Tác giả: Hồ Đinh
Tự ngàn xưa, quân đội Việt Nam đă nổi tiếng kiêu
hùng, nên đă đạt được nhiều chiến công hiển hách, trong suốt ḍng
lịch sử của dân tộc, qua các cuộc b́nh Chiêm, phá Tống Nguyên Minh
Thanh, khiến các nước lân bang Lào, Miên và cả Xiêm La phải kinh hồn
bạt vía.
Là con cháu của tổ tiên Hồng-Lạc, chúng ta dù được sinh vào thế hệ
nào chăng nữa, ra đời trong nước hay nơi hải ngoại, vẫn luôn ngưỡng
mộ và hănh diện, về công đức vĩ đại của tiền nhân, trong đó miên
viễn quân đội bao đời, vẫn là thành phần trân quư nhất, qua sự
nghiệp bảo vệ đất nước và sinh mệnh của đồng bào.
Với ư nghĩa thiêng liêng và cao quư trên, Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa, được h́nh thành trong giai đoạn đất nước tạm chia (1955-1975),
chống lại cuộc xâm lăng bằng quân sự, của khối cộng sản đệ tam quốc
tế, do Việt Cộng Bắc Việt đảm nhận. Đây là một cuộc chiến sinh tử,
của quân đội Miền Nam, chống lại cuộc xâm lăng của bộ đội Miền Bắc,
để giữ lại phân nửa gấm vóc giang sơn của tiền-nhân, không lọt vào
gông cùm nô lệ của giặc đỏ.
Cho nên, đây không phải là một cuộc chiến giữa Cộng sản Bắc Việt và
người Mỹ, như giới truyền thông phương Tây, thời đó và ngay cả bây
giờ, đă bóp méo sự thật, mục đích đầu độc dư luận thế giới, làm giảm
uy tín của QLVNCH. Có như thế mới vừa chửi Mỹ, vừa tô son vẽ mặt cho
đạo quân tiền phong cộng sản tại Đông Nam Á, tức Bắc Việt có một
chính nghĩa lư tưởng, đánh đuổi Mỹ-Ngụy cứu nước.
Đây cũng chính là nỗi thảm thê chất ngất của người Lính Miền Nam,
trong hai mươi năm khói lửa. V́ định kiến, v́ buông xuôi, v́ thủ
đoạn con buôn quốc tế, tất cả đă dồn ép QLVNCH vào chân tường, trong
cuộc chiến đấu đơn độc, không hậu phương, không một chút t́nh
quân-dân, cá-nước.
Hai mươi năm chiến đấu, đời lính buồn ơi là buồn, trước mặt phải
trực diện với một kẻ thù gian xảo độc ác, mất hết thiên lương nhân
tính v́ đă bị chủ nghĩa nhồi sọ, cho nên chỉ biết có giết người để
đạt mục đích được khắc sâu trong da thịt. C̣n sau lưng bị thọc bởi
hậu phương vô t́nh bạc bẽo và cuối cùng trên đầu là đồng minh với
đại bàng, luôn ŕnh rập để phản bội và bán đứng.
Cảm nhận được thân phận nhược tiểu của đất nước và sự bất hạnh của
dân tộc, nên người lính chấp nhận hy sinh đời trai, để làm tṛn bổn
phận cùng trách nhiệm của một con người có tim óc, cho tới trưa ngày
30-4-1975, khi TT. Dương Văn Minh bắt buông súng đầu hàng.
Sau đó, cộng sản Hà Nội thẳng tay cướp bóc, chẳng những mọi chiến
lợi phẩm của chính phủ VNCH từ công ốc, ngân khố, quân trang dụng,
trong đó có mười sáu tấn vàng y của quốc gia, được Nguyễn Văn Hảo
giữ lại để nạp dâng công cho Bắc Bộ Phủ. Tệ nhất là VC táng tận
lương tâm, cướp luôn tài sản mồ hôi nước mắt của đồng bào, mà trong
số này, có nhiều mẹ chiến sĩ, đă từng nuôi giấu cán binh bộ đội, ủng
hộ vàng bạc lúa gạo cho chúng, trong suốt thời gian chiến tranh.
Th́ ra cách mạng bảy mươi năm, để giải phóng đất nước, mục đích cũng
chỉ có thế thôi, nên từ đó theo thời gian, hằng ngàn huyền thoại về
‘Người Bộ Đội Miền Bắc, Vượt Trường Sơn Vào Nam Đánh Mỹ Cứu Nước’,
đă theo lớp son phấn đảng tham nhũng, tham tàn, tham địa vị, tan
biến theo lớp sóng phế hưng của cuộc đổi đời mạt lộ.
Ba mươi năm tan hàng ră ngũ, quân-dân Miền Nam đă lần lượt đồng
hành, qua hết chín tầng địa ngục trần gian nơi thiên đàng xă nghĩa.
Nhưng người lính Miền Nam, sinh ra trong khói lửa, trưởng thành chốn
chiến trường, nên thể xác dù đă bị bầm giập tan nát, tinh thần của
người lính vẫn nguyên vẹn và không ai có thể thay đổi hay ngăn cản
lư tưởng của họ.
‘dấu binh lửa nước non như cũ
kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
phận trai già rủi chiến trường
chàng Siêu, tóc đă điểm sương mới về.’
(Chinh Phụ Ngâm Khúc )
1-Những lư do phát sinh QLVNCH:
Ngày 13-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, sau khi bị Hoa
Kỳ, thả hai trái bom nguyên tử xuống hai thành phố Trường Kỳ và
Quang Đảo. Lợi dụng thời cơ trên, quân viễn chinh Pháp theo quân
Anh-Ấn xâm nhập VN, chiếm Sài G̣n và Nam Kỳ. Ngày 2-9-1945, nhờ lực
lượng OSS (tiền thân của CIA) giúp súng đạn, nên chỉ có một nhóm rất
ít cán bộ cộng sản, đă áp đảo khủng bố được đồng bào, để cướp chính
quyền của quốc gia lúc đó, đang bị Pháp-Nhật và quan lại Nam Triều,
quăng bỏ lăng lóc một cách tội nghiệp, thê thảm bên vệ đường tại Hà
Nội, Huế, Sài G̣n.
Nhờ vậy, Hồ Chí Minh và đảng Việt-Cộng mới có cơ hội, cho quân viễn
chinh Pháp từ trong Nam, đổ bộ lên đất Bắc, lúc đó đang do quân
Trung Hoa đóng, theo lệnh của Liên Hiệp Quốc, để giải giới quân Nhật
từ vĩ tuyến 16 trở ra.
Theo mọi nguồn sử liệu c̣n lưu trữ, th́ chính Hồ Chí Minh cùng Pháp,
đă đồng thuận dựng lên một vở tuồng, trong đó Pháp đă mớm lời cho Hồ
Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp vào năm 1946. Có
kêu gọi, th́ Hồ Chí Minh và đảng cộng sản mới nhập nhằng hợp thức
hoá, vai tṛ lănh đạo Mặt Trận Việt Minh và đất nước. Rồi v́ toàn
dân VN nổi lên kháng chiến, nên thực dân Pháp mới có đủ lư do đem
quân từ Nam Kỳ ra Bắc Việt, cũng như biện minh với thế giới về chính
sách thực dân của ḿnh, trong khi nhân loại đang t́m đủ mọi cách xóa
bỏ.
Cũng từ đó, người VN khắp mọi miền đất nước, thay v́ đoàn kết chống
thực dân, lại chia rẽ thành các khuynh hướng chính trị khác nhau,
khiến cho máu dân Việt lại tiếp tục đổ, để cho màu cờ của đảng cộng
sản thêm rực rỡ màu máu.
Trong giai đoạn lịch sử này, hai lực lượng quân sự của người Việt đă
thành h́nh. Đó là Mặt Trận Việt Minh, một phong trào kháng chiến
chống Pháp, của tập thể người Việt yêu nước, bị Hồ Chí Minh và đảng
cộng sản đệ tam núp bóng, khống chế bằng chủ thuyết Mác-LêNin.
Lực lượng thứ hai gọi là ‘Quân đội Quốc-Gia’, thực chất cũng chỉ là
mượn màu da thay xác chết, bị thực dân Pháp và các lănh tụ chính trị
áp đảo, lợi dụng. Tóm lại người Việt lúc đó, cho dù có chiến đấu
trong hàng ngũ nào chăng nữa, cũng chỉ tốn xương máu vô ích mà thôi,
v́ chỉ để phục vụ cho các chủ thuyết chính trị quốc tế mà thôi.
