Qui Nhơn, B́nh Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư

Nguyễn Mạnh An Dân (Danlambao)

Sinh ở Đà Lạt, chạy loạn về Nha Trang, học ở Cô Nhi Viện Ḥn Chồng, 11 tuổi về Thừa Thiên, đi học ở Huế, ở Sài G̣n, đi dạy ở Tam Kỳ, đi lính ở Thủ Đức, đi trận ở B́nh Định. “Lư lịch” trông có vẻ giang hồ lăng tử; tuy nhiên thời chinh chiến của thế hệ thanh niên ra đời trên dưới thập niên 1940, an b́nh suôn sẻ mới là lạ, giang hồ lăng tử là nghề của chàng, có bất thường chăng là lính tráng cái ǵ, lại là lính thám kích sinh tử, với một chàng trai cân nặng không quá 40 kư lô lại kè kè đôi kính cận dày gần 8 độ. Chuyện có vẻ như đùa mà có thật, người có vẻ như hư cấu mà có máu có tim, biết cười biết khóc. Tên người lính trận lăng tử đó là Trần Hoài Thư.

Có thể có nhiều ông lớn thắt cà vạt, ngồi xa lông, có thể có nhiều chàng trai bận đồ trắng thể thao xách vợt tennis kiểu công tử thành phố sẽ cau mày khó chịu hay cười khẩy chế nhạo khi nh́n thấy một người lính râu tóc xồm xoàm, ao quần hành quân lấm lem bê bết, lầm ĺ ngồi ở cà phê Dung, la cà lui tới nhưng căn pḥng “khả nghi” nơi pḥng ngủ Thuận An, Chí Thành hay mặt mày đỏ gay cười nói bạt mạng ở câu lạc bộ Gió Khơi, ở quán Hạ Trắng, Lệ Đá. Có một chút phá phách ngang tàn, có một chút ngạo đời khinh bạc, có một chút ba gai, có một chút - cũng có thể có rất nhiều - u uẩn. Xin lỗi quí vị, xin hăy tự hỏi lại chính ḿnh và đừng vội phê phán. Người lính đáng trách hay đáng yêu trong những giây phút bốc đồng ngắn ngủi giữa những lần hiếm hoi về phố sau những tháng ngày gối đá nằm sương, vào sinh ra tử. Người lính yêu đời, yêu người; người lính cũng hận đời, hận người và ṣng phẳng sống thật với ḷng ḿnh, không làm dáng đóng tṛ, không tô son vẽ phấn, chuyện tự nhiên nhưng hiểu theo một cách nào đó cũng có thể là một chuyện dài, chuyện lớn tôi không định nói và có lẽ cũng không đủ chữ nghĩa để nói về những người lính hào hùng nhưng bất hạnh, anh dũng mà oan khiên của chúng ta. Bài viết nhỏ này đơn giản chỉ là những lan man bất chợt khi t́nh cờ đọc lại tập thơ với lời đề tặng “những trang thơ đầy ngập B́nh Định của tôi” của Trần Hoài Thư, coi như một lời cảm ơn muộn màng của một người B́nh Định dành cho một người lính không sinh ra ở đây nhưng đă từng sẵn sàng dùng máu của ḿnh để bảo vệ vùng đất khổ dân nghèo này.

Máu, đúng - máu người, màu đỏ, vị mặn. Máu của người lính Trần Hoài Thư đă đổ ra ngay những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm Tết Mậu Thân tại cây xăng Ông Tề, khu Năm, cửa ngơ của thành phố khi cùng đơn vị “xuống núi” từ một doanh trại nghèo của Đại Đội 405 thám kích trên đồi Tháp Bánh Ít, băng đêm về giải cứu Qui Nhơn:

…Tôi bỏ em về miền duyên hải
Ngày đầu năm lửa cháy Qui Nhơn
Bộ đồ vàng trung đội ngụy trang
Gian khổ lắm chiếm từng con phố
Nhớ thằng truyền tin ḅ qua con lộ
Cơng tôi về băng bó vết thương
Nhớ vô cùng cô gái không quen
Quên cả sợ, mang giùm tôi ly nước
Tôi đă uống vào cơn đau khát
Cả t́nh yêu chan chứa Qui Nhơn


(Sợi tóc nhớ nhung)

T́nh yêu Trần Hoài Thư dành cho B́nh Định không chỉ là Qui Nhơn, nơi có những mái tóc dài ở trường Sư phạm, nơi có những cô hàng cà phê môi mắt biết cười, nơi có ngôi nhà ở khu Sáu rộn ràng bằng hữu, người lính Trần Hoài Thư trải đời ḿnh trên từng tấc đất quê hương:

Bồng Sơn mùa nước dâng sông Lại
Ngày sủng loan trên những mảnh dừa
Mặt trận đổ theo b́a Đệ Đức
Nghe cận kề lửa hướng Tam Quan

Bồng Sơn mây ám toàn tin dữ
Chiều chưa buông, quận đóng năm giờ
Giặc chiếm cận sơn người chạy loạn
C̣n bên cầu, trơ trọi cây đa



Cây đa. Ngàn rễ đâm ḷng đất
Như tấm ḷng người với Bồng Sơn
Đa bám làng, tôi đi bám đất.
Đất với làng, thương quá quê hương.

