Thấy có nắng, Vinh trải cái nóp lên trên băng ghế ngồi lái tàu, để phơi cho khô. Sương xuống suốt đêm hôm qua, thấm vào cọng bàng dệt nóp, ướt đẫm cả mảng lớn, thành màu thâm nâu nâu. Người lớn lên với đời sống không thiếu thốn phương tiện hay chỉ ở tỉnh thành, đô thị, rất hiếm dịp biết qua cái “nóp” và cỏ “bàng”.

Bàng là loại cỏ cao hơn cả mét, chỉ có ở miền Tây, mọc nơi đất ngập nước phèn chua, nhiễm mặn như vùng Nhà Bàng – Thất Sơn, Cà Mau, Hà Tiên... Trái lại, cỏ Lác (người miền Bắc gọi là Cói) mọc khắp Bắc, Trung, Nam; từ vùng sông Hồng, Ninh B́nh, Nam Định, Hà Nam, xuống Đồng Tháp Mười ở miền Nam. Sợi Lác bán có giá hơn cỏ Bàng, thường dùng dệt chiếu.

Dân miền Tây, đồng bằng sông Cửu Long, lấy cỏ bàng đập dẹp phơi khô, đan thành những vật dụng như túi xách, đệm… Tấm đệm có h́nh vuông, mỗi cạnh 1,7 mét. Đệm bàng rẻ tiền, nhưng có đặc điểm dai mềm hơn manh chiếu lác, thường dùng cho công việc tạp nhạp ngoài đồng áng.

Chừa ba tấc, gắp phần đệm c̣n lại làm đôi, rồi may kín hai đầu, để trống một cạnh dài, tấm đệm bây giờ trông giống cái bao thư lớn, gọi là cái “nóp”. Sau khi chui vào nóp nằm, người ta tự kéo mép dư chèn xuống lưng, thành cái túi ngủ kín cả bốn phía, muỗi không chui vô được và kim của chúng nó không thể nào đâm thủng lớp đệm bằng cỏ bàng. Chưa quen ngủ trong nóp, cảm thấy bị ngộp hơi. Tuy vậy, một lúc sau rồi quen, hơi thở dễ chịu hơn. Nóp “hai đệm” được dệt rộng hơn, chừa mép bằng chiều ngang; để khi chèn mép vào hết bên dưới lưng, người ta được nằm trên hai lớp đệm, cảm thấy êm và ấm lưng hơn.

C̣n có loại “nóp đôi”, cho hai người ngủ chung. Thường th́, chỉ có vợ chồng mới chịu hao tốn hay chịu khó quảy theo cái nóp cồng kềnh gắp đôi và chịu ngủ chung đụng với nhau. Hai người ngủ chung “nóp đôi” mà loại “hai đệm”, có cái thú vị riêng, nhưng cần khéo léo hơn; cả hai phải đồng ḷng, nương ch́u nhau, cùng lăn, cùng trở,… mới luồn trọn vẹn phần mép nóp vào bên dưới lưng cho cả hai. Cho dù nằm dưới mái lá trống bốn bề hay giữa trời đầy sao, bên trong nóp vẫn thấy kín bưng; một thế giới riêng tư của cả hai…

Nóp là mùng và là chiếu, cũng là lều của đồng bào miền Tây, của dân nghèo; được dùng từ trên đất bờ, ruộng đồng, xuống ghe thuyền lênh đênh theo ḍng sông, con rạch. Có hơn cả trăm năm, nóp đă là bạn đồng hành không thể thiếu của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là những nơi hoang dă nhiều muỗi, ṃng, rắn, rết,… nơi người dân không khả năng mua sắm mùng, hay v́ sinh kế khổ cực phải nay đây-mai đó, ngủ lây lất chốn hoang dă với màn trời-chiếu đất,…

Thường th́ Vinh chỉ cần nằm trên băng ghế, trùm qua cái mền là ngủ được. Thế nhưng, khởi từ đêm 28 Tết, chẳng biết chúng nó âm mưu và tụ tập nhau từ lúc nào, muỗi cả đám cả đàn, kéo về khu bến tàu này. Mấy đêm nay muỗi nhiều quá, chúng t́m mọi kẻ hở và các chỗ da thịt sát với mền để châm chích, nên Vinh phải chui vào nóp mà ngủ. Từ lúc trời mới chạng vạng, muỗi đă túa ra, vi veo inh ỏi gọi nhau bay đi kiếm ăn. Muỗi nơi đây thô kệch, chớ không thanh nhă, mềm yếu, ẻo lả… như muỗi tỉnh thành, muỗi Sài G̣n; đă thế, chúng nó lại rất hung hăng, tàn bạo như loài quỉ đỏ khát máu.

