Vơ Đại Tôn
Trải qua 10 "cái gọi là Tết" trong lao tù cộng sản Hà Nội, tôi c̣n
nhớ rơ nhiều kỷ niệm, tất nhiên chỉ có nỗi buồn chứ không thấy bóng
Xuân sang ngay trên quê hương ḿnh. Thời gian đă trôi qua từ lâu
nhưng mỗi lần Tết đến, dù là Tết lưu vong, cũng gợi lại trong ḷng
tôi nhiều ư tưởng xót xa ngậm ngùi về cảnh sống trầm luân của cả Dân
Tộc dưới chế độ cộng sản. Đặc biệt là Tù nhân chính trị - từ hải
ngoại xâm nhập về lại quê hương để mưu đồ kháng chiến Phục Quốc, bị
ghép tội là "đại phản động chống phá cách mạng" - là nạn nhân bị đày
đọa cực h́nh bằng mọi kỷ thuật bạo lực tàn khốc nhất, ít ai hiểu
được hoàn cảnh sống trong đáy ngục trần gian này. Với thời gian bị
giam cầm hơn 10 năm, tôi có nhiều kỷ niệm vẫn c̣n nhớ rơ, nhưng chỉ
ghi lại một vài sự kiện xảy ra trong dịp Tết tù đày, ḥa chung vào
nỗi đau của quê hương hiện nay vẫn c̣n tiếp diễn.
Thèm một chút đường trước khi chết :
- Tôi thường bị biệt giam, nhưng có một thời gian gần 3 năm, từ cuối
năm 1984 đến Tết năm 1987, có một bạn tù chuyển đến sống bên cạnh xà
lim số 7, có khi lại chuyển qua sống chung buồng giam với tôi, xà
lim số 8, Khu D, trại tù B-14 (Thanh Liệt, ngoại ô Hà Nội), khi tù
nhân nhiều quá không c̣n chỗ giam riêng. Ông ta già yếu, khoảng 72
tuổi, người gốc Long Xuyên, miền Nam. Du học tại Pháp thuở c̣n niên
thiếu, đậu bằng Tiến Sĩ Công Pháp Quốc Tế tại Pháp, có vợ đầm, sống
ở Pháp hơn 40 năm. Thời gian đầu, chúng tôi không dám tâm sự ǵ với
nhau v́ c̣n e ngại nhiều điều, nghi ngờ bị "cài ăng-ten". Nhưng dần
dà, sống chung với nhau trong một xà lim chật hẹp, nói chuyện với
nhau thường bằng tiếng Pháp, ban đêm rù ŕ tâm sự, biết rơ quá khứ
của nhau, trở nên thân t́nh. Tên thật ông ta là Tô Cẩm Sơn. Hơn nữa,
mỗi người chúng tôi tự biết ḿnh cận kề cái chết, cho nên cũng chẳng
c̣n lo sợ ǵ nữa, thường kể cho nhau nghe nhiều chuyện về quê hương,
cuộc đời, gia đ́nh, năm tháng lưu vong, đặc biệt về nước Pháp mà cá
nhân tôi cũng có nhiều kỷ niệm. V́ sống cô đơn trong lao tù, cho nên
tôi coi ông ta như người anh cả. Khi đă tin cậy nhau, ông ta mới cho
tôi biết rơ là đă bị bắt giam oan ức tại nhiều trại tù khác nhau từ
nhiều năm qua. Bộ Nội Vụ cộng sản dường như muốn bỏ quên ông ta, và
không cho gia đ́nh tại Pháp biết tin tức ǵ cả, chính phủ Pháp và
ṭa đại sứ Pháp tại Hà Nội cũng không biết tin. Coi như là biệt tăm.
Trong tù, chúng tôi tự coi như là tù "tồn kho" hoặc R.X (rục xương).