(Cây đa bên cầu)


Thương quá quê hương. Mùa hè đỏ lửa 72, Bồng Sơn, mặt trận bắc B́nh Định, rất nhiều người đă đến đây và đă “bám đất”, đă nằm lại nơi này, chỗ bờ bắc gịng sông Lại Giang, nơi có cây đa trong “Đêm Trăng” yên b́nh của Vơ Phiến đă là một băi chiến trường, là nơi mà một người lính, về sau thành một trong những “bức chân dung trên công viên buồn” ở công trường Quách Thị Trang: Hoàng Lê Cương đă nằm xuống để tạ t́nh với Bồng Sơn, để trả cái giá danh dự của một người lính đúng nghĩa cho tổ quốc. Trần Hoài Thư cũng đă đến đây, đă quặn ḷng nh́n những hàng dừa cụt ngọn, đă tê tái khi thấy những cô em hốt hoảng ĺa xa trường lớp hối hả tản cư, đă đứt ruột nh́n giọt lệ buồn trên mắt người mẹ thời chiến

Hôm qua tôi dừng chợ Bồng Sơn
Mẹ thằng bạn ôm tôi mà khóc
Tôi nói làm sao qua ḍng nước mắt
Thị trấn này vừa mất thằng con

Tôi quá buồn ra đứng bờ sông
Sông Lại Giang ráng chiều đỏ sậm
Nhớ nó ngă nhào trên bờ đá xám
Thấy cả ngọn đồi những xác Bắc Nam…


Bồng Sơn buồn, cả đất nước buồn, ai có trái tim cũng buồn nhưng với người lính th́ dường như không phải đôi lúc mà là thường xuyên phải dằn ḷng lại, phải cố dấu đi những nỗi buồn riêng v́ những tiếng gọi chung. Tiếng gọi có thể không lớn lao, lộng ngữ kiểu v́ nước v́ dân ǵ hết mà tiếng gọi chỉ đơn giản từ ánh mắt trông chờ của những bác dân quê, từ giọng reo vui của một bầy em nhỏ, từ ánh nh́n trao gởi không lời của một bóng hồng thôn dă, từ những gắn bó sống c̣n với những thằng em nhỏ nhoi, tội nghiệp trong cùng đơn vị. Người lính phải đi tới, giá nào cũng phải đi tới cho dẫu mỗi lần đi có thể là lần cuối cùng.

Xe đổ đoàn quân ngoài chợ Huyện
Hàng ngang quân lội ruộng băng đồng
Tuy Phước, Tuy Phước, đêm tiếp viện
Ta đă về, về lại quê em
Ta đă về, lửa đạn, xẹt ngang
Cây rào cản, vấp đau bầm ống quyển
Đại bàng ơi, xin đừng kêu pháo yểm
Tôi có người yêu, cô giáo trường làng



(Đêm tiếp cứu quận Tuy Phước)


Kỳ Sơn đồi trọc chim không đậu
Đại đội đi, một nửa không về
Lớp lớp người nhào lên, ngă gục
Đạn sủi bờ sủi đá, u mê

Kỳ Sơn cao độ hai trăm thước
Đêm hoảng kinh, đỏ huyết vần trăng
….

Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn
Người chưa về tóc mẹ bạc như sương
Ngày sau ai nhớ cho ḍng lệ
Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn

(Kỳ Sơn)


“Đại đội đi một nửa không về”… Sợ không? - Sợ. Ớn không? - Ớn lắm. Đừng nói dóc, đừng làm anh hùng rơm. Người lính Trần Hoài Thư đă sống rất thật, rất người, biết sợ và cũng biết vượt qua nỗi sợ hăi v́ những ǵ to tát hơn, ư nghĩa hơn:

Th́ ta ra trận, ta ra trận
Trăm lần th́ cũng chuyện rong chơi
Vẫn chuyến bốc quân vào buổi sớm
Vẫn chuyến trở về không buồn vui.



Thằng Mỹ lái tàu chơi mất dạy
Hai càng chưa hạ đă bay cao
Ta nh́n xuống thấp, run không nhảy
Mày đạp ông, ông phải té nhào.



