đất nước. Do sự hiện diện của kẻ thù, nơi nào cũng trở thành hiểm địa:

Mây mù che núi cao
Rừng sương che lối vào
Đồng ruộng mông mênh nước
Đêm đêm nằm đường ngăn bước thù

Ngưới lính có mặt ở vùng hỏa tuyến, nơi phân chia hai miền Nam Bắc: “Gio Linh đón thây giặc về”; đóng quân ở cao nguyên: Pleime gió mưa mùa”; tiến về miền Đông: “Tây Ninh nắng nung người, mà trận địa th́ loang máu tươi”; xuống vùng sông nước miền Tây: “Đồng Tháp vắng bóng hồng”.

Lính, là đi xa, thật xa. Lâu, rất lâu. Và rất lâu chẳng gặp người khác phái, một nỗi buồn rất đàn ông, nhất là đối với những anh lính trẻ:

Tôi ở miền xa/Trời quen đất lạ /Nhiều đông lắm hạ/Nối tiếp đi qua /Thiếu bóng đàn bà.

Người lính thường xuyên chạm trán với kẻ thù. Đâu đâu cũng có thể là chiến trường:

Đơn vị thường khi nằm trên đất giặc/ (…) Ngoài kia súng nổ/Đốt lửa đêm đen/Tầm đạn thay tiếng em

Một ư tưởng bất ngờ và vô cùng sống động: Lửa thù no đôi mắt.

No! Một mô tả cảnh lửa đạn liên tục và ngập trời, vừa diễn tả sự chai ĺ của người lính giữa trận địa. Hành quân liên miên, người lính dường như mất cảm giác với tiếng nổ, với thứ ánh sáng nhuốm đầy chết chóc luôn luôn nhắm ḿnh mà tràn tới. Riết, không c̣n bị kích động, không c̣n sợ hăi.

Giữa cái mong manh của cơi tử sinh, h́nh ảnh của người vợ/người t́nh hiện ra như một cứu rỗi:

Thèm trong hăi hùng/Tiếng hát môi em.

Khao khát duy nhất đối với người lính trận là yêu:
Xin đối diện một lần bên tôi/Cho tôi yêu bằng h́nh hài đó không thôi/Đến với tôi/Hăy đến với tôi/ Đừng yêu lính bằng lời.

Đừng yêu lính bằng lời!

Tâm sự đó gợi nhớ đến “Rừng lá thấp” của Trần Thiện Thanh:

Từ máy thu thanh cô nàng vừa ca:
“Trọn kiếp yêu anh lính khổ xa nhà”
Giữa rừng già vang tiếng hát thật cao
Nhưng giữa già tôi có thấy ǵ đâu?
(…) Xin thật ḷng qua câu hát đầu môi
Như lính giữa rừng yêu lá thấp mà thôi

“Yêu lá thấp”, chỉ v́ lá thấp mới mang lại cho người lính một chút cảm giác an toàn thật mong manh khi đi hành quân trong rừng sâu.

Lính, như thế, là bất trắc. Với lính, thương tật và chết chóc là điều thấy trước. Thương tật hay cái chết tự nó là bi kịch, đă đành! Bi kịch lớn hơn lại dính dáng đến một người khác: người vợ/người t́nh. Và ta t́m thấy lại h́nh ảnh người chinh phụ ngày nào trong những áng cổ văn. Nơi phía Nam giữa núi mờ/Ai bế con măi đứng chờ/Như nước non xưa đến giờ (Lê Thương). Trong “Cho người vào cuộc chiến”, người chinh phụ thời nay dự đoán đến những điều rủi ro ngay từ buổi vừa tiễn chân người chinh phu lên đường vào cuộc chiến:

Mai kia anh trở về, anh trở về/Dẫu rằng …. dẫu rằng không c̣n vẹn như xưa/Dù anh trở về trên đôi nạng gỗ/Dù anh trở về bằng chiếc xe lăn/Hoặc anh trở về bằng chiến công đầy(Cho người vào cuộc chiến/Phan Trần)

Một tấm ḷng, một lời hứa! Và sau đó là những tháng năm dài khắc khoải chờ đọc tin chiến trận. Dù sao, người chinh phụ trong “Cho người vào cuộc chiến” vẫn c̣n có chút lạc quan: người chinh phu sẽ về. “Kỷ vật cho em” th́ khác, nói đến cái tận cùng của những tận cùng: chết.