Về sự thành h́nh của Quân Đội Quốc Gia cũng vô cùng phức tạp nhưng
cũng có thể tóm tắt qua bốn lư do chính sau đây:
A-PHÁP LỢI DUNG THÀNH PHẦN HỢP TÁC CŨ:
Ngay khi đặt được chân vào Sài G̣n sau tháng 9-1945, nhờ sự giúp đỡ
của quân Anh-Ấn, tới VN giải giới quân Nhật. Thực dân đă sử dụng
ngay các thành phần cộng tác cũ như công chức, hương chức, quan lại,
kỳ hào, lính khố xanh khố đỏ, các dân tộc thiểu số Thái, Mường,
Nùng, Thổ, người Thượng cao nguyên Trung Phần, người Chàm, Khmer..để
h́nh thành một lực lượng thân binh. Chính những người này, mới là
lực lượng quân sự đầu tiên chống lại cộng sản đệ tam quốc tế, qua
b́nh phong Việt Minh, v́ họ bị kết tội là Việt Gian, luôn bị Việt
Cộng đuổi giết tận tuyệt, dồn sát vào chân tường, nên phải chống lại
v́ không c̣n con đường nào lựa chọn.
B-CỘNG SẢN XÔ ĐẨY NGƯỜI QUỐC GIA THEO PHÁP:
Ngay khi Pháp được Hồ Chí Minh cho đổ bộ lên đất Bắc, thế chân quân
Lư Hán của Trung Hoa, lúc đó, cộng sản đang núp bóng mặt trận kháng
chiến Việt Minh, để được độc quyền lèo lái toàn dân và đất nước VN
vào quỹ đạo của chủ nghĩa Lê-Mác. Ai cũng biết Việt Minh là tổ chức
chống Pháp của cả nước, bao gồm mọi đảng phái chính trị, chứ không
phải của riêng đảng cộng sản đệ tam quốc tế. Ngoài ra, các lực lượng
quốc gia cũng đang cùng VC hợp tác chung trong Chính Phủ Liên Hợp,
để chống ngoại xâm.
Do đó, để độc quyền, độc đảng, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đă thẳng
tay tiêu diệt các đảng phái và những ai đối lập. Do sự khủng bố
trên, lực lượng quân sự thuộc các đảng phái quốc gia trong mặt trận
Việt Minh, phải tách rời để sống c̣n. Đây là một trong những thành
phần chống lại cộng sản quyết liệt, trong Chính Phủ Bảo Đại từ sau
năm 1946-1954.
C-CỘNG SẢN XÔ ĐẨY TÔN GIÁO THÀNH THÙ ĐỊCH:
Với chủ trương hủy diệt mọi tôn giáo, Việt Minh qua cộng sản Hà Nội,
đă xô đẩy các tín đồ Phật, Thiên Chúa giáo nhất là hai giáo phái
Phật Giáo Ḥa Hảo và Cao Đài, trở thành những lực lượng đối nghịch
chống lại cộng sản
D-CỘNG SẢN XÔ ĐẨY MỌI THÀNH PHẦN XĂ HỘI VÀO HÀNG NGŨ QG:
Việt Minh qua sự khống chế của Đệ tam cộng sản quốc tế, đă dùng bạo
lực để tiêu diệt mọi thành phần đối tượng xă hội như trí thức, địa
chủ, tiểu tư sản, thợ thuyền..qua các chiến dịch gọi là Diệt Tề và
Phản Động, khiến cho một sốá lớn thanh niên nam nữ, đang chiến đấu
trong hàng ngũ Việt Minh, đă bỏ về vùng Pháp chiếm đóng.
Như vậy tất cả bốn lực lượng trên, đều chung chủ trương chống lại
cộng sản đệ tam, bắt đầu tư năm 1957. Thực tế lực lượng quân sự của
Quốc Gia VN, được chính thức thành lập ngày 11-5-1950, cho tới khi
kư kết Hiệp Định ngưng bắn Genève năm 1954, vẫn trực thuộc Pháp.
Tháng 7-1954 chia hai đất nước, cho tới 12 giờ trưa ngày 30-4-1975,
VNCH được độc lập, cũng từ đó, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, lớn mạnh
và trưởng thành, thoát khỏi ảnh hưởng của ngoại bang, nhờ vậy trong
suốt hai mươi năm lửa binh tàn khốc, người lính Miền Nam mới có đủ
can trường, để chiến đấu và hy sinh, trong nhiệm vụ bảo vệ đất nước
và tài sản của đồng bào, trước sự xâm lăng của cộng sản.
Tóm lại nếu không bị Mỹ và bọn trí thức thiên tả của Miền Nam bán
đứng, chắc chắn VNCH, cũng như Tây Đức, Nam Hàn và Đài Loan, không
bị mất và sụp đổ vào tay Bắc Việt vào tháng 4-1975.
2- Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa:
Lănh thổ VNCH được chia thành bốn vùng chiến thuật và một biệt khu
thủ đô. Tính tới ngày kư Hiệp Định ngưng bắn tháng 2-1973 tại Paris,
QLVNCH có 220.000 chủ-lực quân, gồm 11 sư đoàn bộ binh, mang số 1,
2, 3, 5, 7, 9, 18, 21, 22 và 25. Ngoài ra c̣n có hai sư đoàn tổng
trừ bị là SD. Nhảy Dù và SD. Thuỷ Quân Lục Chiến, mười lăm Liên Đoàn
Biệt Động Quân (quân số tương đương với một Trung Đoàn Bộ Binh, gồm
3 Tiểu Đoàn và một Đại Đội Trinh sát) và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy
Dù thuộc Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt.
Riêng các quân binh chủng yểm trợ gồm có :
* Pháo Binh: Gồm 66 tiểu đoàn và 164 trung đội pháo biệt lập, với
1.492 khẩu pháo đủ loại (105-155-175 ly) và bảy tiểu đoàn pháo binh
pḥng không.
* Thiết Giáp: Gồm 22 thiết đoàn và 51 chi đoàn thiết giáp biệt lập,
sử dụng 2074 xe bọc sắt đủ loại như M113,114 thiết vận xa và chiến
xa M41, 48.
* Không Quân: Có 6 sư đoàn chiến thuật với quân số cơ hữu trên
41.000 người, được phân phối như sau: Sư Đoàn 1 Không Quân ở Đà
Nẵng, SD 2- Không Quân ở Nha Trang, Sư Đoàn 3 Không Quân ở Biên Ḥa,
Sư Đoàn 4 Không Quân tại Cần Thơ, Sư Đoàn 5 Không Quân ở Sài G̣n và
Sư Đoàn 6 Không Quân-Pleiku. Không Quân có 66 phi đoàn gồm 22 phi
đoàn chiến đấu với 510 phi cơ đủ loại, trong số này có 30 chiếc phản
lực cơ tối tân F.5E. Ngoài ra c̣n 25 phi đoàn trực thăng vơ trang
với 900 chiếc, năm phi đoàn vận tải với 80 phi cơ từ C47, Dakota,
C123, C130 và 14 phi đoàn trinh sát với 360 trinh sát cơ.
Binh Chủng Không Quân có Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Không Quân tại
Nha Trang, rất nổi tiếng. Sau ngày 30-4-1975, chỉ có 172 phi cơ đủ
loại của KQ.VNCH bay sang được Thái Lan và một số ít trực thăng, bay
ra các chiến hạm Mỹ ở Biển Đông.
* Hải Quân: Tính đến năm 1975, quân số lên tới 39.000 người, gồm
1611 tàu thuyền đủ loại, được phân thành 5 vùng duyên hải, 2 vùng
sông ng̣i và 1 hạm đội tuần duyên có 83 chiến hạm đủ loại.
Hải quân có bốn lực lượng đặc nhiệm, thuộc Hành Quân Lưu Động Sông :
Lực Lượng 211 Thủy Bộ, Lực Lượng 212 Tuần Thám, Lực Lượng 214 Trung
Ương và Lực Lượng 99 Đặc Nhiệm.
Ngoài ra c̣n có Lực Lượng 213 Duyên Pḥng, Liên Đoàn Tuần Giang, 28
duyên đoàn, 20 giang đoàn xung phong, 3 Trung Tâm Huấn Luyện Hải
Quân, trong đó Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang dành cho các Sĩ Quan
Hải Quân
* Cơ cấu tiếp vận: Gồm năm Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận tại các Quân Khu,
riêng Vùng II có 2 cơ cấu tiếp vận, BCH2 đóng tại Qui Nhơn và BCH5
đóng tại Nha Trang, sau đó dời về bán đảo Cam Ranh, khi Mỹ rút về
nước.
Tổng Cục Tiếp Vận đóng tại Sài G̣n, gồm các cơ cấu như Cục Quân Y,
Quân Vận, Quân Cụ, Truyền Tin, Quân Bưu và Công Binh. Tất cả có
nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho các quân binh chủng cũng như các tiểu
khu, quân trường.
Ngoài các lực lượng chính quy trên, c̣n có thêm 140.000 Địa Phương
Quân, được tổ chức thành 367 tiểu đoàn và 85 đại đội biệt lập. Tất
cả các đơn vị Địa Phương Quân được đặt dưới quyền sử dụng của tiểu
khu trưởng, chi khu trưởng.