Sau 40 năm sống tại Pháp, ông ta xin về thăm Hà Nội vào khoảng tháng
3 năm 1975, trước ngày miền Nam bị mất độ một tháng. Đang đi dạo
chơi ở bờ hồ Hoàn Kiếm (1975), chợt có xe công an đến hốt về giam,
chuyển qua nhiều trại tù, rồi bây giờ (1984) th́ về trại tù Thanh
Liệt. Qua thời gian chung sống với nhau, ông ta cho tôi biết mấy
chục năm trước ông ta có quen với Nguyễn Hữu Thọ ở Toulouse (Pháp),
lúc Thọ c̣n học luật tại đây. Sau này, lúc Thọ về lại Việt Nam, tham
gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và dần dần leo lên chức Phó Chủ
Tịch Hội Đồng Nhà Nước, chủ tịch Quốc Hội CSVN ở Hà Nội. Thọ có hai
người con gái, một người lấy chồng Mỹ, và một người lấy chồng Pháp.
Sự kiện gia đ́nh riêng tư này, Thọ không muốn cho ai biết v́ sợ các
đối thủ phanh phui làm mất tính đảng (chống thực dân Pháp và chống
đế quốc Mỹ mà lại gă con gái cho Pháp và Mỹ !). Lúc ông Tô Cẩm Sơn
về Hà Nội (1975) có đến thăm Nguyễn Hữu Thọ, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ
và một người bà con làm y sĩ riêng cho Lê Duẩn. Sau những buổi gặp
nhau và ăn cơm xă giao với mấy người này, ông ta bị bắt giam mà
không cho biết tội trạng ǵ. Khi chúng tôi gặp nhau trong tù th́ ông
ta đă bị giam tại các nơi khác gần 9 năm rồi, không cho liên lạc với
gia đ́nh và chưa hề bị kết tội ǵ cả. Họ đặt cho ông ta một bí số là
H-74 cũng như trường hợp của tôi là X-1. Ông ta tự suy nghĩ có lẽ
ḿnh là người biết quá nhiều về đời tư của các kẻ đang cầm quyền cho
nên họ đă ra lệnh bắt giam để bịt miệng. Tiến sĩ Công Pháp Quốc Tế
cũng phải chịu thua luật rừng !.
Vào những tháng cuối năm 1987, ông Sơn bị bệnh nặng, thường ho ra
máu, đồng thời ngày nào cũng ra máu tươi lúc đại tiện, đầy gần nửa
bô nhựa. Ông ta đă báo cáo nhiều lần nhưng trại không có đủ thuốc
men để cấp và cũng không cho đi bệnh viện. Vào dịp Tết, bệnh ông ta
ngày càng nặng, tôi bàn với ông ta là sáng hôm sau đừng đổ bô vào
thùng, cứ để đấy, tôi sẽ có cách. Sáng ra, lúc được mở cửa xà lim để
chạy ra lấy cơm và đổ bô vào thùng vệ sinh lớn ngoài cửa, tôi giả vờ
vô ư vấp chân làm đổ cái bô nhựa của ông ta, máu chảy ra đầy đường
đi. Tên cán bộ quản giáo hoảng hốt nhảy tránh và la lên : "Ǵ đấy,
máu đâu lắm thế ?". Tôi thản nhiên nói : - "Báo cáo cán bộ, máu của
ông bạn tù, bệnh nặng lắm". Nhưng cũng chẳng được cấp thuốc men ǵ.
Một đêm gần Tết, ông ta thức tôi dậy và phều phào nói không ra hơi :
- "Người ta chỉ mong cho ḿnh chết. Chú cố gắng sống. Anh chết là
thoát nợ, chẳng biết nợ ǵ đây. Có lẽ là định mệnh. Chú có biết bây
giờ anh thèm cái ǵ nhất không ?" - Tôi đau xót hỏi : - "Anh thèm ǵ
? Ở trong tù này th́ ḿnh thèm đủ thứ mà". - Ông ta im lặng một lúc,
có lẽ để thở rồi nói : - "Anh thèm ngọt quá. Phải chi có một muỗng
đường để ngậm trong miệng trước khi chết th́ sướng quá" !. (*Bản
thân tôi suốt hơn 10 năm trong tù cũng không bao giờ có một muỗng
đường). Tôi chợt thấy cuống họng ḿnh khô nghẹn, rồi nước miếng bỗng
trào ra đầy miệng. Tôi cũng đang thèm đường quá. Cơ thể thiếu chất
ngọt từ lâu rồi, mỗi lần nghĩ đến đường là nước miếng chảy ra. Có
nhiều đêm tôi nằm mơ thấy ḿnh chết, xác trôi nổi bồng bềnh trên một
ḍng sông đầy nước đường ngọt quánh. Nước đường màu vàng óng ả dưới
ánh trăng. Đường phèn, đường phổi, đường thốt nốt, mạch nha, cuồn
cuộn chảy quanh xác tôi. Sáng hôm sau, ông bạn già của tôi bị chuyển
đi khu khác. Tôi nghe nói ở buồng giam A-1 và đă qua đời. Bị tù hơn
12 năm, trên 72 tuổi, Tiến Sĩ Luật Khoa, không có án và khi chết
trong tù, giây phút cuối chỉ mơ ước có được một muỗng đường để ngậm,
nhưng làm sao có được ?!.