Anh trở về, anh trở về hàng cây nghiêng ngă/Anh trở về, có khi là ḥm gỗ cài hoa/Anh trở về trên chiếc băng ca/ trên trực thăng sơn màu tang trắng./(…) Anh trở về chiều hoang trút nắng/ Poncho buồn liệm kín hồn anh./Anh trở về bờ tóc em xanh/ chiếc khăn sô lên đầu vội vă, em ơi. (Để trả lời một câu hỏi/thơ Linh Phương/Phạm Duy phổ nhạc)

Kỷ vật cho em – thơ Linh Phương/Phạm Duy phổ nhạc – Khánh Ly hát

Lính, chết, góa phụ và khăn sô! Có thể tóm gọn tất cả bi kịch của chiến tranh bàng mấy chữ đơn giản và lạnh lùng đó.

Ngày anh đi, anh đi/Anh đi từ tổ ấm
Anh ơi, địa danh nào thiếu dấu chân anh ?
Đợi anh về /Chỉ c̣n trên vầng trán đứa bé thơ/tấm khăn sô bơ vơ
Người góa phụ cầu được sống trong mơ (Người ở lại Charlie/Trần Thiện Thanh)

Cũng như “Kỷ vật cho em”, trong “Tưởng người chết đi”, Trần Thiện Thanh có một cách diễn tả khác, không kém bi thảm:
Tưởng là chết đi, /Nhưng không anh lại về, /Anh lại về, anh lại về. /Vành khăn tang, ôi! t́nh tứ
(…) T́nh trăm năm cho t́nh ngắn trên trần gian,
T́nh trọn nghĩa yêu đương.
T́nh thiên thu cho người chết (Tưởng người chết đi/Trần Thiện Thanh)
Khác với cái chết của “Người ở lại Charlie”, xác tiêu tán, mất tích, người vợ lính ở đây được đoàn tụ với chồng. Anh về, anh lại về. Vâng, anh về để nối lại cuộc t́nh. Không phải là thứ ‘t́nh ngắn” trên trần gian, mà là “t́nh thiên thu” của một ra đi vĩnh viễn. Cuộc đoàn tụ được biểu tượng bằng vành khăn tang “t́nh tứ”. Một diễn tả cực kỳ thống thiết!

Nhưng thống thiết, tang thương hơn cả là khung cảnh “ngày mai đi nhận xác chồng”. Bài hát là một tiếng kêu xé ḷng, đứt ruột:

Ngày mai đi nhận xác chồng Say đi để thấy ḿnh không là ḿnh Ngày mai đi nhận xác anh Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ Như môi góa phụ nhạt mờ vết son T́nh ta không thể vuông tṛn Say đi mà tưởng như c̣n người yêu Phi cơ đáp xuống một chiều Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa Dài hơi hát khúc thương ca Thân côi khép kín trong tà áo đen Chao ôi ! Thèm nụ hôn quen Chong đèn, hẹn sẽ đêm đêm đợi chờ Bây giờ anh phủ mầu cờ Bây giờ anh phủ mầu cờ Em không nh́n được xác chàng Anh lên lon giữa hai hàng nến trong Mùi hương cứ tưởng hơi chàng Ôm mồ cứ tưởng ôm ṿng người yêu !
(Tưởng như c̣n người yêu/Phạm Duy phổ từ bài thơ “Thương ca I” của Lê Thị Ư) (13)

Có người lính, nhận biết thân phận ḿnh chẳng khác ǵ “đồng tiền sấp ngữa”, anh không muốn người t́nh thành người vợ. Đơn giản là v́ anh không muốn người t́nh sớm trở thành góa phụ, một “góa phụ ngây thơ.” “Góa phụ ngây thơ”, một cụm từ khá mới mẻ, là tựa đề một bản nhạc lính khác của Trần Thiện Thanh, phổ từ bài thơ cùng tên của Hà Huyền Chi, cũng là một người lính.

