Màu áo cũ -
Video
Mang theo quê hương
-
Video
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Trần Xuân Thời
Tấc ḷng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Cảnh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đă ṃn con mắt phương trời đăm đăm.” (Nguyễn Du)
Sau 45 năm trời viễn xứ, cảm giác chung của chúng ta là không nơi
nào bằng quê hương ḿnh, và cũng không có ngôn ngữ nào truyền cảm
bằng ngôn ngữ chúng ta nghe từ thuở c̣n cưu mang trong ḷng quê mẹ.
Trong cuộc sống cộng đồng chúng ta ngày nay, Việt ngữ vẫn đóng vai
tṛ quan trọng, là dụng cụ bậc nh́ để ghi chép âm thoại sau lời nói,
bắc nhịp cầu thông cảm giữa người và người, để truyền thông cái t́nh
và hoằng dương cái lư, lưu truyền kiến thức và t́nh cảm cho hậu thế.
Lịch sử chứng minh cho chúng ta thấy, trải qua hơn một ngàn năm Bắc
thuộc, chúng ta vẫn giữ được truyền thống văn hoá dân tộc, không để
cho Bắc phương đồng hóa. Ngày nay trên bước đường lưu vong, dù đôi
khi bất măn với hiện tại, tiếc nuối quá khứ và hy vọng vào một tương
lai tốt đẹp, nhưng chúng ta vẫn đặt tâm vào vấn đề giáo dục con em,
bảo tồn và phát huy Việt ngữ, nếu không Việt ngữ sẽ mai một dần.
Thời gian trôi qua nhanh như bóng câu qua cửa. Lớp hậu sinh trưởng
thành và được giáo dục trong sinh cảnh văn hóa mới sẽ, có thể, không
c̣n thiết tha đến Việt ngữ, v́ không được học hỏi, không hiểu và do
đó không thích, đúng như câu “Vô tri bất mộ”. Học Việt ngữ qua báo
chí, kinh điển, sử sách, vừa bảo tồn được ngôn ngữ Việt, vừa phát
huy được năng khiếu sinh ngữ. Truyền thông bằng ngôn ngữ là năng
khiếu đặc trưng của con người, vượt ra ngoài biên giới chủng tộc,
không gian và thời gian. Năng khiếu ngôn ngữ phát triển đồng thời
với khả năng tri giác ngoại giới, khả năng thu nhận và truyền thông
kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo.
Tiếng nói là phương tiện trực tiếp truyền thông tư tưởng và t́nh cảm
giữa người và người và được mệnh danh là dụng cụ bậc nhất trong vấn
đề thông đạt. Khi đă có tiếng nói, người ta t́m ra phương thức diễn
đạt tiếng nói bằng kư hiệu gọi chung là văn tự. Văn tự được xem như
dụng cụ bậc nh́ để có thể chuyển tải tư tưởng đến tha nhân qua không
gian và thời gian như sách sử, báo chí, và ngày nay c̣n có dụng cụ
truyền thanh và truyền h́nh, internet, để nối dài lời nói xuyên lục
điạ.
Nếu gọi nhạc là nghệ thuật tiết tấu âm thanh, th́ văn tự là nghệ
thuật phối trí kư hiệu để ghi chép và chuyển đạt tư tưởng. Tiến
tŕnh học hỏi để phối trí, lănh hội và diễn đạt tư tưởng không phải
chỉ thu gọn trong trường thi trận bút từ tiểu học cho đến đại học mà
c̣n phải nghiên cứu, trau dồi có khi suốt cả cuộc đời. Câu nói “văn
ôn vơ luyện” thật không sai.
“Nước ta vốn xưng văn hiến đă lâu, phong tục Bắc Nam sẵn có.” Trong
suốt thời Bắc thuộc chúng ta đă dùng chữ Hán, măi đến sau năm 936,
thời tự chủ, theo truyền thuyết cụ Hàn Thuyên đă dùng chữ Nôm để ghi
chép tiếng Việt, chữ Nôm được xem như chữ viết đầu tiên của nước ta.