Từ sau Tết Mậu Thân 1968, nhiều quân nhân Bộ Binh cũng như các đơn
vị tổng trừ bị, được thuyên chuyển v́ lư do gia cảnh về nguyên quán.
Do đó, nhiều Tiểu Đoàn DPQ tại Quảng Nam, B́nh Thuận, Long Khánh,
Hậu Nghĩa, Long An..đă chiến đấu kiêu dũng, hào hùng không thua kém
bất cứ một đơn vị nào của QLVNCH.
3-Các quân trường và những đơn vị nổi tiếng của VNCH:
* SƯ ĐOÀN NHẢY DÙ: Là một trong những đại đơn vị hàng đầu và kiêu
hùng của QLVNCH. Binh chủng Nhảy Dù rất có kỷ luật, kỷ cương nên
được sự mến mộ của đồng bào Miền Nam trong suốt cuộc chiến. Đơn vị
này chính thức được thành lập ngày 29-9-1954, khi Pháp giao lại cho
Quân Đội VNCH, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù (6A-P3), gồm các Tiểu Đoàn 1, 3,
4, 5, 6, 7 do Thiếu Tá Đỗ Cao Trí làm Chỉ Huy Trưởng.
Ngay khi trở thành đơn vị chiến đấu ṇng cốt của VNCH, Nhảy Dù đă
nhập cuộc, đánh tan lực lượng phản loạn của B́nh Xuyên tại Sài
G̣n-Chợ Lớn, cuối cùng tiêu diệt chúng tại sào huyệt ở tận Rừng Sát
(Phước Tuy). Ngày 26-10-1959, Nhảy Dù được nâng từ Liên Đoàn lên Lữ
Đoàn và do Trung Tá Nguyễn Chánh Thi, làm Lữ Đoàn Trưởng.
Do nhu cầu cuộc chiến càng lúc càng sôi động và leo thang, kể từ
ngày 1-2-1965, lần nữa Nhảy Dù lại được nâng lên cấp Sư Đoàn, với
đầy đủ các cơ cấu trực thuộc, từ đơn vị tác chiến tới yểm trợ. Sư
Đoàn có ba Lữ Đoàn tác chiến, ba Tiểu Đoàn Pháo Binh Dù, một Tiểu
Đoàn Công Binh, một Tiểu Đoàn Quân Y, Các Đại Đội Trinh Sát, Điện
Tử, Kỹ Thuật. Từ năm 1965 tới 1972, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư
Lệnh Nhảy Dù. 1972 tới cuối tháng 4-1975, Tư lệnh Nhảy Dù là Chuẩn
Tướng Lê Quang Lưỡng.
Vào những ngày tháng 4-1975, Sư Đoàn Dù thành lập thêm Lữ Đoàn 4
Nhảy Dù, do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng. Chính đơn vị
này, đă cùng với Chiến Đoàn 3, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đánh những
trận cuối cùng tại vùng ven đô và ngay trong thành phố Sài G̣n,
giống như các chiến sĩ của SD18BB tại Xuân Lộc, làm vỡ mật quân xâm
lăng Bắc Việt, trước khi Miền Nam bị sụp đổ.
* SƯ ĐOÀN THỦY QUÂN LỤC CHIẾN: Từ ngày thành lập cho tới khi ră ngũ,
binh chủng TQLC đă cùng với Nhảy Dù, Biệt Cách và Biệt Động Quân,
vẫy vùng khắp bốn vùng chiến thuật và mặt trận ngoại biên.
Chính các địa danh Đầm Dơi (An Xuyân), Thành phố Huế, quốc lộ 9 và
nhất là Cổ Thành Đinh Công Tráng (Quảng Trị)..đă đưa tên tuổi người
lính TQLC/VN vào quân sử, hănh diện đứng ngang hàng với các quân
binh chủng thiện chiến nhất trên thế giới.
Binh chủng TQLC được chính thức thành lập vào tháng 10-1954, với
quân số nồng cốt được tuyển chọn từ mọi binh chủng như Hải quân, Bộ
binh và Biệt Kích. Với quân số ban đầu chừng 2400 người, TQLC thành
lập Tiểu Đoàn 1 và các Đại Đội Biệt Lập. Chính Tiểu Đoàn 1/TQLC vào
năm 1959, khi được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, giao cho trọng trách,
trấn giữ quần đảo Hoàng Sa. Nhờ vậy đơn vị này mới có cơ hội đánh
đuổi Hải Quân Trung Cộng tới chiếm quần đảo trên, khi Hồ Chí Minh và
Phạm Văn Đồng, kư bán lănh thổ VN cho Tàu vào năm 1958.
Từ đầu năm 1961, TQLC được tăng quân số lên 3321 người, chia thành
bốn Tiểu Đoàn và các đơn vị yểm trợ, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu.
Ngày 1-1-1962 được nâng thành Lữ Đoàn, có quân số 5483 người. Trong
dịp Việt Nam hoá chiến tranh, TQLC được nâng thành Sư Đoàn hơn
11.000 người, từ năm 1969 tới khi tan hàng. Tư lệnh cuối cùng của
binh chủng này là Thiếu Tướng Bùi Thế Lân.
* BIỆT ĐỘNG QUÂN: Trong các đơn vị tổng trừ bị của QLVNCH, binh
chủng Biệt Động Quân bị thiệt tḥi nhất, từ cơ cấu tổ chức cho tới
vấn đề biệt phái sử dụng. Nguyên do v́ BDQ không có Bộ Tư Lệnh mà
chỉ có Bộ Chỉ Huy, qua các vị Chỉ Huy Trưởng như Thiếu Tá Phan Trọng
Chinh, Đại Tá Lam Sơn, Đại Tá Phan Xuân Nhuận, Đại Tá Trần Văn Hai,
Đại Tá Trần Công Liễu và Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai. Những ngày cuối
cùng tháng tư đen, BDQ được nâng thành Sư Đoàn Biệt Động Quân.
BDQ được thành lập năm 1960, là một binh chủng biệt động cảm tử, nên
được sử dụng tối đa trong các cuộc hành quân trực thăng vận, nhảy
vào tận sào huyệt của VC, tại căn cứ hậu cần và mật khu, khắp bốn
vùng chiến thuật. Từ ngày thành lập tới khi ră ngũ, BDQ có 15 Liên
Đoàn gồm 45 TD chiến đấu.
BDQ có hai trung tâm huấn luyện tại Trung Ḥa (Củ Chi-Hậu Nghĩa) và
Dục Mỹ (Khánh Ḥa). Đây chính là ḷ luyện thép, huấn luyện tân binh
cùng với các khoá học về Rừng Núi Śnh Lầy-Biệt Động, cho các cấp Hạ
Sĩ quan và Sĩ Quan/QLVNCH.
Trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), dân chúng
sống ở Vùng 4 Chiến Thuật, không ai là không biết tới uy danh lừng
lẫy của những con cọp, thuộc các Tiểu Đoàn 41, 42, 43 và 44 BDQ. Năm
1967, Tiểu Đoàn 37 BDQ là đơn vị duy nhất của QLVNCH, được biệt phái
cho Hoa Kỳ, để trấn giữ căn cứ Khe Sanh. Trong suốt thời gian chiến
đấu, TD này đă giữ vững pḥng tuyến, dù bị bắt làm tiền đồn và bị
cộng sản tấn công biển người. Sự kiện trên, đă làm cho các quân nhân
Hoa Kỳ thêm kính nể QLVNCH. Ngoài ra, hai Tiểu Đạn 21 và 39 BDQ
thuộc Liên Đoàn 1/BDQ cũng là những đơn vị thiện chiến nhất của binh
chủng, làm rạng rỡ màu mũ nâu, trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 và
tại mặt trận Sa Huỳnh (Quảng Ngăi) năm 1973. Riêng TD 43 BDQ là đơn
vị cuối cùng, tử thủ tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, tới trưa
30-4-1975, mới buông súng ră ngũ khi có lệnh bắt đầu hàng.
Từ năm1966, binh chủng BDQ cải tổ và thành lập các Liên Đoàn, đặt
trực thuộc Quân Đoàn. Ngày nay khi nhớ về binh chủng, những quân
nhân các cấp của BDQ luôn hănh diện v́ đă làm xong trách nhiệm đời
trai. Nhiều cấp chỉ huy của binh chủng, đă đi vào quân sử như Chuẩn
Tướng Trần văn Hai, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Vơ Vàng, Thiếu Tá
Trần Đ́nh Tự..
* LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT: Chính thức thành lập từ năm 1957 cho tới ngày
1-1-1963, binh chủng LLDB thuộc Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống, gồm ba
cơ cấu: Sở Bắc (sau đổi thành Nha Kỹ Thuật), Sở Nam (sau đổi thành
Sở Liên Lạc) và Các Toán Lực Lượng Đặc Biệt.