Lính cũ chỉ đường ta đánh trận
Quân ḅ, ta lại chạy khơi khơi
Phen này c̣n sống về thăm phố
Ghé lại em nuôi. Thưởng cuộc đời

(Nhảy trực thăng ở Phước Lư)

Như vậy đó, người lính ốm, cận thị Trần Hoài Thư “Ráng giữ ống chân cho khỏi găy. Ráng ôm khẩu súng như t́nh nhân. Cầu cho cặp kính dày không vỡ. Nhớ cột dây thun cho chắc ăn” để làm “ông Thầy” cùng “em út” trong Trung đội - chức vụ nhỏ nhất, trách nhiệm nặng nề nhất và cũng dễ chết nhất trong một đơn vị bộ binh tác chiến- lao tới:

Băng đồng, băng đồng, đêm hành quân
Người đi ngoi ngóp, nước mênh mông
Về đây B́nh Định ma thiên lănh,
Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn

….

Mưa lạnh thèm tu hơi rượu đế
Để quên tim nhảy nhịp lo âu
Giơ tay vuốt mặt lau tṛng kính
Giờ G, giờ G sao quá lâu.

….

Trung đội ta những thằng giữ đất
Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly
Ra Tam Quan qua rừng An Lăo
Từ Kỳ Sơn, Phước Lư, An Khê

Đồng đội ta những người đă chết
Những Vọng, Nga, Nai, B́nh Ḷ Heo
Những Chấn, Hảo, Sơn, Tài Xóc Dĩa
Đàn diều hâu thảm thiết khóc ̣a

(Trung Đội).


Người lính miền Nam oằn vai v́ nhiệm vu, ứa lệ cho đồng đội, ứa lệ v́ đồng bào, v́ mẹ già, v́ em thơ, ứa lệ cho thận phận bi uất của chính ḿnh nhưng sẵn sàng chia xẻ với tổ quốc những tai ương, chung chịu với với quê hương mọi bất hạnh với một cơi ḷng tràn ngập hào khí, một trái tim vượt thoáng, chất ngất thương yêu, không thù hận:

Ta trở về giáp mặt chiến tranh
Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm đỏ
Thau rượu đế mừng ta thằng lính sữa
Dzô ông thầy! hữu sự có thằng em

….

Ta lính miền Nam hề, gốc nho phong
Không chiến tranh cũng thành đốc tờ đốc tiếc
Thời thế đẩy đưa ta thành lính chiến
Mang nỗi buồn như rừng lá khai quang.

….

Ta lính miền Nam hề, vận nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng mạt kiếp
Ta trèo lên hỏi cây rừng có biết
Có một nơi nào hơn ở Việt nam
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam?

(Ta lính miền Nam)

...Cô hàng ơi cho tôi một ly không
Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn c̣n sót lại bài thơ
Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn, đâu có ǵ thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em…

(Một ngày không hành quân)


Người lính, người thơ Trần Hoài Thư đă buồn, đă vui, đă cười, đă khóc, đă muộn phiền tiêu phí, đă kiêu hănh hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho Qui nhơn, B́nh Định. Hàng hàng lớp những Nguyễn Văn X, Trần Đ́nh Y, Lê Văn Z cũng đă sống một thời như thế ở Phong Điền, Cam Lộ, ở Tân Cảnh, Kom Tum, ở B́nh Long, Hậu Nghĩa, ở Chương Thiên, U Minh. Thời chiến, buổi nhiễu nhương, trai thời loạn. Có lẽ tất cả đều kiêu hănh ngẩn cao đầu không hối tiếc về một thời đă qua nhưng chắc chắn sẽ ngậm ngùi khi nhớ lại:

Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận
Thoát giờ đây: tóc đă điểm hoa râm
Khi gặp lại từ phương này quả đất
Chợt nh́n lên: giờ vầng trán đă nhăn.

Trong đôi mắt mỏi mê cùng cơm áo
Có chút ǵ phản phất của quê hương
Mây Đèo Cả như hôm nào dừng lại
Chiều Pleiku như buổi nọ mù sương

Thấy như thể trời Bồng Sơn mưa đổ
Chiều cuối năm quân chuyển xuống Đèo Nhong
Đường xe lửa ai ngồi châm điếu thuốc
Áo tơi dầu che khuất nẻo Cù Mông.

….

Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận
Thoát giờ đây, tóc đă điểm hoa sương
Khi gặp lại từ phương trời viễn khách
Chợt nh́n nhau, sao đôi mắt cay nồng.

Trần Hoài Thư! Xin cảm ơn đă đổ máu cho Qui Nhơn, xin cảm ơn đă đổ lệ cho vùng đất khô dân nghèo B́nh Định, xin cảm ơn vẫn luôn giữa trong tim “chút ǵ phản phất của quê hương”. Buồn phải không? Thôi, ṿng ṿng kiếm chỗ nào làm ly cà phê chơi, dù chắc ǵ ly cà phê viễn xứ đủ hấp lực làm quên nỗi buồn quá nồng, quá đậm trong ḷng mỗi chúng ta.

