"Một ngày bảy lăm, con
bỏ nước ra đi
Hai mươi năm là hai lần ta biệt xứ
Giờ cha lưu đày, ở ngay trên đất ta
Mà giờ con lưu đày, ở đây nơi xứ lạ
Một ngày năm bốn, cha ĺa quê hương
Lánh Bắc vô Nam, cha muốn xa bạo cường
Một ngày bảy lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỉ dữ xua con ra đại dương"
Nhạc sĩ Phạm Duy, tác giả của hùng ca “Việt Nam, Việt Nam”, đă dùng gịng nhạc ghi lại những mất mát tột cùng của chính ông và cha, cũng như của đồng bào ḿnh, trong hai đoạn đời vô cùng bi thảm dưới chế độ cộng sản bạo tàn trong bài “1954-1975”.
Hàng năm, tháng Tư lại
đến!
Rồi ngày 30 tháng Tư cũng qua đi!
Thế nhưng, tháng ngày định mệnh vô cùng oan nghiệt ấy không bao giờ bị quên lăng trong tâm tư của người Việt trong nước và đang lưu vong trên khắp thế giới.
Hơn 40 năm qua, từ 30 tháng Tư năm 1975, ngày đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Những trang sử tiếp nối hành tŕnh t́m Tự Do tang thương từ 1954, lại sang trang với đầy ấp nước mắt và máu uất hận của đồng bào trốn chạy chế độ cộng sản man rợ năm 1975.
Thật vậy, biết bao người vượt trốn sau khi miền
Nam tự do đă bị cộng quân cưỡng chiếm năm 1975, từ năm 1954 họ đă
phải bỏ quê nhà miền Bắc, bỏ mồ mă ông bà, tổ tiên để di cư vào miền
Nam tự do. Có người đă may mắn sống sót khi vượt qua Đại Lộ Máu hay
Đại Lộ Kinh Hoàng, trong mưa pháo và loạt đạn căm hờn của quân cộng
phỉ trực xạ vào đồng bào đang trốn chạy. Họ là những người đă có
kinh nghiệm thương đau, cương quyết không sống dưới gông cùm của
cộng sản!
Theo The State of the World’s Refugees 2000: 50 Years of
Humanitarian Action đă gi nhận về hành tŕnh t́m đến Tự Do năm 1975
đầy bi thảm như sau:
"Họ ra đi mà không biết
ḿnh đi đâu, sẽ đến đâu; đa số không biết ǵ về đại dương cùng những
nguy hiểm của những chuyến hải hành cũng như không biết ǵ về những
khó khăn khác đang chờ đợi họ. Đó là lư do người ta đă nói: nếu có
ba người vượt biên th́ chỉ có một người đến bến an toàn. Một người
chết trên biển v́ bảo tố, đói khát và hải tặc. C̣n lại, một người sẽ
bị bắt lại và đi tù”.
Hành tŕnh t́m tự do bất chấp mạng sống của chính ḿnh đă làm rúng
động lương tâm nhân loại, đồng thời vạch trần bản chất độc ác của
chế độ cộng sản Việt Nam trước công luận thế giới.
Mỗi người vượt trốn để t́m tự do c̣n mang ư nghĩa
của một lá phiếu bất tín nhiệm, chống lại chế độ bất nhân!
Ginetta Sagan, kư giả người Ư, nổi tiếng với các hoạt động tranh đấu
cho Nhân Quyền, cho Amnesty International, Prisoner of conscience
(POC) đă viết:
"Dưới chính sách khắc nghiệt của cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng…vượt biên".
Nhận định tuy dí dỏm của bà đă diễn tả một thực
trạng rất bi thảm của dân dộc Việt Nam suốt hơn hai mươi năm, kể từ
tháng Tư năm 1975 cho đến năm 1996.
Người dân miền Nam và cả miền Bắc đă liều ḿnh vượt biên bằng đường
bộ qua Cambodia để đến Thailand hay vượt đại dương để đến bất cứ
quốc gia tự do nào. Họ chấp nhận cái chết trong rừng sâu hay biển
rộng, miễn sao thoát khỏi địa ngục và loài quỷ dữ cộng sản ở Việt
Nam.
Hành tŕnh t́m đến tự do không chỉ an dung dừng lại ở bến bờ tự do, nơi các trại tỵ nạn!
Người Việt Nam vượt biên, vượt biển để t́m tự do lắm khi đă phải can đảm chọn cái chết bằng cách tự sát khi bị cưỡng bức trở về với cộng sản Việt Nam. Biết bao cái chết thật thương tâm như:
- Anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hongkong, ngày 16/2/1990:
“Chị thương, hôm nay em đă bị từ chối tư cách tỵ nạn chính trị. Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu”.