Thượng Đế xa vời, thiên đàng đóng cửa
Tiếng cười chưa tan, nước mắt ṛng ṛng
Số phận con người , đồng tiền sấp ngửa
Em, em ơi, em có hiểu ǵ không
Nên đơn cưới, một tờ đơn xin cưới
Anh viết rồi, rồi anh lại xé em ơi
Không, anh không muốn thấy người yêu anh nhỏ bé
Một sớm nào thành góa phụ ngây thơ

Nếu có người lính từ chối kư tờ đơn xin cưới, th́ ngược lại, cũng có người lính trở thành anh hùng bất đắc dĩ v́ bị t́nh phụ, trong một bản nhạc của Trầm Tử Thiêng:

Hay tin Huyền phụ anh một đêm mưa gió
Anh băng mưa giữa đêm khuya mà trời buốt giá
Anh đi để trả thù người em phụ phàng
Anh lên đường. Anh lên đường đầu quân
(…) Anh hiên ngang như thần tượng
Anh hăng say trông lạ thường
Anh xuyên sâu qua ḷng giặc
Anh lao thân trong tầm đạn (Người hùng cô đơn/Trầm Tử Thiêng)

Và rồi anh chết trên chiến trường!

Cái chết trở thành thân quen và đơn giản, đến nỗi dường như không c̣n là biến cố, là bi kịch. Nó có thể chỉ là một mẩu tin trong bản tin chiến sự hàng ngày. Thân phận của người đi trước nằm trong “dự phóng” của người đi sau. Chẳng lạ ǵ, những anh chàng sinh viên đến tuổi “đôn quân”, nhận giấy gọi nhập ngũ, bèn “trả lại” cho người yêu những ngày vui tuổi trẻ nơi cơi yên b́nh sẽ không bao giờ c̣n nữa:

Trả lại em yêu, khung trời Đại Học/Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát/Vết chân trên đường vẫn chưa phai nhạt
(…) Trả lại em yêu con đường học tṛ /Những ngày Thủ Đô tưng bừng phố xá
Chủ nhật uyên ương, hẹn ḥ đây đó /Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt

Anh “trả lại” để “ra đi”:

(…) Anh sẽ ra đi về miền cát trắng /Nơi có quê hương mịt mù thuốc súng
Anh sẽ ra đi về miền mênh mông /Cơn gió Cao Nguyên, từng đêm lạnh lùng (Trả lại em yêu/Phạm Duy)
Sau khi trả hết mọi thứ cho em như là những di vật để lại, lời ca chùng xuống:

Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về.

Chùng xuống mà nghe vẫn thản nhiên. Một thản nhiên kinh khiếp!

Bài hát có cái ǵ trớ trêu. Nó đưa ra h́nh ảnh khá lạ lùng của xă hội miền Nam thời chiến: chiến tranh khốc liệt nhiều nơi, nhưng ở các thành phố/thị trấn, cuộc sống vẫn b́nh thường. Là nơi người ta có thể tận dụng thời gian để sống, để biết ḿnh c̣n tồn tại. Mai ta đụng trận, ta c̣n sống/Về ghé sông Mao phá phách chơi/Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm/ Đốt tiền mua vội một ngày vui (thơ Nguyễn Bắc Sơn).

Đối với lính, những ngày phép là phần thưởng duy nhất cho những người lao thân vào ṿng lửa đạn, là thời gian bù đắp và hưởng thụ. Là lúc “mua vội” một/và những “ngày vui”

Một trăm em ơi một trăm phần trăm…Một giây về phép anh xin dành cho em đó (Một trăm phần trăm/Vũ Chương)
Hôm nao anh về phép
Hai đứa đi dạo chơi
Vi vút len chân trong rừng người. (Lính độc thân/Minh Kỳ-Vũ Chương)

Từ xa tôi về phép hai mươi bốn giờ
T́m người thương trong người thương
Chân nghe quen từng viên sỏi đường nhà
Chiều nghiêng nghiêng nắng đổ

(…) Bốn giờ đi dài thêm bốn giờ về
Thời gian c̣n lại anh cho em tất cả em ơi

Ta đưa ta đến đỉnh tuyệt vời
(Hai mươi bốn giờ phép/Trúc Phương)

Đỉnh tuyệt vời! Một bù đắp xứng đáng cho nhũng gian khổ chiến trường.