Những tiếng cười vang, "được" tù chung thân :
- Vào khoảng cuối tháng 10/1989 cho đến gần Tết, (tôi ở tù gần 9 năm
rồi), có nhiều đêm tôi nghe có nhiều tiếng chân chạy và tiếng mở cửa
sắt buồng giam khắp các khu trại. Tôi nghĩ chắc có nhiều "lính mới"
ở đâu chuyển về. Nhiều ngày sau, người bạn tù "tự giác" (tù h́nh sự
sắp măn án) đi quét dọn vệ sinh, lén cho tôi biết có mấy chục người
bị giải từ Lào về, toàn là kháng chiến quân hải ngoại. Tôi không
biết thuộc tổ chức nào. Dăy khu D có giam mấy người, c̣n phần đông
là giam ở khu A. Mấy ngày sau, lợi dụng đêm khuya lúc vắng bóng cán
bộ an ninh tuần tra, tôi giả vờ tằng hắng và ho, cùng lén huưt sáo
mật mă của tổ chức Phục Quốc anh em chúng tôi nhưng không có tiếng
huưt sáo trả lời. Tôi lại lén hát vài câu bài Quốc Ca Việt Nam Cộng
Ḥa để làm mật hiệu bắt liên lạc xem sao. Có tiếng ai huưt sáo trả
lời, cũng theo điệu nhạc Quốc Ca "Này công dân ơi…". Một thời gian
sau, chẳng biết v́ sao anh em này, cùng khu xà lim của tôi, lại biết
được tin tôi bị giam ở đây, có nhiều tiếng la lên vội vàng giữa đêm
khuya rồi im bặt, v́ sợ cán bộ bắt gặp, liên lụy cho nhau. - "Ông
Thầy ơi, Papa ơi, biết rồi, biết rồi !". Bây giờ nhớ viết lại tổng
quát như vậy, bạn đọc có thễ nghĩ là dễ dàng thông tin, nhưng hoàn
cảnh tù của chúng tôi - từ hải ngoại về bị bắt giam - đôi khi chỉ
một vài chữ, vài tiếng lóng, một câu ngắn, muốn lén tin cho nhau
cũng phải mất mấy đêm khuya lúc không có bọn cán bộ đi tuần tra.
Chúng tôi bị kết tội là "ngụy phản động từ nước ngoài về", chứ không
phải như anh em khác bị giam cầm trong các trại tù gọi là "học tập
cải tạo" sau ngày 30.4.1975, c̣n được chút không khí sống tập thể,
đi lao động, nói chuyện với nhau, được gia đ́nh thăm nuôi tiếp tế,
ngoại trừ những người thuộc "diện nguy hiểm" đă bị biệt giam.
Khoảng gần Tết, suốt ba ngày liên tiếp, lúc mờ sáng và lúc đêm
khuya, tôi nghe có tiếng khóa cửa sắt các buồng giam và nhiều tiếng
cán bộ quản giáo. Mấy hôm sau, tôi hỏi ḍ tên tù "tự giác" và được
biết một số anh em ở khu D và khu A đă bị đưa ra ṭa để kết án phản
động. Một đêm, có lẽ vào khoảng gần sáng, có tiếng gà gáy ở xóm bên
kia tường vọng lại, trại tù vắng lặng, tôi nghe có tiếng gọi nhau và
nhiều tiếng cười vang. - "Ông Thầy ơi, bọn này sắp bị chuyển đi rồi.