Sở Bắc đặc trách chiến lược t́nh báo ngoài lănh thổ VNCH. Sở Nam
trách nhiệm t́nh báo trong nước. Các Toán LLDB c̣n được gọi Biệt
Kích hay Biệt Cách. Đây là những đơn vị cảm tử, chuyên hoạt động sâu
trong ṿng địch đóng, không được quân bạn yểm trợ, nên mọi trường
hợp nguy cấp, người Biệt Kích Quân, phải tự mưu sinh để sống c̣n. Từ
năm 1966, Hoa Kỳ chuyển giao toàn bộ lực lượng Dân Sự Chiến Đấu
(Mike Forces) cho Bộ Tư Lệnh LLDB/VN.
Là một binh chủng đặc biệt trong chiến tranh qui ước, nên quân số
LLDB đă có lúc lên tới 36.000 người, bao gồm 66 trại Lực Lượng Đặc
Biệt, nằm rải rác dọc theo biên giới Việt-Lào-Miên. Đây chính là
những chướng ngại vật của cộng sản Bắc Việt, trên đường xâm nhập vào
lănh thổ VNCH. V́ vậy từ năm 1965 về sau, nhiều trận đánh đẫm máu
giữa bộ đội Hà Nội và LLDB tại Pleiku, Ben Het, Đức Cơ, Dakto, Đồng
Xoài, Lộc Ninh, Tống Lê Chân, Kàtum, Bến Sỏi..
Bắt đầu từ năm 1970, các trại LLDB tại vùng biên giới bị giải tán,
nên Biệt Kích Quân tại đây được chuyển sang Biệt Động Quân Biên
Pḥng. Riêng quân số của Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta và
Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù, được nhập chung thành Liên Đoàn 81 Biệt
Cách Dù, trực thuộc Pḥng 3 Bộ TTM.
Những ngày cuối tháng 4-75 của đất nước, Chiến Đoàn 3 của LD81 BCD
về bảo vệ Bộ TTM, đă tiêu diệt nhiều tăng pháo của Bắc Việt tại Ngă
Tư Bảy Hiền, Bệnh Viện V́ Dân, Lăng Cha Cả Sài G̣n. Hai câu thơ bất
hủ của một cô giáo, bị kẹt lại trong Mặt Trận An Lộc vào năm 1972,
đă nói lên tinh thần quyết chiến và sự hy sinh tột cùng của người
chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt:
‘An Lộc Địa – Sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù – Vị Quốc vong thân‘
* TRƯỜNG VƠ BỊ QUỐC GIA ĐÀ LẠT: Chính thức được thành lập tại Huế
năm 1948, với nhiệm vụ đào tạo các sĩ quan trung đội trưởng. Năm
1950, trường di chuyển lên cao nguyên Đà Lạt và đổi tên là Trường Vơ
Bị Liên Quân. Ngày 29-7-1959, Bộ Quốc Pḥng ban hàng Nghị Định số
317, cải tổ cơ sở huấn luyện trên thành một Trường Cao Đẳng chuyên
nghiệp. Theo đó các sĩ quan tốt nghiệp, ngoài căn bản quân sự vững
chắc, c̣n có tŕnh độ văn hóa tương đương với bậc đại học. Nhưng dù
lư thuyết là thời gian thụ huấn phải đủ bốn năm và tŕnh độ sinh
viên được nhập khóa, phải có chứng chỉ Tú Tái Phần 2-ban A-B, nhưng
thực tế các khóa học, cũng không đồng nhất và hoàn toàn tuỳ theo
hoàn cảnh.
Do đó, từ khóa 1 tới khóa 11 phụ, thời gian học chỉ trên một năm.
Từ khóa 12 tới khóa 22A năm 1965, thời gian thụ huấn từ 1 năm rưỡi –
3 năm.
Bắt đầu khóa 22B (20-11-1965) cho tới khóa 27, thời gian thụ huấn
đúng 4 năm.
Khoá 28 chỉ học 3 năm rưỡi.
Khóa 29 học 2 năm rưỡi.
Khoá 30 cuối cùng, nhập học ngày 31-1-1974, tới đầu tháng 4-1975, di
tản về học chung với Trường Bộ Binh Thủ Đức, được di chuyển tới Long
Thành (Biên Ḥa) và tan hàng. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Trường Vơ
Bị là Trung Tá Chaix (1949) và cuối cùng là Thiếu Tướng Lâm Quang
Thơ.
Tọa lạc trên dăy đồi hùng vĩ của cao nguyên Lâm Viên, ngất ngưởng
giữa trời xanh lộng gió, Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt bề thế, với
lối kiến trúc tân kỳ, gồm đủ các pḥng ốc, thư viện và pḥng thí
nghiệm. Tất cả do nhà thầu Hoa Kỳ đảm trách, đưa ngôi trường lên địa
vị ngang hàng với các quân trường nổi tiếng nhất vùng Đông Nam Á,
cũng như trường Vơ Bị West Point của Mỹ.
Những thanh niên thời đại của Miền Nam VN trong cơn ly loạn, ai nấy
đều ao ước được trở thành Sĩ Quan Đà Lạt, nhưng một số không toại
nguyện v́ sau này, điều kiện nhập học rất khó khăn. Sinh viên ngoài
việc phải có chứng chỉ Tú Tài Phần 2-AB, c̣n phải qua một kỳ thi
tuyển. Với các thiếu nữ VN, th́ rất hănh diện khi được sóng đôi với
người yêu, trong bộ lễ phục Gabardine mùa đông, có màu Jasper với
huy hiệu của Trường, trên cầu vai đỏ và nón két. Từ năm 1948 cho tới
khi Miền Nam bị sụp đổ, Trường Vơ Bị đă đào tạo được 4600 sĩ quan.
Nhiều người được thăng cấp tướng, giữ các chức vụ then chốt trong
quân đội cũng như các cơ cấu của chính phủ.
* TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC: Từ tháng 10-1951, để đáp ứng nhu cầu chiến
trường, hai trung tâm đào tạo sĩ quan trừ bị được thành lập tại Nam
Định (Bắc Phần) và Thủ Đức (Nam Phần). Chính khóa 1 SQTB đă được
khai giảng cả hai nơi kể trên.
Để thống nhất việc giảng dạy, đầu năm 1952, trung tâm Nam Định được
sáp nhập vào Thủ Đức. Ngôi trường tọa lạc trên dăy đồi thấp thuộc xă
Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định. Từ đó trường liên tục
được xây cất và chỉnh trang, trở thành một trong những trường Vơ Bị,
đẹp và lớn nhất vùng Đông Nam Á.
Cuối năm 1955, trường Bộ Binh Thủ Đức trở thành Liên Trường Vơ Khoa
Thủ Đức, vừa đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị Bộ Binh, vừa huấn luyện chuyên
môn cho các binh chủng như Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Truyền
Tin, Quân Nhu, Quân Cụ và Quân Vận. Từ sau tháng 10-1961, phần lớn
các trường chuyên môn được dời tới các địa điểm mới nhưng danh xưng
Liên Trường, vẫn c̣n được sử dụng, v́ tại Trường vẫn có ba trường
hiện diện: Trường Bộ Binh-Trường Thiết Giáp –Trường Vơ Thuật Thể Dục
Quân Sự.
Chương tŕnh huấn luyện cho sinh viên sĩ quan Thủ Đức gồm hai giai
đoạn. Bắt đầu từ khóa 6 trở về sau, sinh viên tốt nghiệp mang cấp
bậc Chuẩn uư trừ bị. Từ tháng 2-1969 cho tới ngày 30-4-1975, trung
tâm trở lại danh xưng cũ ‘Trường Bộ Binh Thủ Đức’. Sau 24 năm hoạt
động, trường đă đào tạo được 69 khóa sĩ quan trừ bị, với 80.000 sĩ
quan. Trong số này nhiều người đă trở thành tướng lănh rất có tên
tuổi như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Tư Lệnh QĐ1), Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam (Tư Lệnh QĐ4), Thiếu Tướng Bùi Thế Lân (Tư Lệnh
TQLC), Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giám Đốc CSQG)…..
Ngày 27-4-1975, trường từ Long Thành dời về Thủ Đức, tại địa điểm cũ
ở đồi Tăng Nhơn Phú. Sáng 30-4-1975, xe tăng T54 của cộng sản Bắc
Việt tấn công trường nhưng cả 4 chiếc đều bị sinh viên sĩ quan tiêu
diệt bằng đại bác 105 bắn trực xạ cũng như M72 và lựu đạn lân tinh.
* TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN HẢI QUÂN NHA TRANG: Tọa lạc tại đường Duy Tân
Nha Trang, chính thức khai giảng từ tháng 8-1952 nhưng phải tới
tháng 7-1955, trường mới thuộc chủ quyền hoàn toàn của VNCH.