Đă nhất là về Sài G̣n nghỉ phép. Sài G̣n xôn xao bát phố. Tất bật hẹn ḥ. Với người em gái Gia Long. Với cô nữ sinh viên Văn Khoa. Vẫn trường học, chợ búa, pḥng trà, cà phê. Vẫn tưng bừng phố xá. Vẫn cây dài bóng mát. Vẫn mây trời xanh ngát. Một nơi an toàn để người lính trở về sau khi giáp mặt từng phút từng giây với cái chết ngoài trận địa. Sài G̣n, hậu phương thanh b́nh, nơi không nghe tiếng đạn nổ, lửa cháy. Cũng là nơi nghe hát những khúc ca bi hùng về người lính – cái không thể t́m thấy nơi chiến trường. Ngay cả sau này khi chịu đựng một số cảnh đặt bom do đặc công Cộng Sản thực hiện hay sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Sài G̣n rốt cuộc vẫn là nơi an toàn nhất, b́nh yên nhất và đáng yêu nhật để người lính trở về.

Những ngày cuối tuần ở khu chợ Bến Thành, đường Lê Lợi, đường Tự Do, vân vân, người ta có thể gặp rất nhiều lính. Từ các chiến trường, từ các quân trường. Hoặc là đi phép thường niên hoặc là đi phép đặc biệt sau một chiến dịch nào đó. Có người bạn vừa gặp nhau trên hè phố chiều thứ bảy tuần này, th́ giữa tuần sau, bỗng nghe tin anh đă tử nạn trên chiến trường.

Sài G̣n/chiến trận. Trắng/đen. Sinh/tử.

Hai cơi nhân sinh mong manh tiếp giáp. Thoắt bên này, thoắt bên kia.

Người đi chưa đợi sáng
Đưa nhau cuối đường sợ làm đêm vui rủ xuống (Hai mươi bốn giờ phép/Trúc Phương)

“Đêm vui rủ xuống”, một h́nh ảnh bất ngờ và đẹp. Ngậm ngùi đẹp!

Chính v́ thế mà hơn ai hết, những người lính ngoài mặt trận và vợ con/người yêu của lính là những người khao khát ḥa b́nh, ước mơ đoàn tụ.

Nguyễn Văn Đông cầu xin:

Mẹ ơi cầu xin cho xóm làng quê hương xóa mờ chiến trường
Đồng bào ta cùng thương nhau.. xóa hận thù đi.. lấp đi đường ranh giới
(Lá thư người lính chiến)

Nhật Ngân chia buồn:

Xin chia buồn cùng người cha đêm con chào đời đă không có mặt
Xin chia buồn cùng người em trong đêm tân hôn
nồng ấm chưa quen đă vội chia tay
Xin chia buồn cùng mẹ già có đứa con trai chết trận chiều nào
mới vừa trở về quốc kỳ bỗng thấy
Xin chia buồn cùng người đi khi quay trở lại tấm thân bất toàn
(…)Quê hương tôi là thế đó bao năm trường rồi chém giết vô duyên
anh em tôi là thế đó đi nghe người ngoài giết nhau quá nhiều
xin ngưng tay một giây phút
xin nghe một lần tiếng khóc bi thương …

(…) xin chia buồn cùng Việt Nam quê hương nhục nhằn máu xương chất chồng
Xin chia buồn cùng Việt Nam bao nhiêu năm qua đạn với bom rơi
trên ruộng trên nương …
(Xin chia buồn)

Xin chia buồn của Nhật Ngân – Elvis Phương tŕnh bày

Trầm Tử Thiêng đưa ra một lời nguyện cầu sâu lắng:

Người về một giờ một đông thêm
Người đi càng giây càng không c̣n
Một thời điêu linh. Một phen hoạn nạn
C̣n lại hôm nay những lời kinh t́nh yêu đầy nhiệm mầu

(Kinh khổ)

Kinh Khổ của Trầm Tử Thiêng – Khánh Ly hát

Trong khi c̣n chiến tranh, nhạc lính được hát như một bày tỏ nỗi ḷng, có khi như một bù đắp, của những người khoát chiến y.