Được tù chung thân rồi !". Lại tiếp thêm nhiều tiếng cười vang khác,
rồi im bặt từ đấy.
Tôi không được biết thêm tin ǵ nữa kể từ hôm ấy. Nhưng, những giọng
cười vang ngạo nghễ giữa đêm khuya vắng trong tù, măi cho đến nay,
vẫn thêm hành trang đấu tranh cho tôi mỗi khi tôi cảm thấy cô đơn
giữa chợ đời. Anh em đă tận hiến cuộc đời Phục Quốc và đă "được" tù
chung thân rồi. Ḷng tôi vừa hănh diện vừa xót xa, có lẽ chỉ có
những người cùng chung cảnh ngộ mới cảm thông được nỗi niềm này.
Câm mẹ cái mồm lại, ngụy quân ngụy quyền ! :
- Năm đầu tiên bị giam tại trại tù Thanh Liệt - (1981), sau khi bị
chuyển từ Paksé (Lào) về Hà Nội, thỉnh thoảng vào buổi chiều tôi
nh́n qua khung cửa gió xà lim thấy có một bé gái thơ thẩn qua lại,
chơi một ḿnh. Trông bé thật dễ thương, có lẽ khoảng 4-5 tuổi, tôi
đoán là con của cán bộ quản giáo nào đó trong trại tù. Tôi nh́n bé
mà nhớ thương con tôi ở Úc, lúc tôi từ giă gia đ́nh lên đường kháng
chiến Phục Quốc th́ cháu mới có 2 tuổi. Ḷng tôi nao nao xúc động,
biết bao giờ gặp lại gia đ́nh ?. Có một hôm, cháu gái đến cạnh cửa
buồng giam của tôi, nh́n tôi mỉm cười. Tôi vẫy tay chào cháu với tất
cả ḷng thương. Đột nhiên cháu hỏi : - "Ông có biết làm con cá bằng
giấy không ?" - Tôi nghĩ là cháu muốn nói xếp giấy, nên trả lời có.
Cháu lại mỉm cười rồi bỏ chạy đi. Một lúc sau, có một cán bộ đến mở
cửa buồng giam, đưa cho tôi mấy tờ giấy báo, bảo tôi xếp giấy đồ
chơi cho trẻ em, rồi ngồi đợi, không nói thêm ǵ nữa. Tôi xếp vội
h́nh một con cá, một chiếc máy bay và một chiếc tàu thủy, lại nghĩ
đến con tôi. Xong rồi, anh ta lấy đi, không nói một lời. Mấy hôm
sau, tôi lại thấy cháu gái chạy chơi, trên tay cầm chiếc máy bay
bằng giấy, tôi nh́n theo, xúc động. Từ đó, tôi không c̣n thấy cháu
nữa. Khoảng 5 năm sau, tôi lại thấy cháu đi học về, lớn lắm rồi, có
lẽ đă lên 10 tuổi. Tôi mừng quá, gọi cháu : - "Bé ơi, lâu lắm không
gặp, lớn quá rồi !". Cháu đứng lại, nh́n tôi, rồi bỏ đi không nói ǵ
cả. Tôi ngậm ngùi nh́n theo. Rồi từ đấy lại không c̣n thấy cháu nữa.