Nhiều tác phẩm văn chương trong suốt các triều đại Đinh, Lê, Lư,
Trần được viết bằng chữ Hán. Chữ Nôm được dùng nhiều vào đời Lê
Trung Hưng và Nguyễn. Có lẽ v́ sự cạnh tranh giữa hai môn phái trọng
Nôm và môn phái trọng Hán, nên các văn kiện của triều đ́nh đều dùng
chữ Hán, măi đến thời Tây Sơn chữ Nôm mới được trọng dụng.
Chữ Nôm và chữ Hán đều là văn tự cho giới khoa bảng và nho sĩ hơn là
thứ dân v́ tính chất phức tạp trong lối ghép chữ, phải mất rất nhiều
th́ giờ mới có thể học hỏi và lănh hội được. T́nh trạng này đă góp
phần vào sự h́nh thành giai cấp nho sĩ, khoa bảng, liệt vào hàng đầu
của giai cấp xă hội.
“Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên
Có giang sơn th́ sĩ đă có tên
Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quư”(Nguyễn Công Trứ)
Trong thời phôi thai của nền văn học Việt, các vị sư nổi danh như
Ngô Chân Lưu và Trương Ma–Ni được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Văn
Ṭng và Tăng Lục đă đóng góp vào phần trước tác và truyền bá Hán
học. Đến đời Tiền Lê, khi sứ giả nhà Tống sang Việt Nam, vua Lê Đại
Hành, đă thỉnh Sư Lạc Thuận, giả làm khách lái đ̣, đối đáp văn thư
với sứ giả nhà Tống. Sư Ngô Chân Lưu soạn văn tiễn sứ giả. Các vị
thâm nho này đă nổi danh về văn học và tham dự quốc sự, được dân
gian truyền tụng.
“Câu thơ Lạc–Thuận, sứ Tống khen hay,
Bài ca Chân–Lưu nổi danh muôn thuở”
Sang triều đại nhà Lư, Lư Công Uẩn, tức là Lư Thái Tổ, lúc 3 tuổi đă
được Pháp Sư Lư Khánh Vân nhận làm con nuôi. Khi sang nghiệp nhà Lư,
ngài rất tôn sùng đạo Phật. Đây là thời cực thịnh của Phật giáo. Đặc
điểm là các vị sư, dù được triều đ́nh kính nễ vẫn chủ trương ḥa
đồng tôn giáo “Tam Giáo đồng nguyên” – Nho–Thích–Lăo.
Nhà Lư đă mở ra những khoa thi Tam Giáo. Sư Viên Chiếu đă sánh Phật
Giáo và Khổng Giáo như mặt Trời và mặt Trăng, “Trú tắc minh ô chiếu,
dạ lai ngọc thố minh”. Ngày th́ mặt trời chiếu, đêm th́ mặt trăng
soi. Tinh thần ḥa đồng của các vị sư chiếu sáng trong suốt các
triều đại khai quốc này như sư Bảo Thịnh, sư Minh Tâm, sư Vạn Hạnh,
sư Đạo Hạnh, sư Minh Không, kể cả thuyết pháp lấy Thân, Khẩu, Tâm
làm gốc của đạo.
Về phương diện tư tưởng, triết lư Phật học đă thấm sâu vào nguồn
t́nh tự dân tộc. Hai tác phẩm nổi danh nhất của nền văn học Việt Nam
là Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu vào đời Lê Trung Hưng và Kim
Vân Kiều truyện của Nguyễn Du vào thời Nguyễn sơ đă thể hiện rơ rệt
triết lư Phật học về nhân duyên, nghiệp báo làm phong phú hoá thêm
triết lư nhân sinh Việt vốn chịu ảnh hưởng của Nho học về luân
thuờng đạo lư dựa trên Tam Cương (quân, sư, phụ); Ngũ Thường (nhân,
lễ, nghĩa, trí, tín); Ngũ Luân (Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng,
bè bạn); Tam Ṭng (khi nhỏ ở với cha mẹ, lớn lên theo chồng, chồng
qua đời theo con); Tứ Đức (công, dung, ngôn, hạnh) qua phương pháp
giáo dục giúp con nguời phát triển qua 7 ư niêm chính: (1) Cách vật
trí tri (extention of knowledge by investigating things), (2) thành
tâm (the will becomes sincere), (3) chánh ư (the mind is rectified),
(4) tu thân (personal life is cultivated), (5) tề gia (the family
regulated), (6) trị quốc (the state put in order), (7) b́nh thiên hạ
(and peace is established throughout the world) dựa trên triết lư
của Nho Giáo dùng Tứ Thư, Ngũ Kinh lám sách giáo khoa qua các triền
đại quân chủ Trung Hoa và Việt Nam.