Hết chiến tranh rồi, nhạc lính vẫn được hát. Như một hoài niệm. Và có khi như một vết thương chưa hề lành. Đối với lính, đă hẳn. Mà cũng c̣n đối với hàng triệu hàng triệu người đă từng chia xẻ những gian khổ, hy sinh, mất mát, đau thương của họ.

***
Thay lời kết

Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không có h́nh tượng nào bi hùng, lắm khi oan khiên, bằng h́nh ảnh của người lính. Khi nhân loại bắt đầu có cái gọi là chiến tranh th́ người lính trở thành trung tâm điểm, là sức mạnh, là yếu tố gắn liền với sự tồn vong của một quyền lực. Lính là con người, và điều nghịch thường là, họ phải làm những công việc vượt ra ngoài khả năng và trái tim của một con người. Họ phải chịu đựng những ǵ gian khổ nhất, đau đớn nhất. Không những thế, phải thực hiện những điều phi lư nhất, những điều chống lại chính bản tính của ḿnh: chém/giết, bắn/giết. Và chấp nhận cùng đích của một chiến sĩ: cái chết. Bất đắc kỳ tử. Da ngựa bọc thây! “Chiến tranh là sự bắn giết nhau của những người không quen biết nhau để phục vụ cho những người quen biết nhau nhưng không hề bắn giết nhau”. Chí lí biết bao! Tôi rất tâm đắc với cái định nghĩa về chiến tranh này của một tác giả mà (tiếc thay) tôi quên mất tên.

Lính tráng xưa nay đều thế. Và là thế.

Lính thú đời xưa:

Ngang lưng th́ thắt đai vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài.
Một tay th́ cắp hỏa mai.
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên.
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.(Vô danh)

Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm tối dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng.

Lính chiến ngày nay:

clip_image002_thumbNgày ướt vớ, đêm mang giày ngủ vơng
Sáng, trưa, chiều, tối cũng lấm bùn hôi
Đêm chờ sáng, Poncho trùm chống muỗi
Ướt triền miên, đời lính cực th́ thôi!
Máu lại đổ trên bụi cây, khóm lá
Đêm đổi quân, ngày đánh chốt, phá kiềng
Pháo, đạn, bom, ḿn bẫy nổ liên miên
Địch cố thủ, hạ quyết tâm chống đỡ .
Mùi tử khí theo khói đưa, lửa quyện
Xác phơi ḿnh chờ đêm xuống mang đi
Bài vọng cổ. Trời ơi! Ai cất tiếng!
Xuống câu Xề nghe năo nuột, lâm ly !
Bịch gạo sấy một tuần chưa nhai hết
Thuốc vàng tay, cổ rát, nứt môi khô
Máu c̣n rơi, người c̣n quấn Poncho/
Ôm gh́ súng, mắt cay nhoà mỏi mệt .

(Trích đoạn thơ: Chuyến hành quân đầu đời (tháng 10/1973)/Huy Văn ) (14)

Hiện thực đến thế th́ thôi!

Dẫu vậy, có khi người lính được dựng nên một cách khác. Trong một bài viết về người lính, Nguyễn Thị Thảo An chua chát nhận xét:

Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính ḿnh, để thoả măn cho những kẻ trông con ḅ để vẽ con nai, và ngồi pḥng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu th́ phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tṛn. Anh mặc đồ trận mới toanh c̣n nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái t́nh. Và người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy th́ quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương.

Đặc biệt, Nguyễn Thị Thảo An ghi nhận h́nh ảnh vô cùng trung thực về những người hiếm khi được bàn về/lắm lúc bị quên lăng: vợ lính

Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xă hội hậu phương. (Chân dung người lính VNCH/Nguyễn Thị Thảo An)[xv] (15)
Lính, là tiếc thương! Là chinh phu của chinh phụ. Lính, là bi tráng! Lính, có khi là oan trái. Lính, có khi là dứt bỏ, là tận cùng.