Vũ cũng thức rồi, leo lên đứng bên trên hầm máy, ló người qua mui tàu, đốt thuốc hút, nh́n quanh quẩn một lúc:

- Ê, vắng quá há mậy!

Vinh ngó ḷng ṿng từ trên bến tàu xuống ḍng sông, rồi lừng khừng nói theo bạn ḿnh:

- Ừ,… vắng thiệt…!

Bến tàu vắng lặng thật!

Không chuyến đi, không chuyến về, như thường ngày. Thường ngày, bến tàu ồn ào gần như suốt cả ngày đêm: tiếng máy tàu, tiếng người, tiếng hàng chuyển lên nhà máy, tiếng thùng không kéo xuống,… Trưa hôm qua, chuyến chở hàng về của ghe chú Tài là chuyến cuối cùng trong năm. Sau đó, các quan thầy cùng nhân viên bắt đầu rỗi răi, thảnh thơi ăn nhậu “Tất Niên”, tà tà cho hết ngày 30. Ngày Tết, văn pḥng, công ty đóng cửa nghỉ Tết. Ghe chở hàng cũng nghỉ Tết. Nhân dịp này, ghe tàu chở hàng chạy về quê nhà hay bến quen của ḿnh, để đón Giao Thừa, ăn Tết với thân quyến, bạn bè. Mấy chiếc từ xa xuống đây làm ăn, như ghe của Vũ, th́ nằm lại bên bến của công ty. Hai đứa lẩn quẩn ở đây để coi chừng ghe; để lắm lúc bâng khuâng, nghe ḷng ḿnh bùi ngùi: xuân này vắng nhà!

Chiều 30, chợ tan sớm. Mấy chiếc xuồng con con lấp lửng mặt nước, chở dưa hấu, chở mấy chậu hoa cúc, hoa vạn thọ,… các thứ bán không hết về nhà. Trời về chiều u buồn, càng buồn thảm hơn cho cảnh buôn bán ế ẩm…

Đêm hôm qua, đêm Giao Thừa trong âm thầm, vắng lặng; không tiếng pháo đón mừng Xuân sang, như những ngày Xuân trước đây, trước Tết Mậu Thân.

Tết Mậu Thân, năm 1968, cộng sản xua quân tấn công miền Nam, gieo tang tóc khắp nơi nơi, nhất là thảm sát vô cùng man rợ ở Huế. Bây giờ, cộng sản chiếm được miền Nam, nhưng không bao giờ chiếm được ḷng người. Thừa biết ḷng dân căm thù cộng sản, cho nên chúng nó cứ nơm nớp sợ hăi mọi người và mọi thứ chung quanh, sợ cả tiếng pháo nổ.

Rồi Tết lại đến!

Sáng nay, ngày Đầu Năm, không mấy ai muốn nhóm chợ. Năy giờ, lèo tèo vài chiếc xuồng chèo ra hướng chợ, nhưng không thấy chở theo hàng hóa để bán buôn chi cả, chắc người ta chỉ đi đâu đó.

Sông nước tĩnh lặng. Nước vào đầy sông. Ḍng sông lững lờ, ngừng trôi chảy, trông như mặt hồ, như ḍng sông Hương của Huế.

“Ḥ lơ ơ ơ ..... con sông dùng dằng, con sông chảy,
Sông chảy vào ḷng,… ơ… ơ…
Ḥ ơ… Sông chảy vào ḷng, nên Huế rất sâu… ơ… ḥ…”

Con sông dùng dằng. Người muốn rời Huế, dùng dằng không đi được!