Ôn Như Hầu, mượn lời Cung Oán, đă luận về thân thế con người sinh ra
trong bể khổ:
“Thảo nào khi mới chôn nhau
Đă mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
Khóc v́ nỗi thiết tha sự thế
Ai bày tṛ băi bể nương dâu
Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử, sinh, kinh, cụ, làm nau mấy lần.”
hay:
“Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
Tuồng huyễn hỏa đă bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm c̣n có ǵ đâu
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh ŕ!”
Đời sinh ra trong cảnh khổ v́ vướng phải nhân duyên, tiền kiếp.
“Hẳn túc trái làm sao đây tá
Hay tiền thân hậu quả xưa kia
Hay Thiên Cung có điều ǵ
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi”
Do đó, muốn thoát cảnh đời đoạn tâm can của chốn trần ai khổ lụy,
phải dứt thất t́nh lục dục, mượn chốn thiền môn để tu niệm.
“Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật
Mối thất t́nh quyết dứt cho xong
Đa mang chi nữa đèo ḅng
Vui ǵ thế sự mà mong nhân t́nh
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trên đời”
Thân phận nàng Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du cũng
ba ch́m bảy nổi:
“Ma đưa lối, quỷ đưa đường
Lại t́m những chốn đoạn trường mà đi
Hết nạn ấy đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Trong ṿng giáo dựng gươm trần
Kề lưng hùm sói giữ thân tôi đ̣i”
Cuộc đời lưu lạc giang hồ của Kiều cũng chỉ v́ nhân duyên, nghiệp
chướng.
“Đă mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn, Trời gần Trời xa
Thiện căn ở tại ḷng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài nằm với chữ tai một vần”
Sau 15 năm lưu lạc giang hồ, Kiều đă được tái hợp với Kim Trọng,
thoát cảnh ngang trái của cuộc đời.
“Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp
Một dây bạc mệnh dứt cầm loan”
Nhờ nước sông Tiền Đường đă giải oan;
“Mười mấy năm trời nợ giủ xong
Sông Tiền Đường đục hóa ra trong.
....
Tấm ḷng thiên cố thương mà trách
Chăng trách chi Kiều trách hóa công!”
Nếu các vị danh sư của Phật Giáo đă tích cực đóng góp vào sự h́nh
thành nền văn học Việt từ thuở phôi thai th́ khoảng năm 1530 dưới
thời Vua Lê Chúa Trịnh, các vị Thừa sai Thiên Chúa Giáo đến giảng
đạo tại Việt Nam đă sáng chế và lưu truyền cho hậu thế một phương
pháp ghi chép tiếng Việt độc nhất vô nhị: chữ Quốc Ngữ, một chứng
tích của tôn giáo góp công vào sự phát triển của nền Văn hóa Việt
Nam.
Khi các phái bộ Thiên Chúa Giáo đến Việt Nam, v́ nhu cầu giảng kinh
Thánh và nhu cầu truyền đạt, các Giáo sĩ thừa sai học nói tiếng Việt
và dày công nghiên cứu cách dùng mẫu tự La-tinh a, b, c... để viết
tiếng Việt.