Đó là những người đàn bà b́nh dị với tấm áo vải nội hóa rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Đó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh ḿ làm quà gặp mặt. Đó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.

Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như t́nh cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút t́nh cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nh́n đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước. Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Đó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.

 


B̀NH LUẬN

Tản mạn cuối năm  
H́nh ảnh đáng ghi nhớ trong năm 
Miệng kẻ sang có gang có thép 
Hiến dâng máu ! 
Xướng xa vô loài
Khinh bỉ
Học làm người
Cái Hộ Chiếu/Thông Hành
Thất bại hay thành công
Ngân hàng quân đội
Nói chuyện với Hà Sĩ Phu
Trái khoáy cuộc đời 
Một chế độ hèn hạ 
Chữ với nghĩa 
Cơm với cá…  
Tuyên bố đầy tính sáng tạo
Chưa hết đu dây
C̣n có t́nh người không? 
Cả tin hay nghi ngờ 
Ca sĩ hải ngoại... Những kẻ bán linh hồn xho quỷ
Sợ hay không sợ trung quốc
Gây hấn!
Lại nói về lá cờ
Trớ trêu của lịch sử
Các anh, một chính phủ khốn nạn!
Xin cám ơn Tổng Thống Obama
Nổ
Nước mắt cá sấu 
Bánh ḿ Ai Cập, cá Việt Nam, khát vọng con người 
Trách niệm về đâu 
Mặc cảm dốt nát
Đâu là sự thật ?
Bệnh Nổ Ở Mỹ Rất Thịnh Hành?  
Gần 2 triệu người đă hy sinh cho cuộc chiến, v́ mục đích ǵ?  
Văn hóa "Giả Vờ"  
Tổng Thống Donald J. Trump ?
Mừng mùa Xuân dân chủ!
Tâm lư chính trị
Bắt Ls Nguyễn Văn Đài là hành động tuyệt vọng của CS
Chuyện ǵ cũng chấm hết !
Dốt như chuyện tu, Ngu như tại chức
Bài học nặng kư
Không thể tha thứ được
Em bé và những viên sỏi
Bệnh "nói dai, nói dài, nói dở, nói dô diên"
Rường cột nước nhà
Rỗng tuêch rỗng toác
Vẫn chuyện xe cán chó
Hai cái băy nguy nhiểm của "Nhớ rừng"
Giá trị của VNCH
30 Tháng Tư, cô nghệ sĩ Kim Chi dứt khoát
C̣n ǵ xấu hổ hơn nữa?
V́ sao Do Thái không dám không kích Iran?
Ông "cha" Trịnh tuấn Hoàng
Nói KHÔNG Với Cộng Sản!
Những sự thật cần phải biết  về VNCH  
Đập "b́nh" phải đập cái b́nh... phong! 
Thăm dân cho biết sự t́nh 
Cái giá của Tự Do 
Con chuột và cái b́nh  
Đàn ḅ vào thành phố 

Tranh quyền đoạt lợi
Làm từ thiện - Nên hay không

Thôi rồi... 
Chuyện biển đông 
Quả đại pháo cuối cùng  
Biển Đông dậy sống  
Vụ HD 981: Việt Nam xem xét quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ
Thư trả lời một bạn Du Học Sinh....
Gửi các anh Quân Nhân QLVNCH đang ảo tưởng
Tổ Quốc muốn ta phải kiên cường
Đừng mắc mưu bọn Việt cộng....
Việt Cộng – Việt Cộng  
Một âm mưu thâm độc của Việt Cộng 
Họ là “ngụy”, ta là ǵ?  
Việt cộng hóa