Đến Tết năm 1990, tôi ở tù gần 10 năm, một buổi chiều tôi lại vui
mừng thấy một cô gái khoảng 15 tuổi đi qua buồng giam của tôi. Đấy
là bé gái tôi gặp lần đầu lúc khoảng 5 tuổi, nhờ tôi xếp giấy con
cá, bây giờ đă thành một thiếu nữ nhưng tôi vẫn nhận ra. Tôi mừng
quá, quên mất kỷ luật trại tù, la to lên : - "Bé ơi, c̣n nhớ ông
không ?" - Cô gái quay nh́n tôi rồi thản nhiên bước đến gần cửa gió
buồng giam, trừng mắt nh́n tôi, nghiêm mặt nói : - "Ai là bé của anh
? Câm mẹ cái mồm lại, đồ ngụy quân ngụy quyền" - rồi bỏ đi. Tôi sửng
sờ trước sự phủ phàng đó. Suốt đêm tôi thao thức, lại nghĩ đến thân
phận tù đày, nghĩ đến chính sách giáo dục nhồi sọ của một chế độ
chuyên dùng bạo lực và sự gian dối để cai trị con người. Từ một bé
gái 5 tuổi ngây thơ mỉm cười gọi tôi bằng "ông" và nhờ xếp giấy làm
con cá để chơi, đến 10 tuổi th́ im lặng không nói với tôi một lời,
lúc lên 15 tuổi th́ gọi tôi là "anh" và mắng tôi là "ngụy quân ngụy
quyền, câm mồm lại". Có lẽ cô gái này, cũng như toàn thế hệ trẻ dưới
chế độ cộng sản, "đoàn thiếu nhi khăn quàng đỏ hồ chí minh", cũng
không hiểu nghĩa "ngụy quân ngụy quyền" là ǵ, chỉ biết lặp lại như
máy. Tôi nhớ lại bản trường ca tôi đă sáng tác, có những câu khi nằm
thầm đọc lại trong xà lim tăm tối cô đơn mà ḷng xót đau, nghĩ đến
tương lai đen tối của cả Dân Tộc :
Tôi sẽ về
Để cho em trái tim không bằng thép
Mà bằng máu Con Người.
Trái tim em sẽ biết nở nụ cười tươi
V́ không nung bằng ḷ sản xuất.
Tôi sẽ đưa em ra khỏi công trường u uất
Cho em làm Người, biết quư thịt xương,
Biết cười vui, biết cả T́nh Thương
Để em không c̣n làm Máy !!! …
…..
Ta biết t́nh Em :
- Sống trong đáy ngục trần gian với những trận đ̣n thù tra tấn, tù
không có án, bặt tin vợ con, anh em, bạn bè, khung trời quê hương
chỉ là bốn vách tường giam, mỗi ngày đêm tôi thường "thấy" qua những
giấc mơ h́nh bóng gia đ́nh thương yêu. H́nh bóng chập chờn qua những
ḍng máu đen ngập ch́m tâm hồn cô đơn. Dù cận kề cái chết, tôi vẫn
cố tồn tại. Tự ôn ngoại ngữ, thuyết tŕnh, viết hồi kư, làm thơ… qua
trí nhớ v́ không có giấy bút. Tôi tự luyện cho ḿnh một kỷ luật sắt
bản thân để thực hiện chương tŕnh hoạt động trí óc mỗi ngày đêm để
không đầu hàng, bỏ cuộc, trước mọi hoàn cảnh cay nghiệt nhất của một
đời người. Gần đến Tết năm 1990 (tôi ở tù gần 10 năm rồi), một hôm
có anh bạn tù trẻ được chuyển đến, gọi là sống tạm chung với tôi.
Thông thường vào các dịp Tết, trại tù không đủ chỗ nhốt, phải cho
sống chung mỗi buồng giam vài người, tạm thời vài tuần lễ. Đây là
loại tù h́nh sự, án nhẹ vài năm về tội trộm cắp, buôn lậu, giang hồ.
Anh bạn tù này c̣n trẻ, người Hải Pḥng, nhà nghèo, can tội trộm xe
gắn máy, bị kết án 3 năm, đă ở tù được hơn 2 năm rồi, sắp măn án. Có
vợ và một con trai nhỏ. Biết tôi là người miền Nam, ở "nước ngoài"
về, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ hỏi thăm về chuyện chính trị, và
về các hoạt động của tôi. Chỉ hỏi chuyện về đời sống tại miền Nam và
ngoại quốc, và thường gọi tôi là "Bố". Đặc biệt, anh ta rất thích
đọc thơ, ban đêm thường đọc cho tôi nghe nhiều bài thơ rất cảm động
về cảnh sống ngoài đời, không biết tác giả là ai. Một đêm, anh ta
nằm khóc, nói là nhớ vợ con vào dịp Tết, và hỏi tôi có biết làm thơ
không ? Tôi cười và hỏi thêm về chuyện gia đ́nh của anh ta. Sau vài
tuần lễ chung sống, nhận thấy anh ta rất dễ thương và có vẻ kính
trọng tôi, nói chuyện tâm t́nh rất lễ phép, khác lạ với những tên tù
du đảng khác. Tôi nghĩ ngay trong đầu tựa đề một bài thơ, và từ hôm
đó, mỗi đêm tôi làm được vài đoạn, nằm đọc cho anh ta nghe để học
thuộc ḷng. Tôi cũng muốn mượn tâm sự này để gửi về cho vợ con tôi
qua không gian nỗi ḷng của riêng ḿnh từ lao tù. Tôi làm được đoạn
nào là anh ta nằm học thuộc ḷng, đọc đi đọc lại không sót một chữ
một câu nào. Tôi cảm thấy vừa ngậm ngùi vừa vui trong hoàn cảnh đặc
biệt này và thấy anh ta chăm chú học thơ như một đứa học tṛ ngoan.