Muốn được theo học, các sinh viên Hải Quân phải có chứng chỉ Tú Tài
2-Ban B. Thời gian thụ huấn là 2 năm, về văn hóa sinh viên có tŕnh
độ tương đương bậc đại học. Ra trường, tốt nghiệp mang cấp bậc Thiếu
Úy Hải Quân.
Do nhu cầu chiến trường, từ năm 1962-1968, sinh viên HQ chỉ học 18
tháng. Bắt đầu khóa 18 cho tới khóa cuối cùng là 26, sinh viên học
đủ 2 năm. Suốt thời gian hoạt động, trường đă đào tạo được 2538 sĩ
quan Hải Quân và 15.050 chuyên viên ngành HQ. Chỉ Huy Trưởng cuối
cùng của trường là Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu (16-1-1973 tới
1-4-1975).
* LIÊN ĐOÀN NGƯỜI NHÁI: Nếu trên bộ có Biệt Kích-Biệt Cách, th́ dưới
nước có Người Nhái. Họ là những thanh niên thời đại, sống bằng lư
tưởng nên xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, khi được giao phó những
nhiệm vụ đặc biệt, vô cùng nguy hiểm như ngăn chống lại đặc công
thủy của Bắc Việt, vớt ḿn, gở thủy lôi, cứu tù binh..
Được thành lập từ năm 1961, với danh xưng là ‘Liên Đội Người Nhái’,
được huấn luyện tại Đài Loan. Bắt đầu từ tháng 10-1962, Người Nhái
Mỹ (Seal West Coast), phụ trách huấn luyện cho Người Nhái VNCH, tại
các Trung Tâm Cát Lái, Nha Trang, Cam Ranh và Vũng Tàu. Muốn trở
thành Biệt Hải, Người Nhái..các quân nhân phải trải qua nhiều khóa
huấn luyện gian khổ, giống như sự đào tạo một điệp viên ngoại hạng,
trong chiến tranh nhà nghề. Do đó Người Nhái biết sử dụng tất cả các
loại vũ khí của Tây Phương cũng như Khối Cộng Sản, biết cách hoạt
động, mưu sinh cũng như đào thoát, v́ địa bàn hoạt động bao giờ cũng
nằm sâu trong đất địch, không có quân bạn và yểm trợ. Thời gian huấn
luyện của Người Nhái là 16 tuần, kể cả 10 tuần lễ địa ngục. Từ năm
1972 về sau, quân số Người Nhái tăng lên 600 người và trở thành Liên
Đoàn Người Nhái, gồm các Toán Hải Kích, Biệt Hải, Tháo Gỡ Đạn Dược,
Trục Vớt, Pḥng Thủ Hải Cảng. Có tất cả 6 Khóa Huấn Luyện Người Nhái
và Đơn Vị Trưởng cuối cùng của Người Nhái là Hải Quân Trung Tá Trịnh
Ḥa Hiệp.
* CÁC VỊ TƯỚNG LĂNH CỦA QLVNCH: Từ ngày thành lập cho tới khi sụp
đổ, QLVNCH có hơn 100 vị tướng lănh. Người có cấp bậc cao nhất trong
quân đội là Cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng QDVNCH.
Nhiều tướng lănh đă tử trận trước ngày 30-4-1975 như Cố Đại Tướng Đỗ
Cao Trí, tướng Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Bá Liên, Trương Quang Ân,
Lê Đức Đạt, Nguyễn Văn Hiếu. Ngày 30-4-1975, khi TT Dương Văn Minh
ra lệnh đầu hàng, các tướng lănh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê
Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ ..đă lần lượt tự sát để bảo
toàn danh dự quân đội và khí tiết của kẻ sĩ. Các tướng Lư Ṭng Bá,
Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Văn Sang, Trần Văn Cẩm..bi sa cơ giữa trận,
c̣n Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện, bị VC hành quyết
tại Cần Thơ vào ngày 1-5-1975 v́ không tuân lệnh đầu hàng.
Sau đó hơn phân nửa các tướng lănh không bỏ chạy, đều bị bắt đi tù
tại các trại giam khổ sai từ Nam ra Bắc, tận biên giới Việt-Lào-Hoa.
Chịu cảnh tù tội gần 17 năm, lâu nhất là các tướng Lê Minh Đảo, Trần
Quang Khôi, Đỗ Kế Giai, Lê Văn Thân và Trần Bá Di.
4-Nỗi bất hạnh của QLVNCH:
Hai mươi năm chinh chiến, người Lính VNCH đă có 250.000 gục ngă
trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh v́ một phần
cơ thể đă gửi lại sa trường. Hiện nay chính phủ cũng như QLVNCH
không c̣n nữa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua
cuộc đổi đời mạt kiếp, th́ lư tưởng và danh dự của người lính, càng
được sáng tỏ, trong niềm hănh diện chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những ǵ trung thực, mà người dân của
nước đó đă ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về
cuộc nội chiến của Hoa Kỳ, xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ
của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận,
đă không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận.
Đă vậy, Hoa Kỳ c̣n ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm
xuống trong cuộc chiến, v́ lư tưởng riêng của họ. Thế chiến 2 kết
thúc, ṭa án quốc tế Nuremburg, chỉ kết tội những đầu sỏ trong phe
Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước
Đức-Ư-Nhật.. Năm 1920, lănh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng
Mukhta, bị người Ư bắt và tử h́nh. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ư tại
Bắc Phi, là người đă ở lại pháp trường, để lo lắng hậu sự cho vị anh
hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ư lúc đó. Tại VN, khi
thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó
là thành Hà Nội năm 1873, các tướng lănh thủ thành đương thời là
Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu..đă oanh liệt tử tiết
theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như
chính các tướng lănh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân
nhân Mỹ đă tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận.
Ngày nay các chiến sĩ trên đă được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lư
và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc ngh́n thu,
bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đă chết cho lư tưởng quốc
gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.
Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đă phơi
gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị
cộng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc
chiến, ở đâu có cộng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở
đó có sự diện của người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc
đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, t́m đủ mọi cách trốn
thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia, nhờ che chở
đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen B́nh Định
Nông Thôn, Cán Bộ Xă Hội..mới biết được thế nào là nỗi thống khổ,
trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai
lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị
kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người
lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống
đời cay cực, mới thương xót cho cảnh ba đồng, ba cộc, của kiếp lính
Miền Nam.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đă
không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm
tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ c̣n bị
muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng
th́ cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lănh đạo phản bội
bán đứng. Ngày trở về th́ bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết thầm
trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng
sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời, nhờ vậy mà cộng
sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một ḿnh một cơi, thao túng
vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang
sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo
gió th́ phải gặt băo, chính sự khoác lác dại khờ trên, đă đưa toàn
bộ đảng cộng sản VN ch́m trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch
sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.
Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến
đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết
lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn
hay sự hồi phục danh dự, th́ đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế
giới tự do khi đă biết được sự thật cùng ư nghĩa của cuộc chiến mà
người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ
phút cuối cùng. Ngoài ra c̣n có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào
hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia
đ́nh người dân, qua cuộc đổi đời, cũng đă trở thành nạn nhân tận
tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân
tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đă công
khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào ḿnh.
* NGƯƠI LÍNH VNCH BỊ TRÍ THỨC THIÊN TẢ ĐÂM SAU LƯNG:
Trong lúc đất nước đang lâm nguy v́ giặc xâm lăng phương Bắc, trong
lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xă hội miền
Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết
tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống
giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ v́ chiến
tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để
dầy xéo non sông tổ quốc, th́ tại hậu phương Miền Nam có một số
người tự nhận ḿnh là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ
xuân th́, mập mạnh nhưng lại t́m cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ
mọi lư do để được hoăn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao
loạn. Nếu v́ sợ chết mà trốn đi lính, th́ cũng c̣n có thể tha thứ
nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào
và đất nước ḿnh, đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói
nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái
lư tưởng đă thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các
kinh điển nhật tụng của thiên đàng xă hội chủ nghĩa, trong lúc được
sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất và thời gian để đâm thọt, phá
hoại.
Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1955-1975)
rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung
tùy theo lư tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ư nghĩa riêng với
người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, th́ đây là một cuộc
chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với
cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó
chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lănh đạo
của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu,
vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt
nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả,
phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là
lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này, đă lợi dụng tự do báo chí ngôn luận
của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu
phương, đâm sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ
đồng bào, trong đó có cả sinh mạng kư sinh của chúng.
* MỸ BÁN ĐỨNG VNCH CHO CỌNG SẢN:
Bắt đầu từ ngày 13-5-1968, Mỹ và Bắc Việt đă lén lút đi đêm với nhau
tại Paris, để t́m cách đổi chác trên thân xác của VNCH. Nhưng kẻ cắp
gặp bà già, nên dù hằng tuần có gặp nhau, Kissinger và Lê Đức Thọ
vẫn không đạt được một thỏa thuận nào. Theo tiết lộ mới đây của
Kissinger, trong hồi kư ‘The Kissinger Transcripts’, trong đó đă ghi
chép đầy đủ về mọi mánh lới, thủ thuật của Mỹ để ve văn Trung Cộng,
chống lại Liên Xô vào tháng 1-1972. Cũng theo sách dẫn chứng trên,
th́ Kissinger đă làm đủ mọi thủ đoạn, để đạt cho được mục đích.