Công tŕnh này do nhiều Giáo sĩ thực hiện, nhưng người được nhắc nhở
đến nhiều nhất là cố Giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhode). Ngài đă
học cách nói tiếng Việt với một cậu bé Việt 13 tuổi. Cậu bé này là
một thần đồng về ngôn ngữ. Chỉ trong 3 tuần lễ, Cha Đắc Lộ đă đọc
được hầu hết các thanh âm tiếng Việt, và ngược lại cậu bé Việt đă
học được tiếng La-tinh. Cậu bé đă trở thành đồ đệ của Cha Đắc Lộ
(Alexandre De Rhodes), đọc kinh cầu bằng La-tinh và trở thành một
thầy giảng nổi tiếng thời bấy giờ.
Ban đầu tiếng Việt có nhiều chữ khó viết như Trời viết thành “blời”,
nhưng dần dần chữ Việt viết theo mẫu tự La-tinh biến thành một khí
cụ sắc bén, một phương pháp mới trong vấn đề kư âm, ghi chép tiếng
Việt một cách giản tiện, dễ dàng và nhanh chóng. Nhiều người có thể
lănh hội, không tốn công phí sức như học chữ Nôm và chữ Hán. Người
ta quen gọi là chữ Quốc Ngữ để phân biệt với chữ Nôm và chữ Hán.
Chữ Quốc Ngữ được các Giáo sĩ Thiên Chúa Giáo phát minh đă mở con
đường sáng cho nền giáo dục nước nhà, nhờ cách ghi chép và đánh vần
giản tiện. “Quốc Ngữ chữ nước ta”ra đời đúng lúc mà:
“Đạo học ngày này đă chán rồi
Mười người theo học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư lương trấp trỏm ngồi” (Tú Xương)
Hai tác phẩm đầu tay là cuốn tự điển Quốc Ngữ – Bồ Đào Nha – Latin
(Dictionarium Annamiticum sey Tonkinese cum Lusitanum, et latinum
declaration) và cuốn Kinh Nghĩa dạy Giáo Lư cho tân ṭng
(Catechismus pro iis qui volunt suscipene Baptism in octo dies
divisus) bằng song ngữ La–Việt do Giáo sĩ Đắc Lộ trước tác và xuất
bản vào năm 1651.
Sau giai đoạn khai phóng, Giám Mục Behaine và Giám Mục Taberd đă gọt
dũa h́nh thức chữ Quốc Ngữ sắc bén như ngày nay, qua các cuốn Tự
Điển Việt-La xuất bản năm 1838, cha Ravier nhuận sắc và được tái
xuất bản vào năm 1880.
Trong thời gian này, tại Nam Việt có đến 527 trường dạy Quốc Ngữ gồm
hơn 17,000 học sinh nam nữ so với 209 trường dạy chữ Hán cho khoảng
2,300 học sinh. Sỉ số học sinh Hán ngữ giảm sút rất nhiều. Măi đến
năm 1917 các khoa thi Hương bị băi bỏ. Hán học chỉ c̣n là lưu niệm
vang bóng một thời! Theo mới nới cũ phải chăng là luật đào thải của
thiên nhiên?
Văn tự là phương tiện truyền đạt tư tưởng và nối dài lời nói. Chữ
Quốc ngữ đă đủ sắc bén để diễn tả tư tưởng th́ tội t́nh ǵ mà miệt
mài Hán tự, tốn công, phí sức, thiếu tính chất phổ cập trong quần
chúng.
Kế nghiệp của các Giáo sĩ Thiên Chúa Giáo, các giáo hữu cũng đă đóng
góp tích cực vào sự bành trướng chữ Quốc Ngữ như Pétrus Kư, Paulus
Của, Nguyễn Văn Vĩnh... Petrus Trương Vĩnh Kư (1837–1898) là một
thần đồng về ngôn ngữ. Ông nói được 12 thứ tiếng, và Chủ Bút tờ Công
Báo đầu tiên ở Nam Việt là Tờ GIA ĐỊNH BÁO, xuất bản năm 1865.