- Anh Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đă lao ḿnh từ vách đá xuống biển, sau khi bị từ chối tư cách tỵ nạn chính trị vào tháng giêng năm 1991.
- Cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu ngày 30/8/1991, tại trại Galang, Nam Dương, sau khi bị phủ nhận tư cách tỵ nạn chính trị.
- Anh Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không Vận của Nam Việt Nam, đă treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, vào ngày 12/4/1992; sau khi bị khước từ tư cách tỵ nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi để lại vợ và ba đứa bé mồ côi cha c̣n nhỏ dại.
- Anh Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn pḥng của Cao ủy tỵ nạn LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.
- Ông Trần Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế tỵ nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đă bị rớt “thanh lọc” và đơn kháng cáo của Khôi sau đó cũng bị bác.
- Cô Hoàng Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên khỏi Việt Nam. Cha cô là lănh tụ của một chính đảng chống cộng và đă chết trong trại tù gọi là "cải tạo" của cộng sản. Gia đ́nh cô bị bạo quyền trục xuất khỏi nhà ḿnh để đưa tới một trại lao động cưỡng bức. Bản thân cô Cúc cũng bị đuổi khỏi trường v́ “lư lịch gia đ́nh xấu”. Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn bị khước từ quy chế tỵ nạn. Tháng 12/1992, khi đơn kháng cáo của cô bị bác bỏ, cô đă treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thailand.
- Tháng 2/1993, Em Lưu Thị Hồng Hạnh, 16 tuổi, không thân quyến ở trại, đă tự thiêu sau khi Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc rút lại quy chế tỵ nạn của em.
- Anh Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đă tự đâm vào tim và chết tức khắc trước văn pḥng Cao ủy tỵ nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Malaysia. Anh để lại đôi hàng tuyệt mệnh:
“Tôi chết đi không phải v́ tuyệt vọng, mà v́ tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác.”
- Ông Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân Việt Nam, tự thiêu ở trại Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994.
- Ngày 20/5/1994, anh Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự
rạch bụng ḿnh và tự thiêu. Sau đó anh đă chết v́ phỏng nặng.
C̣n nhiều! Và c̣n nhiều lắm!
Để trốn thoát gông cùm của chế độ cộng sản, người dân Việt Nam đă
phải trả cái giá cho Tự Do vô cùng khắc nghiệt!
Thảm cảnh người dân ồ ạt trốn chạy đoàn quân tự xưng là "giải phóng" và can đảm chọn cái chết v́ tự do hơn là phải sống trong chế độ man rợ; tuy không sao kể ra được hết, đă thật sự lột trần tất cả các mặt nạ xảo trá của đảng cộng sản Việt Nam. Đảng và nhà nước cộng sản vô cùng bối rối kinh hoảng trước dư luận thế giới. Phạm Văn Đồng, thời làm thủ tướng chính phủ của cái nhà nước gọi là Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đă quá độ bực tức mà mất khôn ngoan, xấc xược lấp liếm tuyên bố với truyền thông thế giới rằng:
“những người vượt biên, vượt biển là bọn chạy trốn tổ quốc, là bọn đĩ điếm, trộm cướp”
Đồng và cái đảng khốn nạn ấy muốn nói ǵ th́ nói, nhưng rơ ràng là đảng và nhà nước cộng sản đă không thể giấu diếm che đậy được nỗi sợ hăi tột cùng trước hành tŕnh t́m đến Tự Do của dân chúng trong nước!
Chính v́ quá sợ hăi mà họ sinh ra điên cuồng, áp lực chính quyền địa phương đập phá các bia tưởng niệm thuyền nhân ở trại tỵ nạn Galang và Bidong, cho dù lời khắc ghi Tự Do trên mặt bia chỉ là:
"Tưởng nhớ hàng trăm ngàn người Việt Nam đă thiệt mạng trên đường t́m tự do (1975-1996). Dù họ đă chết v́ đói, khát, bị hăm hiếp, bị kiệt sức hoặc v́ một nguyên nhân nào khác, chúng ta cầu xin rằng họ bây giờ được hưởng yên b́nh vĩnh cửu. Sự hy sinh của họ không bao giờ bị quên lăng. Các cộng đồng người Việt hải ngoại, 2005."
Th́ ra, chế độ cộng sản tuy man rợ nhưng lại rất sợ hăi những khắc ghi trên bia tưởng niệm Thuyền Nhân sẽ không bao giờ bị quên lăng!
Và thật vậy, sự hy sinh của hàng trăm ngàn người Việt Nam thiệt mạng trên đường t́m tự do đă và sẽ không bao giờ bị quên lăng!
Thật ra, cũng chẳng có ǵ phải ngạc nhiên cho lắm, khi bên dưới lớp mặt nạ sơn đỏ phết vàng gian manh, chế độ cộng sản vẫn muôn đời thù ghét và sợ hăi hai chữ Tự Do!