Ghé lại Dunkin gọi cốc cà phê
Nhớ bạn, ra ngoài đường đốt thuốc
Một chút cay cay xé nồng đôi mắt
Như khói mù buổi sớm Việt Nam
Cốc xây chừng để lại Qui Nhơn
Chắc sẽ nguội và đọng thành lệ đá


Nguyễn Mạnh An Dân
28/11/2017

 


VĂN CHƯƠNG

Bài vở cũ 2016
Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013 
Bài vở cũ 2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Những bài viết của Bất Khuất


Tears of pride  
We remember
Con chim biển
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


Điệu Boléro thăng tiến nhờ các anh lính VNCH
Món quà Giáng Sinh
A special Christmas memory  
Cũng chưa muộn màng  
Qui Nhơn, B́nh Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư  
Hành trang trên tuyền đường về  
Điều ǵ khiến Đan Mạch trở thành quốc gia hạnh phúc..

Định mệnh
Chín... chín... chín... nhưng chưa rục  
Ái hữu & hậu duệ Khóa 5 V́ Dân TĐ họp mặt
Đoạn trường Tuyết Nga....  
Nỗi uất hận của vị Tướng mất nước  
Ta về  
Nấm ngọc hương thiền
Giấc mơ Đại Dương (Ocean Dream)
Hẻm lính  
Cho ngàn sau lơ lửng với ngàn xưa
Mây vẫn c̣n bay  
Buồn vui quân trường  
Trần Hoài Thư & Thủ Đức gọi ta về  
Ngày tháng buồn hiu  
Những mùa Trung Thu 
Để lâu, c… trâu hóa bùn  
Người Pleiku năm cũ
Mối bận tâm xă hội
Quê hương của tôi  
Đằng trước và đằng sau  
Mấy mánh lừa mới tại Quận Cam  
Hồi kư của Vương Mộng Long  
Làng Việt kiều  
Viết cho ngày lên tám… mươi  
Tôi người Mỹ, vợ tôi người Việt
Trả nợ ân t́nh  
Đói  
Đà Lạt sương mù: Năm tháng ngao du 
Người cao tuổi
Chuyện tù của Phó Tổng Thanh Tra NHQG VNCH  
Những bàn tay đă nắm  
Cái lon Guigoz  
Thằng khùng
Một nụ cười  
Hai cô thôn nữ  
Chiến thắng Xuân Lộc: QLVNCH vẫn ngạo nghễ
dù bị bức tử
 
Con cọn nợ ba  
Truyện ngắn Ư Nga  
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Phải chăng là định mệnh  
Con gái Hà Nội ở đâu?  
Trai Petrus Kư, Gái Gia Long & Trai Chu Văn An, Gái Trưng Vương  
Đoản văn của một người tử trận  
Người Việt gốc Mỹ  
Trời buồn tháng hạ  
Dân chơi cầu 4 cẳng   
Đất nước vĩ đại và lạ lùng !
Câu chuyện người lính VNCH  
Chàng... Donald Trump 
Trần Hoài Thư, người ngồi vá lại những linh hồn  
Người đàn bà trên cầu Nitelva
Thư số 67c - Gửi người lính QĐND  
Nói chơi mà không phải nói giỡn  
Mẹ
Chôn súng
Đứa con thất lạc  
Tháng Tư nhớ về các chiến sĩ đă hy sinh oanh liệt  
Phúc ấm con ban !!!  
Formosa với nỗi buồn Tháng Tư
Một ngôi sao quư vừa tắt  
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975  
Sau 42 năm mất SaiGon
Nghĩ về người vợ lính
Chân dung người vợ lính VNCH
Tôi không chết đâu  
Tháng tư đen, không dễ ǵ quên  
Câu chuyện về đôi đũa  
Những ngày tháng ba  
Những ngày tháng tư  
Tâm thư - Những ngày cuối tháng 4  
Nguyễn Đức Quang, khi bài hát trở về
Hăy ngủ yên Đà Nẵng của tôi ơi
Ngày 29-3-1975: Đà Nẵng trong cơn hấp hối  
Nh́n lại ḿnh sau 42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975  
Đờn ca tài tử miền tây
Nói với người trung đội trưởng cũ ...  
Đồi Delta  
Những bước chân vào đời

Bao giờ cho tôi quên
Vài kỷ niệm về Tết trong tù Hà Nội
Mùa xuân trên quê hương ngoài kư ức  
Xin một đời góa bụa cùng anh  
Đón xuân này nhờ xuân xưa  
Nằm đêm nghe tiếng rao hàng
Như vằng trăng khuya
Góc tối  
Cho nhuẩn nhuyễn ra  
Người bạn Khóa 2 Học Viện Cảng Sát Quốc Gia  
Chúc Tết  
Đầu năm viết cho con gái  
Bên nhau đi nốt cuộc đời