Gia Định Báo là tờ báo truyền bá Quốc Ngữ đầu tiên làm nền tảng cho
các báo Quốc ngữ sau này. Năm 1909, ông Canavaggio xuất bản tờ Nông
Cổ Mín Đàm với sự cộng tác của các vị Lương Khắc Minh, Trần Chánh
Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt. Ông Trần Chánh Chiếu, sau đó làm Chủ Bút tờ
LỤC TỈNH TÂN VĂN xuất bản năm 1907.
Các học giả của Phong Trào Duy Tân cũng đă rầm rộ truyền bá Quốc Ngữ
như quư ông Phan Chu Trinh (1872–1926), Ngô Đức Kế (1878–1929), Trần
Quư Cáp (1870–1908) và Huỳnh Thúc Kháng (1876–1949).
Tại Bắc Việt nhà giáo Bùi Xuân Phái và các thông ngôn, tham biện lập
Hội Trí Tri để phổ biến văn minh học thuật Âu Mỹ vào năm 1892. Năm
1891 tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo xuất bản bằng Hán Văn và sau đó
thêm phần Quốc ngữ. Đến năm 1907 đổi danh thành Đại Nam Đăng Cổ Tùng
Báo do Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ Bút, đăng tải các tác phẩm dịch thuật
như thơ La Fontaine, kịch Moliere, khảo luận tư tưởng chính trị về
Tự Do, B́nh Đẳng... Năm 1905 tờ Đại Việt Tân Báo xuất bản song ngữ
Hán – Quốc Ngữ do ông Đào Nguyên Phổ làm chủ bút, nối liền giữa tân
học và cựu học.
Trên toàn quốc phong trào “Học Báo” đă được phát động rầm rộ, kể cả
chính quyền Đông Dương dưới thời Toàn Quyền Beau (1901–1908). Toàn
Quyền Paul Beau đă tích cực hỗ trợ chương tŕnh truyền bá Quốc Ngữ
và thành lập Đại học Đông Dương tại Hà Nội năm 1906. V́ sinh viên
băi khóa phản đối chính sách thuế khoá của chính quyền thuộc địa nên
Toàn Quyền Kolbukowski ra lệnh đóng cửa Đại học Đông Dương. Đến năm
1917 Toàn Quyền Albert Sarraut cho phép mở lại với danh xưng mới Đại
học Hà Nội. Năm 1905, với Phong Trào Duy Tân, cụ Phan Bội Châu xuất
dương qua Nhật Bản, viết về những bức Huyết Lệ Thư, kể rơ kinh
nghiệm Duy Tân của Nhật Hoàng, được phiên ra chữ Quốc Ngữ, truyền bá
trong dân chúng 3 miền, và dùng làm tài liệu giáo khoa cho Trường
Đông Kinh Nghĩa Thục. Trường ĐKNT cũng đă bị đóng cửa sau 10 tháng
hoạt động.
Về cơ sở giáo dục, ngoài các trường công lập lớn như Pétrus Kư, Quốc
học, Chu Văn An... Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đă mở thêm trên 850
ngôi trường, đóng góp lớn lao vào nền giáo dục nước nhà. Từ năm 1889
đến 1904, ba ngôi trường đă được các Sư Huynh Ḍng Jean Baptiste De
La Salle thành lập: Trường Taberd ở Sài G̣n, Trường Pellerin ở Huế
và Trường Puginier ở Hà Nội. Sau đó đă lập thêm các trường khác ở
những tỉnh lớn và đă đào tạo hàng trăm ngàn công dân ưu tú phục vụ
trong mọi ngành hoạt động của quốc gia.