Trong cuộc, VNCH là con vật tế thần, mà cặp Nixon và Kissinger đă sử
dụng, nên cuối cùng dẫn tới sự chấp nhận những điều kiện phi lư, mà
Hoa Kỳ dùng bùa viện trợ, ép buộc VNCH phải kư kết trong bản hiệp
định ngưng bắn năm 1973. Riêng đối với Bắc Việt, mặt thật cũng đâu
có hănh diện ǵ hơn VNCH, trong cuơng vị làm đầy tớ Nga-Tàu. Bởi
vậy, khi Liên Xô thấy Mỹ và Trung Cộng đă liên kết với nhau, chắc
chắn Tàu Cộng sẽ theo Mỹ, bắt VC ngưng bắn có điều kiện. Bởi vậy,
một mặt LX viện trợ tối đa cho Hà Nội, đồng thời ra lệnh cho VC mở
hết mặt trận này tới chiến dịch khác, mà lần cuối cùng là ngày quốc
hận 30-4-1975, đưa cả nước VN trong ba mươi năm đắm ch́m trong cảnh
nghèo đói, lầm than, hận thù v́ vũng bùn ô uế của cái gọi là thiên
đàng xă hội chủ nghĩa.
Người Mỹ đă kư kết hiệp định ngưng bắn Ba Lê, chỉ với mục đích rút
quân và đem tù binh về nước, để Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng
thống Mỹ và Kissinger tiếp tục giữ chức lớn trong chính quyền Hoa
Kỳ. Ngoài mục đích trên, người Mỹ không cần đếm xỉa ǵ tới tương lai
cũng như số phận của người Việt, nước Việt.
Sau này, khi VNCH đă sụp đổ, nhiều nhân vật quốc tế liên quan tới
cuộc chiến VN, đều phê b́nh sự tắc trách của Hoa Kỳ, khi dựng lên
cái quái thai hiệp định ngưng bắn, để bán đứng đồng minh của ḿnh.
Chính TT. Nixon cũng đă xác nhận lỗi lầm của ḿnh trong tác phẩm ‘No
More VietNam’ rằng tôi đă thấy những vấn đề nan giải của hiệp định
Ba Lê nhưng quan trọng nhất trong thỏa ứơc này là đă không bắt buộc
Hà Nội rút hết bộ đội đă xâm nhập về Bắc. C̣n M. Gauvin, đại sứ
Canada tại Hy Lap, nguyên chủ tịch uỷ hội kiểm soát quốc tế (CICCS)
tại VN, đă tuyên bố ‘VNCH bi sụp đổ hoàn toàn do quyết tâm bỏ rơi
của Hoa Kỳ. Riêng cái hiệp định ngưng bắn kư kết tại Ba Lê năm 1973,
đă không phản ảnh được ư muốn và nguyện vọng của người dân Miền Nam,
là muốn sống ḥa b́nh và không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa cộng sản,
nên ngay từ năm 1954, họ đă phải bỏ miền bắc để vào Nam, chạy trốn
VC’. Nhưng phê b́nh một cách thẳng thắn, là Sir R.Thompson ‘Sự sống
c̣n của Nam VN, đă bị người Mỹ tước đoạt hay nói thẳng là bán đứng.
Có làm như vậy, Hoa Kỳ mới tránh cho nước ḿnh bị khỏi bị xâu xé tan
nát. Một điều nghịch lư khác là cộng sản Bắc Việt, bị bó buộc tới
bàn hội nghị, không phải để cứu họ, mà là cứu nước Mỹ. Nên dĩ nhiên
Mỹ phải đem đồng minh VNCH ra bán đứng, để đền ơn cứu mạng’.
Ngoài vấn đề phủi tay tại Nam VN sau khi đă đem được tù binh và hài
cốt quân Mỹ về, quốc hội Hoa Kỳ c̣n bội ước, khi liên tục biểu quyết
các đạo luật ngăn cấm can thiệp bằng quân sự của Mỹ tại Nam VN, cắt
giảm dần quân viện, không chịu hoán đổi quân trang quân dụng, như
các thỏa ước đă kư kết. Sự bất công vô lư, đến đổi Tuỳ Viên Quân Sự
(DAO), tại Nam VN, đă phải viết ‘Người Lính VNCH do đó, đă phải chấp
nhận sống với những nhu cầu, dưới mức b́nh thường, làm cho tinh thần
người chiến sĩ xuống thấp, v́ bị hạn chế các phương tiên ngăn chống
giặc’. Chỉ có Robert S McNamara, cựu bộ trưởng quốc pḥng thời
TT.John Kennedy, th́ vẫn ngoan cố để chạy tội, quên hết trách nhiệm
của ḿnh, trong tác phẩm ‘In Retrospect: The Tragedy and Lessons Of
VN’, bêu xấu và đổ hết trách nhiệm làm mất nước cho QLVNCH.
Sự thật, khi viết về Quân Lực VNCH, hầu hết các nhà quân sử trên thế
giới cũng như các sử gia hiện tại của VN như Nguyễn Khắc Ngữ, Chánh
Đạo, Phan Nhật Nam, Trần Đại Sĩ, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, Phạm
Phong Dinh, Trần Gia Phụng, Nguyễn Lư Tưởng..đều đứng chung trên
quan điểm ca tụng tinh thần hy sinh và trách nhiệm của người lính
VNCH, đối với đất nước và đồng bào. Nhờ thiện chiến, có kỷ luật
nghiêm minh, biết bổn phận, nên trong suốt cuộc chiến hai mươi năm,
dù lúc nào VNCH cũng bị Bắc Việt tấn công lén như Tết Mậu Thân 1968,
Mùa Hè 1972..nhưng họ đă can trường lật ngược hoàn cảnh, để chuyển
thắng thành bại. Hầu hết lính và các cấp chỉ huy ngoài chiến trường,
đă quyết tử trong giờ thứ 25, tới khi được lệnh bắt buông súng của
Dương Văn Minh, mới chịu ră ngũ.
Mới đây có nhiều tác phẩm được công bố như The Patangon Papers,
Fires In The Lake của Frances Fitzgeral, The Best and The Brightest
của Halberstam và nhất là các hồi kư của Kissinger..đều cho thấy từ
khởi đầu cuộc chiền, đến khi tàn cuộc, cho thấy người Mỹ luôn luôn
là đạo diễn chính trong thảm kịch VN. Trong lúc cộng sản Bắc Việt,
được tập đoàn Cộng Sản Quốc Tế cả Liên Hiệp Quốc, viện trợ quân sự
thả dàn, th́ QLVNCH bị Hoa Kỳ qua viện trợ, chèn ép bắt bó tay, nên
phải chiến đấu trong nghiệt ngă để sinh tồn. Theo Harry H Noyes, qua
tác phẩm ‘Herdic Allies’, với tư cách là một sĩ quan cao cấp của Mỹ,
đă chiến đấu nhiều năm ngoài mặt trận, bên cạnh QLVNCH, nên đă có
những nhận định rất thẳng thắn, trái ngược với mồm mép mệng lưỡi bọn
nhà báo và chính trị con buôn Mỹ và tây phương. Theo tác giả trên,
th́ thái độ bêu xấu hay bóp méo sự thật, nhắm vào QLVNCH, chẳng qua
chỉ là sự kỳ thị chủng tộc thường thấy của bọn da trắng, lúc nào
cũng tự xem ḿnh là văn minh, đứng trên các dân tộc khác. Một điều
quan trọng khác, là suốt cuộc chiến đẫm máu tại Nam VN, đa số dân
tây phương và Hoa Kỳ, đă bị điệp viên của khối cộng sản, cũng như
KGB của Liên Xô, mua chuộc hay tuyên truyền. Do đó lúc nào họ cũng
có cảm t́nh với Bắc Việt, nên cứ bóp méo sự thật, để khinh bỉ VNCH.
Bảo rằng QLVNCH không chịu chiến đấu, trốn trách nhiệm, chỉ muốn
khoán trắng cho quân đội Mỹ, kể cả sự oanh tạc Miền Bắc, là một
ngang ngược và phi lư. Để trả lời, nhiều người đă hỏi ngược lại
người Mỹ rằng ‘vậy th́ từ năm 1955-1965 và cuối năm 1971-4/1975,
khoảng thời gian đó, người Mỹ hoặc chưa tới hay đă rời VN, vậy ai đă
chiến đấu với bộ đội Bắc Việt?’. C̣n về vấn đề oanh tạc Miền Bắc, từ
đầu tới cuối có khi nào Hoa Kỳ giao trách nhiệm cho Không Quân VNCH,
cũng như chịu cung cấp cho họ các loại phi cơ chiến đấu tối tân, để
chiến đấu cho có hiệu quả. Một bí mật khác, là người Mỹ dành độc
quyền oanh tạc Miền Bắc, để thi hành lệnh của Hoa Thịnh Đốn, là đem
gần hết số bom đổ xuống biển hay núi rừng không phải là mục tiêu
quân sự cần tiêu diệt. Bởi vậy làm sao dám giao nhiệm cho KQ.VNCH?