Bài thơ làm xong, anh ta nằm ngâm nga suốt đêm và hết ḷng cám ơn
tôi. Vài tuần lễ sau th́ anh ta được chuyển ra ngoài để làm lao động
"tự giác", chờ ngày măn án tù. Tôi không c̣n gặp lại nữa. Tôi c̣n
nhớ rơ bài thơ này, xin ghi lại vào dịp Tết.
Ta Biết T́nh Em
Ta biết ḷng em cũng xốn xang
Khi nh́n thiên hạ đón Xuân sang
Khi nghe pháo nổ bên hàng xóm
Và thấy hoa mai nở sắc vàng.
Ta biết sầu đau đẫm mắt em
Chờ con thơ ngủ, khóc từng đêm.
Thương ta trong cảnh đời lao lư
Em khóc cho vơi bớt nỗi niềm.
Không tiền mua áo Tết cho con
Chiếc áo ngày xưa, cưới vẫn c̣n,
Em đành cắt áo cho con mặc,
Từng mũi kim khâu, nát cả hồn.
Ta đi, nhà vắng lại nghèo thêm
Nắng mưa tần tảo một ḿnh em.
Bàn tay lao động ngày hai buổi
Ai đón em về trong bóng đêm ?
Giờ đây Xuân đến giữa mùa Đông
Ta biết em đau cả cơi ḷng.
Em gượng cười vui qua nước mắt
Và gắng nuôi con, cố đợi chồng.
Nh́n gói quà Xuân em gửi ta
Ta biết t́nh em vẫn thiết tha.
Ḷng ta chua xót tràn thương nhớ
Lặng lẽ trong đêm mắt lệ nḥa.
Quà em : lao động thấm mồ hôi
Nâng niu từng hạt muối vừng xôi.
Một đời chung thủy trong bao nhỏ
Một trái tim yêu vẫn rạng ngời.
Giao Thừa đang đến, pháo nổ vang
Trời khuya bừng động, rộn không gian.
Ngậm ngùi ta đứng bên song sắt,
Tường cao cũng chắn lối Xuân sang.
Ta biết ḷng em cũng tái tê
Con hỏi : Cha đâu chẳng thấy về ?
Thôi em, nín khóc, lau ḍng lệ,
Em hăy v́ ta, giấu năo nề.
Ngày mai sum họp cảnh đoàn viên
Ta về, nối lại mối tơ duyên.
Cùng em, ta đón mùa Xuân mới
Cho thỏa t́nh xưa, vẹn ước nguyền.
Ta sẽ lùa tay qua tóc mây
Thương em, hôn nhẹ cánh vai gầy.
Ta gửi t́nh ta qua ánh mắt
Dù không men rượu cũng ḷng say.
Xin em gắng đợi một ngày mai
Ta về - vui sống với tương lai.
T́nh ta thắm lại hai lần cưới
Pháo nổ mừng Xuân, đón mộng dài !
Suốt thời gian dài sống trong lao tù Hà Nội, tôi c̣n nhiều "kỷ niệm"
chẳng bao giờ quên. Trên đây chỉ là một vài chuyện tượng trưng vào
dịp Tết. Với tâm nguyện hiến dâng của mỗi người, xin được đồng hành
cùng Dân Tộc, nhất định chúng ta sẽ mừng đón Mùa Xuân Đống Đa trên
quê hương một ngày gần đây. Xin kính chúc Quư Độc Giả b́nh an.
Vơ Đại Tôn
Tết Đinh Dậu 2017
Hải Ngoại.