Sông chảy vào ḷng sông như sông chảy vào ḷng người. Mà ḷng người Huế th́ rất sâu, rất đậm trong vui buồn, trong nhung nhớ, trong yêu thương!

Để rồi, từ sau Tết năm Mậu Thân, ở Huế, câu ḥ c̣n làm người ta liên tưởng: c̣n xác người bị thảm sát mà chưa được vớt lên, làm cho con sông dùng dằng, quyến luyến, không muốn chảy qua? Linh hồn người chết oan, chết thảm hồi Tết năm 68 chưa siêu thoát được, làm cho ḍng nước khi chảy qua đó, bỗng tiếc thương, ngại ngùng, không muốn trôi?!

Sông Hương có hai nhánh sông, thường gọi là Tả Trạch và Hữu Trạch, nhập vào nhau phía trước lăng vua Minh Mạng, chỗ có bến đ̣ Tuần. Nơi hai nhánh sông Hương gặp nhau, lưu lượng hợp lại làm cho ḍng nước chảy mạnh hơn, lượn theo hướng tây-nam lên đông-bắc. Thế nhưng, chưa được bao xa, th́ khúc sông gần chùa Linh Mụ gặp đồi Hà Khê ngăn chận. Bị ngăn chận, con sông đổi hướng, quanh sang phía tây-đông. Cũng v́ đồi Hà Khê chận ḍng nước, đoạn sông này không c̣n chảy mạnh như trước. Nhưng qua khỏi Hà Khê th́ sông Hương lại rộng hẳn ra, gần gấp đôi, đủ chứa hết lượng nước qua khỏi khúc quanh Hà Khê mà tràn vào. Do sức chứa của khúc sông rộng, làm cho nước chảy chậm lại hơn. Rồi ḍng nước lại gặp cồn Giả Viên; bị ngăn thêm một lần nữa: ḍng nước càng chậm, êm ả. Khi sông Hương chảy ngang trước thành Huế, sông chảy lờ đờ. Đă thế, ḍng nước lại c̣n phải đụng nhằm Cồn Hến, nước sông dồn ứ lại. Thành ra, đoạn sông Hương ở cầu Trường Tiền, nước chảy chậm lắm, gần như không nh́n thấy, cứ tưởng là ḍng sông đứng yên một chỗ, trông giống cái hồ lớn rộng, thật yên b́nh...

Qua khỏi cồn Hến, sông Hương lại quanh quặt về hướng tây-bắc, hai nhánh sông Hương nhập lại. Vùng đất nơi đây là đất bồi, rất tốt, gọi là Băi Dâu.

Băi Dâu, Gia Hội là hai địa danh có nhiều hầm hố chôn người tập thể nhất.

Riêng Băi Dâu, đă bị quân cộng sản biến thành băi tha ma; hàng trăm người bị bọn cờ đỏ, băng đỏ tàn sát, bị chôn sống ở đó. Thảm sát ở Băi Dâu, tội ác của cộng sản, ghi khắc muôn đời trong những trang lịch sử tang thương, trong ḷng người,… trong cả lời ca “Hát Trên Những Xác Người” của Trịnh Công Sơn:

“Chiều đi qua Băi Dâu, hát trên những xác người.
Tôi đă thấy, tôi đă thấy, những hố hầm đă chôn vùi thân xác anh em.”


Phản bội hiệp ước đ́nh chiến Tết Mậu Thân, quân cộng sản tấn công nhiều thành phố và địa phương trên miền Nam Việt Nam - trong đó có Sài G̣n và Huế.

Huế bị tang thương nhất!

Đêm Mồng Một Tết Mậu Thân 1968, cộng quân tràn vào thành phố Huế và chiếm đóng suốt 25 ngày đêm; chúng đă biến Huế thành địa ngục trần gian. Bọn nằm vùng cùng những tên đi theo cộng sản trở lại Huế, có nhiều cơ hội, có nhiều thời gian, để lùng bắt và giết tất cả những người, những gia đ́nh mà chúng nó không ưa thích hay cho là thù địch của đảng.