Ngoài những tạp chí nêu trên, hai tạp chí nổi tiếng kết nối sự
nghiệp truyền bá Quốc Ngữ là Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí
và Nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Các cơ sở này dùng Quốc Ngữ để đẩy mạnh
phong trào cải cách tư tưởng, đả phá những tập tục cổ hũ, không c̣n
thích ứng với trào lưu tiến bộ mới “gió Mỹ mưa Âu” mà nhân vật Loan
trong tác phẩm Đoạn Tuyệt đă nói lên phần nào triết lư văn nghệ của
nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Như vậy, trong suốt 300 năm chữ Quốc Ngữ đă tiến đến giai đoạn tinh
luyện, hầu hết các thể văn đều được sáng tác như kư sự, văn khảo,
dịch thuật truyện, thơ, kịch, văn, luận thuyết... Nhiều sách giáo
khoa được các học giả Bắc, Trung, Nam sáng tác và đăng tải trên các
tờ báo viết bằng chữ Quốc ngữ cho đồng bào thưởng lăm.
Nhiều danh từ về triết học, kỹ thuật bắt đầu xuất hiện bằng cách
ghép danh từ Hán Việt hoặc phiên âm từ ngoại ngữ để đáp ứng nhu cầu
của nền giáo dục mới, dồi dào các ngành học chứ không chỉ học văn
chương thi phú như trước. Nền tân học đ̣i hỏi nhiều danh từ không có
trong Việt ngữ. Kho tàng Việt ngữ dồi dào về danh từ t́nh cảm, văn
chương nhưng thiếu danh từ về khoa học, kỹ thuật và triết học.
Ngày nay, sự thiếu thư tịch để tham khảo là một sự trở ngại lớn cho
vấn đề viết văn khảo, họa chăng văn hóa là những ǵ c̣n lại sau khi
đă quên hết, đúng như câu “La culture est ce qui reste quand on a
tout oublié”. Theo Freud, th́ trí tuệ chia làm 3 phần. Phần nhớ rơ
ràng những sự kiện gọi là phần “Ư thức” (conscious); phần lờ mờ, nhớ
nhớ, quên quên gọi là “Tiềm thức” (subconscious) và phần ẩn náu sâu
kín, có thể xuất hiện một cách bất kỳ xuất ư, gọi là phần “Vô Thức”
(unconscious). Đa số những hành vi, cử chỉ hằng ngày của chúng ta do
phần vô thức điều khiển.
Mục đích của giáo dục nhằm truyền thụ kiến thức, tinh luyện suy
luận, và phát triển sáng tạo. Tiến tŕnh giáo dục là tiến tŕnh
“tiêm nhiễm” kiến thức vào vô thức, càng nghiên cứu học hỏi, kho
tàng vô thức càng phong phú. Trong ư niệm đó “Văn hóa là cái ǵ c̣n
lại sau khi đă quên hết”, hiểu theo phân tâm học (psychoanalysis)
của Freud. Văn hoá nói chung là những ǵ thể hiện sự hiện hữu của
con người trên trái đất này v́ các sinh vật khác không có văn hoá.
Dù nhớ hay quên, viết văn, làm báo chỉ nhằm chủ đích phục vụ nhân
sinh, trao đổi kinh nghiệm và kiến thức để chúng ta “một phen tri kỷ
cùng nhau” trong công tác bảo tồn và phát huy nền văn hóa dân tộc.
Ghi lại công nghiệp của cổ nhân là một niềm vui tinh thần, “Làm việc
nghĩa không kể lợi hại. Luận anh hùng không kể hơn thua”. Dù không
biết “Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ”, nhưng họ đă trồng
cây cho chúng ta ăn trái và hoa thơm tỏa ngát ḷng đất. Hiểu một
cách giản dị, văn là vẻ đẹp, hoá là biến hoá. Công tŕnh văn hoá của
cổ nhân đă lưu lại trong tâm hồn chúng ta chút ǵ để nhớ, chút ǵ để
thương như lời Tú Xương c̣n như văng vẳng bên tai:
“Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa lắm nhớ ta không?”
và thông cảm với tâm tư của Thôi Hạo:
“Ai người trước đă qua
Ai người sau chưa tới
Ngẫm Trời, Đất mông lung,
Một ḿnh tuôn giọt lệ!”
Kẻ tha thương đâu đâu cũng cô độc, “L’exilé partout est seul”! Nên
chúng ta đồng cảm với tâm tư của Vương Duy:
“Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu.
Tây xuất Dương quan vô cố nhân”.