Kinh nghiệm tạo ra kinh nghiệm
Những sự thật cần phải biết
Giọt nước mắt cho quê hương
Vơ Thị Thắng và Nguyễn Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng
Muốn Việt Cộng sớm sụp đổ
Tổ Quốc Việt Nam - C̣n hay đă mất?
Đồng chí Ếch dốt chính tả
Đứng chàng hảng 
Thời sinh viên ở Sài G̣n  
Hăy nói trước ngày chết  
Chuyện cái sổ hưu
Thật giả, giả thật
Bất an
Nhận định về cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ 2012
Thế hệ của tôi – một thế hệ vứt đi
Người CS - Cộng sinh hay kư sinh
Miền Nam sau 37 năm dưới chế độ CS
Lẳng lặng mà xem...
Chủ nghĩa tư bàn và chủ nghĩa tư bản đỏ
Không có gí quư hơn độc lập con c...
Bản án chế độ cộng sản VN
Phản hồi về bài báo "Hành động lố bịch" trên báo QĐ...
Thân phận một tù nhân chính trị VN bi quên lăng
Hơi ấm non sông
Mẹ kiếp: Đứa nào bán nước?
Thêm lần nhắc nhớ
Hào khí Việt Nam – Đáp lời Sông Núi!  
Nhân ngày Quân Lực 19 tháng 6...  
Hai câu chuyện phụ nữ Việt Nam
Tương lai nào cho đảng cộng sản VN?
Anh hùng dân tộc
Thiên tài đảng ta
Ngọc ở trong nhà
Băi nhiệm và bất tín nhiệm
Ngày phán xét sẽ đến
Thân phận "cử tri" và "Đại biểu Nhân dân" ở Việt Nam
Sức mạnh của Cộng Đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại  
Giữa Đạo và Đời
Tiên lăng - Chuyện không đơn giăn
Triệu con tim, c̣n triệu khối kiêu hùng
Độc quyền đẻ ra đặc quyền
Những viên Đạn Hợp Âm
Đảng là tên đầy tớ phản phúc!
Cơn băo lốc
Kẻ thù nguy hiểm chính là thành phần đánh phá cộng đồng
Xuân quê hương
Nhân quyền trong rừng luật
Nhận lầm đồng hương
Vô tôn giáo
Bạo lực của cường quyền: Xưa và Nay
Nhân quyền trong rừng luật
Những người "vọng quốc"
Chó sói gởi chân
Làm thế nào để giành lại tự do?
Thử cho biết
Tin nhà nước !
Thế chân hạc mới tại Á Châu
Thời anh hùng
Đỗ Thị Minh Hạnh - Giọt nước hay mảnh thuỷ tinh
Tuyển dụng nhân tài
Nghề bán nước
Đạp vào mặt lịch sử
Cái giá của độc lập và tự do
Thêm một chiến sĩ đấu tranh bị cầm tù
Thằng dân
Người lính VNCH & vành khăn tang Tổ Quốc
Nhận định t́nh h́nh đất nước hiện nay
Núm ruột quê hương
Dép râu và nón cối của bộ đội Việt Cộng
Khủng bố: Xưa và nay
Lại viết về nổi bất hạnh của QLVNCH
Bài học 30 tháng 4
36 năm Quốc hận nghĩ về tâm trạng của tù nhân chính trị
Những ngộ nhận lịch sử
36 năm Quốc hận tôi nghĩ ǵ?
Nhớ lại nỗi bất hạnh của QLVNCH
Quốc gia thua để thắng, cộng sản thắng để thua
Chiến sĩ VNCH được giải ngũ chưa?
Người lính VNCH
Sáng mắt ra chưa?
Trí tức thổ tả
Giă từ Thiện và bệnh Mù Loà
Triển vọng chiến thắng công sản của người Quốc Gia
Tôi là ai?
Xuống đường
Nằm Vùng? Ai? Ở Đâu?  
Lộn xộn tiếng Việt thời giao lưu văn hóa ở Việt Nam
Mậu Thân, Anh c̣n nhớ hay đă quên ?
Thiên đàng XHCN
Từ Tunisia, qua Yemen, đến Ai Cập, bao giờ đến công sản Việt Nam ?