Thế nhưng "loài quỷ dữ" ấy không thể nào đập phá được tất cả những chữ tự do đă khắc ghi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Lịch sử đă được viết bởi triệu người kiên cường tranh đấu và can đảm hy sinh v́ hai chữ Tự Do.
Little Saigon là tên gọi thương yêu được đặt cho những khu phố người Việt và c̣n là biểu tượng cho Tự Do của cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn cộng sản trên khắp thế giới, nơi lá cờ vàng Tự Do vẫn được Hội Đồng Thành Phố, chính quyền địa phương, cùng vinh danh và oai dũng vươn cao trên đất tạm dung.
Riêng ở Canada, Little Saigon Vancouver đă được chánh thức Khánh Thành vào ngày 12 tháng Năm, năm 2013, tại thành phố Vancouver.
Đây! Little Saigon đầu tiên trên đất nước Canada!
Chẳng những thế, Hành tŕnh t́m đến tự do của hơn tám trăm ngàn người Việt Nam đă không bị quên lăng, đă vinh dự được chính phủ Canada khắc ghi vào lịch sử với Đạo Luật S-219: "Journey To Freedom Day Act".
Đạo luật S-219 của Canada đă khắc ghi nhận ngày 30 tháng 4 hằng năm là một ngày lễ của Canada để tưởng niệm những nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam đă vượt biên ra đi t́m tự do.
Không thể dùng những thủ đoạn lưu manh côn đồ như
đă từng đập phá bia tưởng niệm thuyền nhân ở Galang và Bidong, bạo
quyền cộng sản đă phải vô cùng phẫn nộ tuyên cáo chống đối và “Người
phát ngôn” Bộ Ngoại giao cộng sản Việt Nam, tên Lê Hải B́nh, c̣n gay
gắt tiết lộ thêm rằng: “vào ngày 24/04/2015, Bộ Ngoại giao đă triệu
Đại sứ Canada tại Việt Nam đển phản đối và nêu rơ quan điểm của Việt
Nam về vấn đề này”.
Không cay cú bực tức sao được!
S-219 "Journey To Freedom Day Act" là một đạo luật cấp quốc gia, có tính cưỡng hành của luật pháp, chớ không phải một quyết nghị (resolution) hay tuyên ngôn (proclamation) chỉ có giá trị như là một khuyến nghị mà thôi. Và đây là một văn kiện pháp luật cao nhứt, do một cường quốc như Canada lần đầu tiên thực hiện và công bố. Bởi thế cho nên, đảng và Nhà nước cộng sản phải chống đối quyết liệt. Ngay khi luật này c̣n là dự luật, Thủ tướng của Việt Nam cộng sản, tên Nguyễn Tấn Dũng, cũng đă viết văn thư trực tiếp cho Thủ tướng Canada Stephen Harper để bày tỏ bất b́nh.
Hành tŕnh t́m Tự Do của người Việt Nam chưa bao giờ dừng lại, và sẽ không bao giờ dừng lại khi bạo quyền Việt Nam c̣n gông cùm dân tộc bằng chế độ cộng sản man rợ, bất nhân.
Hành động rất là hèn hạ phá hủy di tích của hành tŕnh t́m Tự Do và Thuyền Nhân Việt Nam đă không mang lại kết quả mong muốn cho một chính thể độc tài. Nhiều tượng đài, bia đá tưởng niệm Thuyền Nhân Việt Nam và Hành Tŕnh T́m Tự Do khác đă và đang tiếp tục được dựng lên trên khắp thế giới để tưởng nhớ nạn nhân của chế độ bạo tàn Cộng Sản. Trong đó, có Tượng Đài Thuyền Nhân của Little Saigon Vancouver, được đặt tại McAuley Park vào năm 2017.
Đây, thêm một biểu tượng của Tự Do đă được khắc ghi trên thành phố Vancouver, Canada!
Và nơi đây, thêm một lần nữa, Cộng Đồng người
Việt Nam tỵ nạn cộng sản trên thế giới đă trang trọng ghi khắc chữ
Tự Do trên đất nước định cư!
Sau hơn 40 năm rần rộ cờ xí ăn mừng cái gọi là "đại thắng mùa xuân
30-4" và nguyền rủa nặng lời đồng bào trốn chạy chế độ cộng sản bạo
tàn; tội bán nước hại dân của đảng cộng sản đă bị phơi bày trước dân
tộc Việt Nam và cộng đồng các quốc gia tự do trên thế giới. Đảng và
nhà nước cộng sản càng ngày càng hốt hoảng trước hành tŕnh t́m đến
tự do của người dân trong và ngoài nước.
Freedom is not free!