Mong bạn ưống cạn chén bồ đào v́ khi qua bên kia phương trời tây th́
không c̣n cố nhân nữa!
“Mưa mai thấm bụi Vị Thành
Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời
Khuyên anh hăy cạn chén mời
Dương quan ra khỏi ai người cố tri” (Tống Nguyên nhị sứ An Tây)
“Văn dĩ tải đạo”. Viết văn là để chuyển tải đạo lư. “Đạo theo lẽ
Trời mà ra và cũng bởi ḷng người mà đến”. Nhưng Trời không nói
“Thiên hà ngôn tai”, th́ người cũng chỉ “truyền nhi bất tác”.
Sinh hoạt xă hội, viết văn, làm báo, vừa để sưởi ấm tâm hồn, vừa bắc
nhịp cầu thông cảm cổ, kim, vừa để hoằng dương công đức của tiền
nhân cũng là sứ mệnh văn hóa chung của chúng ta vậy.
Trần Xuân Thời
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Cố
Thiếu Tướng Trương Quang Ân
Thủ
Đức vang tiếng gọi
Vũ Hoàng
Chương
Giai nhân tự cổ…
Mẹ chồng,
nàng dâu
Lính thư sinh
Thư gởi Ba
F1, F2, F3..!?
Cao nhân
Lính Rùa...!?
Bước đường tị nạn tại Mỹ vào năm 1975
Bảy
tháng giữa xác người
Một thời oan trái
Cuối đời của Nam Phương Hoàng hậu tại Pháp
Người muôn
năm cũ
Đưa vợ đi đẻ
Câu chuyện của nữ HQ Đại Tá Quân Y Mỹ gốc
Việt
Úc trang bị tàu ngầm hạt nhân Mỹ
Sống "bụi"
Đêm kinh
hoàng
Bài thơ phá giặc xâm lăng nhà Tống
Sự
tích bài thơ "Trèo lên cây bưởi hái hoa"
Thằng gà chết
Năm Gà Mổ
Tay muốn chạm tay
Pleiku, thơ và thi
nhân
Tính trước
Trận Pleime năm 1974
Không quên người chiền sĩ QLVNCH
Áo học tṛ và áo trận
Lê Bá Định, vị NT Không Quân khả kính
Động
cơ T53-L-13 của trực thăng UH-1
Câu
chuyện ‘Áo Lụa Hà Đông’
Một thời
vang bóng
Khép một vầng trăng
Sứ mệnh văn
hóa
Một cơn ác mộng
T́nh yêu giữa tôi và nàng tiên
Người tù
đi gánh củi
Chuyến vượt biên của tôi
BV B́nh Dân những ngày khói lửa tháng 4-1975
Tưởng chừng đă quên
30 tháng 4
năm 1975 chị ở đâu?
Hào kiệt
phương Nam - HQ Tr/Ta Ha Ngoc Lương
Hai người lính Dù
Tưởng niệm tháng tư đen lần thứ 46!
Một cơn ác mộng
T́nh yêu giữa tôi và nàng tiên
Hồi kư "Dang
Dở"
Sự trả thù đê hèn và dă man của VC
Về Thăm quê cũ
Buổi điểm danh cuối cùng
Mai vẫn nở
trên điêu tàn của Huế
Thằng "Nước Mắm"
Những
mảng màu khô
Chữ nghĩa
bây giờ
Xuất xứ những bài nhạc Việt vang bóng...
Thiên lư tương ngộ
Một cái Tết khó quên
Tản mạn về “Trâu” qua Ca Dao VN
Thăm lại đồi Charlie: Nghe người đi, linh
hồn ở lại
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Sóng bạc đầu
Viết về Trâu
Phi vụ tàu phép
Tâm t́nh của một người trẻ...
Trong cơn lốc đời
Mỹ nhân và danh tướng
Như
một gịng sông
Môt chuyến đi Hawaii
Chuyện t́nh đẫm lệ thời chinh chiến
Ba bỏ mẹ con đi rồi