Đàn cá trong ao bác Hồ và những con chó của Pavlov
Ṭm tem...
Thư gửi Nguyễn Đắc Xuân
Về chuyện “trong sáng hóa” tiếng Việt...
Tự điển
Văn hoá và con người
Chuyến xe buưt và khúc hát người lính mù  
Vài suy nghĩ về biểu t́nh chống văn hóa vận tại Melbourne
Những kẻ thầy đời
Nhạc lính
Tin và không tin trong xă hội VN
Khi bài hát trở về
Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương
Ḷng dân đang chuyển ?
Tứ Bất Tận - Tứ Bất Năng
Lê Thị Công Nhân
Nh́n lại đống rác lịch sử đánh Mỹ cứu nước của csvn
34 năm sau, họ là ai ?
Nh́n Tây Tạng thấy Việt Nam
Chuyện đời...
Đặc công văn hoá miền Nam
Bài viết từ một người SG
Thư ngỏ gửi những người trí thức mê sảng...
Tội nghiệp đất nước tôi
Thời thế mới, đấu tranh mới...
Bao giờ dân Việt trở thành thiểu số trên chính quê hương ḿnh
Nói với các con tôi
Phiên phiến tuổi già
Hành vi nhỏ... dă tâm lớn
Gà trống và cáo
Xin đừng lăng quên nhà dân chủ trẻ Lê Trí Tuệ
Thảm trạng người Việt tỵ nạn tại Cam-bốt
Sao anh nỡ đành quên
Thế hệ già hải ngoại nên nh́n lại
Khiếp nhược: Nhục và hèn
Tiếng nói từ Mộ Đức
Từ tiếng súng Trần Văn Bé Tư
Ca rao thời đại hcm
Những vần thơ chui
Lê Thị Công Nhân - Người con cưng của ...
Cũng bởi thằng dân ngu
Chống VC hay TC?
Cái Làn và cái L...
Trông thấy vậy mà không phải vậy
Thèm
Hăy vất bỏ khối nặng của tính ác và sự xấu
Chọn lựa
C̣n cờ đỏ sao vàng th́...
Đừng măi lợi dụng "nỗi đau da cam"...
Lạ và nhạy cảm
Chân dung người vợ lính
Việt Nam lâm nguy
Gịng sông Bến Hải vẫn c̣n
Giáo dục VN, tội ác băng hoại xă hội
34 năm nh́n lại cuộc chiến chống csVN
Nay anh, mai tôi
Chiến dịch hoa hồng đỏ của csVN
Đêm nhớ về anh
Nhớ Vơ Hoàng
Cái miệng
Từ Lê Văn Thinh đến Nguyễn Cung Thương
Chuyện phải viết
Vất chanh bỏ vỏ
Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm
Mối nhục của một quốc gia
Lá Cờ
Mơ ước của tôi
Chim hạc và chó săn
Tường tŕnh 10 điểm, Đạo đạt lên LHQ
NK Đặng Thuỳ Trâm - Sản phẩm dối trá ...
Tóm tắt một số tội ác cs VN
Sự thực về cái gọi là "Đại thắng mùa Xuân
Bọn cs sợ quan thầy ...
Xin hăy cứu lấy Tổ Quốc
Tâm t́nh gửi đến anh chị CQN QLVNCH
Đỉnh cao cháy rụi
Mậu Thân, anh c̣n nhớ hay đă quên
Cảnh giác âm mưu "tẩy nảo" của Casula Powerhouse
Bệnh "dại" của người Việt
Chuyện Nguyễn Thái Hoàng
Niềm kiêu hănh của người Việt
Chiến dịch "tháng Tư đen"
Tổng phản công nghị quyết 36
Kép độc cứu nguy
Thăm nom và săn sóc nhau lúc c̣n sống
Giặc từ thiện
Tiền nhân...
Những ám ảnh khó tẩy xóa
Tính hay quên của người Việt tỵ nạn cs
Món nợ nên ghi nhớ
Nên đầu tư cho thế hệ trẻ
Mẹ Âu Cơ - Tiếng thở dài và niềm an ủi
Trăm trứng trăm con - Một truyền thuyết
Hai h́nh ảnh - Một sự so sánh
Ông Kỳ "Xuống Cấp"
Tôi thấy và nghe được ǵ ở Sài-G̣n ...