Cho dù phải trả cái giá khắc nghiệt cho hai chữ Tự Do, hành tŕnh
t́m Tự Do của người Việt Nam chưa bao giờ dừng lại, và sẽ không bao
giờ dừng lại; khi bạo quyền Việt Nam c̣n gông cùm dân tộc bằng chế
độ cộng sản man rợ.
“Cộng sản không thể thay
đổi, tự sửa chữa được, mà phải thay thế, loại bỏ chúng”
(Cựu Tổng Thống Nga Boris Yeltsin)
BK Bùi Đức Tính 323
Bài vở cũ 2016
Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tears of pride
We remember
Con chim biển
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Điệu Boléro thăng tiến nhờ các anh lính VNCH
Món quà Giáng Sinh
A special Christmas memory
Cũng chưa muộn màng
Qui Nhơn, B́nh Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư
Hành trang trên tuyền đường về
Điều ǵ khiến Đan Mạch trở thành quốc gia
hạnh phúc..
Định mệnh
Chín...
chín... chín... nhưng chưa rục
Ái hữu & hậu duệ Khóa 5 V́ Dân TĐ họp mặt
Đoạn trường
Tuyết Nga....
Nỗi uất hận của vị Tướng mất nước
Ta về
Nấm
ngọc hương thiền
Giấc mơ
Đại Dương (Ocean Dream)
Hẻm lính
Cho ngàn sau lơ lửng với ngàn xưa
Mây vẫn c̣n bay
Buồn vui quân trường
Trần Hoài Thư & Thủ Đức gọi ta về
Ngày tháng buồn hiu
Những mùa Trung Thu
Để
lâu, c… trâu hóa bùn
Người Pleiku năm cũ
Mối bận
tâm xă hội
Quê hương của tôi
Đằng trước và đằng sau
Mấy
mánh lừa mới tại Quận Cam
Hồi kư
của Vương Mộng Long
Làng Việt
kiều
Viết cho
ngày lên tám… mươi
Tôi người Mỹ, vợ tôi người Việt
Trả nợ ân
t́nh
Đói
Đà Lạt sương mù: Năm tháng ngao du
Người cao
tuổi
Chuyện tù của Phó Tổng Thanh Tra NHQG VNCH
Những
bàn tay đă nắm
Cái lon
Guigoz
Thằng khùng
Một nụ cười
Hai cô thôn
nữ
Chiến
thắng Xuân Lộc: QLVNCH vẫn ngạo nghễ
dù bị bức tử
Con cọn
nợ ba
Truyện
ngắn Ư Nga
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Phải
chăng là định mệnh
Con
gái Hà Nội ở đâu?
Trai Petrus Kư,
Gái Gia Long & Trai Chu Văn An, Gái Trưng Vương
Đoản văn của một người tử trận
Người Việt
gốc Mỹ
Trời buồn
tháng hạ
Dân chơi cầu 4 cẳng
Đất nước vĩ đại và lạ lùng !
Câu chuyện người lính VNCH
Chàng... Donald Trump
Trần Hoài Thư, người ngồi vá lại những linh
hồn
Người đàn bà trên cầu Nitelva
Thư số 67c - Gửi người lính QĐND
Nói chơi mà không phải nói giỡn
Mẹ
Chôn súng
Đứa con thất lạc
Tháng Tư
nhớ về các chiến sĩ đă hy sinh oanh liệt
Phúc ấm con
ban !!!
Formosa với nỗi buồn Tháng Tư
Một ngôi sao
quư vừa tắt
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Sau 42
năm mất SaiGon
Nghĩ về
người vợ lính
Chân
dung người vợ lính VNCH
Tôi không
chết đâu
Tháng tư đen, không dễ ǵ quên
Câu
chuyện về đôi đũa
Những
ngày tháng ba
Những
ngày tháng tư
Tâm thư -
Những ngày cuối tháng 4
Nguyễn Đức
Quang, khi bài hát trở về
Hăy ngủ yên Đà
Nẵng của tôi ơi
Ngày 29-3-1975: Đà Nẵng trong cơn hấp hối
Nh́n lại ḿnh sau
42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đờn ca tài tử miền
tây
Nói với người trung
đội trưởng cũ ...
Đồi Delta
Những bước chân vào đời
Bao giờ cho tôi quên
Vài kỷ
niệm về Tết trong tù Hà Nội
Mùa
xuân trên quê hương ngoài kư ức
Xin một đời góa bụa cùng anh
Đón xuân này nhờ
xuân xưa
Nằm đêm nghe
tiếng rao hàng
Như vằng trăng
khuya
Góc tối
Cho nhuẩn nhuyễn ra
Người bạn Khóa 2 Học Viện Cảng Sát Quốc Gia
Chúc
Tết
Đầu năm viết cho con gái
Bên nhau đi nốt cuộc đời