Bài vở cũ 2016
Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tears of pride
We remember
Con chim biển
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Điệu Boléro thăng tiến nhờ các anh lính VNCH
Món quà Giáng Sinh
A special Christmas memory
Cũng chưa muộn màng
Qui Nhơn, B́nh Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư
Hành trang trên tuyền đường về
Điều ǵ khiến Đan Mạch trở thành quốc gia
hạnh phúc..
Định mệnh
Chín...
chín... chín... nhưng chưa rục
Ái hữu & hậu duệ Khóa 5 V́ Dân TĐ họp mặt
Đoạn trường
Tuyết Nga....
Nỗi uất hận của vị Tướng mất nước
Ta về
Nấm
ngọc hương thiền
Giấc mơ
Đại Dương (Ocean Dream)
Hẻm lính
Cho ngàn sau lơ lửng với ngàn xưa
Mây vẫn c̣n bay
Buồn vui quân trường
Trần Hoài Thư & Thủ Đức gọi ta về
Ngày tháng buồn hiu
Những mùa Trung Thu
Để
lâu, c… trâu hóa bùn
Người Pleiku năm cũ
Mối bận
tâm xă hội
Quê hương của tôi
Đằng trước và đằng sau
Mấy
mánh lừa mới tại Quận Cam
Hồi kư
của Vương Mộng Long
Làng Việt
kiều
Viết cho
ngày lên tám… mươi
Tôi người Mỹ, vợ tôi người Việt
Trả nợ ân
t́nh
Đói
Đà Lạt sương mù: Năm tháng ngao du
Người cao
tuổi
Chuyện tù của Phó Tổng Thanh Tra NHQG VNCH
Những
bàn tay đă nắm
Cái lon
Guigoz
Thằng khùng
Một nụ cười
Hai cô thôn
nữ
Chiến
thắng Xuân Lộc: QLVNCH vẫn ngạo nghễ
dù bị bức tử
Con cọn
nợ ba
Truyện
ngắn Ư Nga
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Phải
chăng là định mệnh
Con
gái Hà Nội ở đâu?
Trai Petrus Kư,
Gái Gia Long & Trai Chu Văn An, Gái Trưng Vương
Đoản văn của một người tử trận
Người Việt
gốc Mỹ
Trời buồn
tháng hạ
Dân chơi cầu 4 cẳng
Đất nước vĩ đại và lạ lùng !
Câu chuyện người lính VNCH
Chàng... Donald Trump
Trần Hoài Thư, người ngồi vá lại những linh
hồn
Người đàn bà trên cầu Nitelva
Thư số 67c - Gửi người lính QĐND
Nói chơi mà không phải nói giỡn
Mẹ
Chôn súng
Đứa con thất lạc
Tháng Tư
nhớ về các chiến sĩ đă hy sinh oanh liệt
Phúc ấm con
ban !!!
Formosa với nỗi buồn Tháng Tư
Một ngôi sao
quư vừa tắt
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Sau 42
năm mất SaiGon
Nghĩ về
người vợ lính
Chân
dung người vợ lính VNCH
Tôi không
chết đâu
Tháng tư đen, không dễ ǵ quên
Câu
chuyện về đôi đũa
Những
ngày tháng ba
Những
ngày tháng tư
Tâm thư -
Những ngày cuối tháng 4
Nguyễn Đức
Quang, khi bài hát trở về
Hăy ngủ yên Đà
Nẵng của tôi ơi
Ngày 29-3-1975: Đà Nẵng trong cơn hấp hối
Nh́n lại ḿnh sau
42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đờn ca tài tử miền
tây
Nói với người trung
đội trưởng cũ ...
Đồi Delta
Những bước chân vào đời
Bao giờ cho tôi quên
Vài kỷ
niệm về Tết trong tù Hà Nội
Mùa
xuân trên quê hương ngoài kư ức
Xin một đời góa bụa cùng anh
Đón xuân này nhờ
xuân xưa
Nằm đêm nghe
tiếng rao hàng
Như vằng trăng
khuya
Góc tối
Cho nhuẩn nhuyễn ra
Người bạn Khóa 2 Học Viện Cảng Sát Quốc Gia
Chúc
Tết
Đầu năm viết cho con gái
Bên nhau đi nốt cuộc đời