C̣n trong thời gian Mỹ tham chiến tại VN, mở các cuộc hành quân tiêu
diệt cộng sản. Tất cả đều là hành quân hỗn hợp, giữa quân đồng minh
Hoa Kỳ và VNCH, tiêu biểu như HQ Cedar Faces tại Vùng Tam Giác Sắt
(B́nh Dương-Hậu Nghĩa), đầu tháng 1-1967, tiếp theo là HQ Toledo,
mục đích càn quét Chiến Khu C và Cục R, do lực lượng hỗn hợp, gồm Lữ
Đoàn 173 Nhảy Dù-Hoa Kỳ cùng 2 Tiểu Đoàn 33-35/Biệt Động Quân/VNCH
đảm trách. Đặc biệt tại Điện Biên Phủ Khe Sanh cuối năm 1967, vẫn có
quân VNCH tham dự, đó là TD37- BDQ, thuộc Liên Đoàn 1/BDQ của Quân
Đoàn I.
Sau cuộc chiến, để chạy tội bán đứng đồng minh, cũng như phản bội tổ
quốc và đồng bào ḿnh, Hoa Kỳ và bọn khoa bảng-trí thức thân cộng
Miền Nam, những người muôn năm trong ḍng sử Việt, được bia đời
phong cho danh hiệu là ‘trí thức chồn lùi’, c̣n các lănh tụ cộng sản
như Stalin, Mao Trạch Đông, kể cả Hồ Chí Minh, coi rẻ hơn cục phân
người v́ suốt kiếp chẳng làm được một điều ǵ tốt hay ích lợi, để
giúp cho đất nước và đồng bào. Bọn trí thức này theo chân người Việt
tị nạn khắp các nẻo đường hải ngoại, vẫn sống cao sang quyền thế như
lúc c̣n trà trộn trong các đại học, chùa-nhà thờ, ṭa báo, trên các
trang sách-thơ, vẫn chứng nào tật nấy, không hề thay đổi lương tâm
một chút ǵ, dù phong trần đă nếm, vinh nhục bề bề và trên hết là
vẫn bám vào người Việt tị nạn cộng sản để mà sinh tồn, dù rằng chúng
đă nói là Đă Đi Hết Biển nhưng lại không dám về sống với Việt Cộng,
để hưởng vinh hoa phú quư, tự do dân chủ..trong Xă Nghĩa Thiên Đàng,
như chúng hằng ca tụng.
Chính người Mỹ và bọn trí thức-khoa bảng thân cộng này, trước sau
vẫn đổ trách nhiệm làm sụp đổ Miền Nam cho các cấp lănh đạo của
VNCH.
Riêng sự bảo rằng VNCH không có lănh đạo xứng đáng, ngang cơ để đối
đầu với cáo già Hồ Chí Minh của Bắc Việt, sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm
bị hạ sát vào ngày 1-11-1963, là điều suy nghĩ quá đáng và đâu có
khác ǵ việc Mỹ nói QLVNCH không chiến đấu, mà chỉ giao hết cho quân
đội Hoa Kỳ.
Sự thật, QLVNCH từ 1960-1975, đă có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn
đạo đức, văn vơ vẹn toàn. Họ được đào tạo từ các quân trường nổi
tiếng nhất vùng Đông Nam Á thời đó như trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt,
trường Bộ Binh Thủ Đức, trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, các
trung tâm huấn luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh và Cảnh Sát..cũng như trường Đại Học Quân Sự.
Ngày xưa người lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng
thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối
t́nh xưa:
‘..xin v́ chàng, xếp bào cỡi giáp
xin v́ chàng giũ lớp phong sương
v́ chàng tay chuốc chén vàng
v́ chàng điểm phấn đeo hương năo nùng..’
(Chinh Phụ Ngâm – Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm)
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, v́ suốt
cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận th́ chống trả với kẻ thù
trong nỗi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết
trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi trong cơi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH?
Trong lúc đă có không biết bao nhiêu người hiện nay, đang sống thản
nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con
cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Trong số này có rất
nhiều người đang dấn thân lo chuyện non nước. Không biết trong tâm
tư của họ, có một giây phút nào, do lương tâm xao động, khiến họ
chợt nghĩ tới những người xưa đă Vị Quốc Vong Thân? Cũng may hầu hết
người Miền Nam, xưa nay vẫn biết ơn người lính năm nào, nhất là sau
ba mươi năm qua, đă biết hết cảnh đổi đời oan nghiệt.
Xưa người lính chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân.
Nay những người lính già c̣n sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ
của lính năm nào, đă và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một
ngày về quang phục quê hương được sống thật với tự do và no ấm, như
chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
‘..tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruỗi đă phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô..’
Xóm Cồn
Mùa Quốc Hận
HỒ ĐINH
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
-Báo Chí Quốc Tế
-Quân Sử VNCH của Bộ TTM
-Ngày Cuối Cùng của Nguyễn Khắc Ngữ
-Quân Sử của các Sử Gia Chánh Đạo, Phan Nhật Nam, Nguyễn Đức Phương,
Trần Đại Sĩ, Phạm Phong Dinh, Trần Gia Phụng, Pham Kim Vinh, Nguyễn
Lư Tưởng....
-Báo Chí VN tại Hải Ngoại
-Trang Web Đoàn Kết, Lịch Sử VN, Con Ong, VN Nhật Báo.
Tản mạn cuối năm
H́nh ảnh
đáng ghi nhớ trong năm
Miệng kẻ sang
có gang có thép
Hiến dâng máu !
Xướng xa vô loài
Khinh bỉ
Học làm người
Cái Hộ Chiếu/Thông
Hành
Thất bại hay
thành công
Ngân hàng quân đội
Nói chuyện với Hà Sĩ
Phu
Trái khoáy cuộc đời
Một chế độ hèn hạ
Chữ với nghĩa
Cơm với cá…
Tuyên bố đầy
tính sáng tạo
Chưa hết đu dây
C̣n có t́nh người
không?
Cả tin hay nghi ngờ
Ca sĩ hải
ngoại... Những kẻ bán linh hồn xho quỷ
Sợ hay không sợ
trung quốc
Gây hấn!
Lại nói về lá cờ
Trớ trêu của lịch sử
Các anh, một
chính phủ khốn nạn!
Xin cám ơn Tổng Thống
Obama
Nổ
Nước mắt cá sấu
Bánh ḿ Ai Cập, cá Việt Nam, khát vọng con người
Trách niệm về đâu
Mặc cảm dốt nát
Đâu là sự thật ?
Bệnh Nổ Ở Mỹ Rất Thịnh Hành?
Gần 2
triệu người đă hy sinh cho cuộc chiến, v́ mục đích ǵ?
Văn hóa "Giả Vờ"
Tổng Thống Donald
J. Trump ?
Mừng mùa Xuân dân
chủ!
Tâm lư chính trị
Bắt Ls Nguyễn
Văn Đài là hành động tuyệt vọng của CS
Chuyện ǵ cũng
chấm hết !
Dốt như
chuyện tu, Ngu như tại chức
Bài học nặng kư
Không thể tha thứ
được
Em bé và những viên sỏi
Bệnh "nói dai, nói
dài, nói dở, nói dô diên"
Rường cột nước nhà
Rỗng tuêch rỗng toác
Vẫn chuyện xe cán
chó
Hai cái băy
nguy nhiểm của "Nhớ rừng"
Giá trị của VNCH
30
Tháng Tư, cô nghệ sĩ Kim Chi dứt khoát
C̣n ǵ xấu hổ hơn
nữa?
V́ sao
Do Thái không dám không kích Iran?
Ông "cha" Trịnh tuấn
Hoàng
Nói KHÔNG Với Cộng Sản!
Những sự
thật cần phải biết về VNCH
Đập "b́nh" phải đập cái b́nh... phong!
Thăm dân cho
biết sự t́nh
Cái giá của Tự Do
Con chuột và cái b́nh
Đàn ḅ vào thành phố
Tranh quyền đoạt lợi
Làm từ thiện - Nên hay không
Thôi
rồi...
Chuyện biển đông
Quả đại pháo cuối
cùng
Biển Đông dậy sống
Vụ HD 981: Việt Nam
xem xét quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ
Thư trả lời
một bạn Du Học Sinh....
Gửi các anh Quân
Nhân QLVNCH đang ảo tưởng
Tổ Quốc
muốn ta phải kiên cường
Đừng mắc mưu bọn Việt
cộng....
Việt Cộng – Việt Cộng
Một âm mưu thâm độc của Việt
Cộng
Họ là “ngụy”, ta là ǵ?
Việt cộng hóa
Kinh nghiệm
tạo ra kinh nghiệm
Những sự thật
cần phải biết
Giọt nước
mắt cho quê hương
Vơ Thị Thắng và Nguyễn
Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng
Muốn Việt Cộng sớm sụp
đổ
Tổ Quốc Việt Nam
- C̣n hay đă mất?
Đồng chí Ếch dốt
chính tả
Đứng chàng hảng
Thời sinh viên ở Sài G̣n
Hăy nói trước ngày
chết
Chuyện cái sổ hưu
Thật giả, giả thật
Bất an
Nhận định về
cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ 2012
Thế hệ của
tôi – một thế hệ vứt đi
Người CS -
Cộng sinh hay kư sinh
Miền Nam sau 37 năm
dưới chế độ CS
Lẳng lặng mà xem...
Chủ nghĩa tư bàn
và chủ nghĩa tư bản đỏ
Không có gí
quư hơn độc lập con c...
Bản án chế độ cộng sản
VN
Phản hồi về bài
báo "Hành động lố bịch" trên báo QĐ...
Thân phận một tù nhân chính trị VN bi quên lăng
Hơi ấm non sông
Mẹ kiếp: Đứa nào bán
nước?
Thêm lần nhắc nhớ
Hào khí Việt Nam – Đáp lời
Sông Núi!
Nhân ngày Quân Lực 19
tháng 6...
Hai câu chuyện
phụ nữ Việt Nam
Tương lai nào cho
đảng cộng sản VN?
Anh hùng dân tộc
Thiên tài đảng ta
Ngọc ở trong nhà
Băi nhiệm và bất tín
nhiệm
Ngày phán xét sẽ đến
Thân phận "cử tri"
và "Đại biểu Nhân dân" ở Việt Nam
Sức mạnh của
Cộng Đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giữa Đạo và Đời
Tiên lăng - Chuyện
không đơn giăn
Triệu
con tim, c̣n triệu khối kiêu hùng
Độc quyền đẻ ra
đặc quyền
Những viên Đạn Hợp
Âm
Đảng là tên
đầy tớ phản phúc!
Cơn băo lốc
Kẻ thù nguy
hiểm chính là thành phần đánh phá cộng đồng
Xuân quê hương
Nhân quyền
trong rừng luật
Nhận lầm đồng hương
Vô tôn giáo
Bạo lực của
cường quyền: Xưa và Nay
Nhân quyền
trong rừng luật
Những người "vọng
quốc"
Chó sói gởi chân
Làm thế nào để
giành lại tự do?
Thử cho biết
Tin nhà nước !
Thế chân hạc mới
tại Á Châu
Thời anh hùng
Đỗ Thị
Minh Hạnh - Giọt nước hay mảnh thuỷ tinh
Tuyển dụng nhân tài
Nghề bán nước
Đạp vào mặt lịch sử
Cái giá của độc lập và tự do
Thêm một chiến sĩ đấu
tranh bị cầm tù
Thằng dân
Người lính VNCH & vành khăn tang Tổ Quốc
Nhận định t́nh h́nh đất nước hiện nay
Núm ruột quê hương
Dép râu và nón cối
của bộ đội Việt Cộng
Khủng bố: Xưa và
nay
Lại viết về
nổi bất hạnh của QLVNCH
Bài học
30 tháng 4
36
năm Quốc hận nghĩ về tâm trạng của tù nhân chính trị
Những ngộ nhận lịch sử
36 năm Quốc hận
tôi nghĩ ǵ?
Nhớ lại nỗi
bất hạnh của QLVNCH
Quốc gia thua để
thắng, cộng sản thắng để thua
Chiến sĩ
VNCH được giải ngũ chưa?
Người lính VNCH
Sáng mắt ra chưa?
Trí tức thổ tả
Giă từ Thiện
và bệnh Mù Loà
Triển vọng
chiến thắng công sản của người Quốc Gia
Tôi là ai?
Xuống đường
Nằm Vùng? Ai? Ở
Đâu?
Lộn xộn tiếng
Việt thời giao lưu văn hóa ở Việt Nam
Mậu Thân, Anh c̣n
nhớ hay đă quên ?
Thiên đàng XHCN
Từ Tunisia, qua Yemen, đến Ai
Cập, bao giờ đến công sản Việt Nam ?
Đàn cá trong ao bác Hồ và những con
chó của Pavlov
Ṭm tem...
Thư gửi Nguyễn
Đắc Xuân
Về chuyện “trong sáng hóa” tiếng Việt...
Tự điển
Văn hoá và con
người
Chuyến xe buưt và khúc
hát người lính mù
Vài suy nghĩ về biểu t́nh
chống văn hóa vận tại Melbourne
Những kẻ thầy đời
Nhạc lính
Tin và không
tin trong xă hội VN
Khi bài hát trở về
Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng
Dương
Ḷng dân đang chuyển ?
Tứ Bất Tận - Tứ Bất Năng
Lê Thị Công Nhân
Nh́n lại
đống rác lịch sử đánh Mỹ cứu nước của csvn
34 năm sau, họ là ai ?
Nh́n Tây Tạng thấy Việt Nam
Chuyện đời...
Đặc công văn hoá miền
Nam
Bài viết từ một người SG
Thư ngỏ gửi
những người trí thức mê sảng...
Tội nghiệp đất nước tôi
Thời thế mới, đấu
tranh mới...
Bao giờ dân Việt trở
thành thiểu số trên chính quê hương ḿnh
Nói với các con tôi
Phiên phiến tuổi già
Hành vi nhỏ... dă tâm lớn
Gà trống và cáo
Xin đừng lăng quên nhà dân
chủ trẻ Lê Trí Tuệ
Thảm trạng người Việt
tỵ nạn tại Cam-bốt
Sao anh nỡ đành quên
Thế hệ già hải ngoại
nên nh́n lại
Khiếp nhược: Nhục và hèn
Tiếng nói từ Mộ Đức
Từ tiếng súng Trần Văn Bé Tư
Ca rao thời đại hcm
Những vần thơ chui
Lê Thị Công Nhân - Người con
cưng của ...
Cũng bởi thằng dân ngu
Chống VC hay TC?
Cái Làn và cái L...
Trông thấy vậy mà
không phải vậy
Thèm
Hăy vất bỏ khối nặng
của tính ác và sự xấu
Chọn lựa
C̣n cờ đỏ sao vàng th́...
Đừng măi lợi dụng "nỗi đau da
cam"...
Lạ và nhạy cảm
Chân dung người vợ
lính
Việt Nam lâm nguy
Gịng sông Bến Hải vẫn c̣n
Giáo dục VN, tội ác băng hoại xă
hội
34 năm nh́n lại cuộc chiến
chống csVN
Nay anh, mai tôi
Chiến dịch hoa hồng đỏ của
csVN
Đêm nhớ về anh
Nhớ Vơ Hoàng
Cái miệng
Từ Lê Văn Thinh
đến Nguyễn Cung Thương
Chuyện phải viết
Vất chanh bỏ vỏ
Tổ Quốc - Danh Dự -
Trách Nhiệm
Mối nhục của một quốc
gia
Lá Cờ
Mơ ước của tôi
Chim hạc và chó săn
Tường tŕnh 10
điểm, Đạo đạt lên LHQ
NK Đặng Thuỳ Trâm - Sản
phẩm dối trá ...
Tóm tắt một số tội ác cs VN
Sự thực về cái gọi là "Đại
thắng mùa Xuân
Bọn cs sợ quan thầy ...
Xin hăy cứu lấy Tổ Quốc
Tâm t́nh gửi đến anh
chị CQN QLVNCH
Đỉnh cao cháy rụi
Mậu Thân, anh c̣n nhớ hay
đă quên
Cảnh giác âm mưu
"tẩy nảo" của Casula Powerhouse
Bệnh "dại" của người Việt
Chuyện Nguyễn Thái Hoàng
Niềm kiêu hănh của người Việt
Chiến dịch "tháng Tư
đen"
Tổng phản công nghị
quyết 36
Kép độc cứu nguy
Thăm nom và săn sóc
nhau lúc c̣n sống
Giặc từ thiện
Tiền nhân...
Những ám ảnh khó tẩy xóa
Tính hay quên của
người Việt tỵ nạn cs
Món nợ nên ghi nhớ
Nên đầu tư cho thế hệ trẻ
Mẹ Âu Cơ - Tiếng thở dài và
niềm an ủi
Trăm trứng trăm con - Một
truyền thuyết
Hai h́nh ảnh - Một sự so sánh
Ông Kỳ "Xuống Cấp"
Tôi thấy và nghe được ǵ ở Sài-G̣n ...