Chỉ một đoạn ngắn trong Hồi Kư “Giải Khăn Sô Cho Huế” của Nhă Ca, người ta đă đủ phải kinh khiếp trước cái dă man của những kẻ xưng danh là “giải phóng” tàn sát đồng bào ḿnh:

“Chính trong thế hệ chúng ta đây, đă có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàig̣n, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dát súng lục bên hong, hăng hái đi lùng người này, bắt người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế.

Chính trong thế hệ chúng ta đây, đă có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên ṭa nhân dân, kêu án tử h́nh hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu Tư, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc :

- Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm.

Nhưng mặc Mậu Tư năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ….”


Tên Đoan mà Nhă Ca nhắc đến, chính là Nguyễn Thị Đoan Trinh. Trinh là con gái của Nguyễn Đóa, là sinh viên Dược-Sài G̣n, về Huế ăn Tết. C̣n tên Đắc, chính là Nguyễn Đắc Xuân. Xuân là sinh viên Sư Phạm, theo quân cộng sản. Tết Mậu Thân, trở về Huế, chỉ huy các cái như: Lực lượng Học sinh, Sinh viên Giải phóng Huế… Đồng thời, Xuân cùng với Hoàng Phủ Ngọc Phan chỉ huy các Đoàn Thanh niên Vơ trang An ninh Bảo vệ Khu phố (các Đội Tự vệ Thành). Lực lượng man rợ này đă gieo tang tóc kinh hoàng cho dân Huế trong hơn ba tuần lễ chúng chiếm thành phố Huế. Xuân và Phan c̣n dự phần xét xử trong cái gọi là “Ṭa án Nhân dân” do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa và quân “giăi phóng” đă kết án tử h́nh hàng trăm người dân Huế…

Sau Tết Mậu Thân, đến khoảng rằm tháng Giêng, t́nh h́nh ở Sài G̣n và hầu hết các thành phố khác ở miền Nam bắt đầu có phần ổn định hơn. Tổng nha Thanh niên kêu gọi tham gia cứu trợ đồng bào Huế, chủ yếu là giúp t́m xác trong các hố hầm chôn người tập thể của quân cộng sản. Lúc đó, thành phố Huế nhiều nơi vẫn c̣n bị cộng sản chiếm giữ, chưa thật sự an ninh. Đến cuối tháng Giêng, t́nh h́nh Huế an ninh hơn, chương tŕnh cứu trợ được xúc tiến.

V́ hoàn cảnh dân chúng ở Huế, mới vừa thoát khỏi thảm nạn cộng sản, thiếu hụt mọi bề, nhất là thực phẩm… địa phương chỉ lo cho đoàn cứu trợ có nơi trú ngụ tạm thời, chính phủ giúp phương tiện di chuyển. Thiện nguyện viên phải tự mang theo gạo, ḿ khô, đồ hộp…. Mỗi người mang theo hai ba-lô, đeo sau lưng và cả trước ngực; gồm lương thực, vật dụng cá nhân cho ḿnh trong hai tuần.

Máy bay C130 chở 100 người t́nh nguyện đáp xuống phi trường Phú Bài, th́ có đoàn xe GMC chở vào thành phố Huế, đưa tất cả về ở Câu lạc bộ Thể thao Huế (Cercle Sportif de Huế), gần chợ Đông Ba. Bên Tả ngạn sông Hương, ở vườn Bông cửa Thượng Tứ nh́n qua bên kia sông thấy h́nh Câu lạc bộ này vươn ra sông, người Huế hay nói: “bên Xẹc (cercle) Hữu ngạn”. “Xẹc” là câu lạc bộ chuyên về các môn thể thao dưới nước, nên được xây cất sát bờ sông Hương.

Ai ơi có nhớ, nhớ về xứ Huế.
Đây quê hương: núi Ngự, sông Hương,
Sóng lưu t́nh đôi bờ thương nhớ,
Cầu Trường Tiền: lắm nhịp yêu thương.


Huế: núi Ngự, sông Hương, áo tím Đồng Khánh cùng tà áo dài trắng thướt tha, giờ tan trường trên trên các nhịp cầu Trường Tiền… Huế đă đi vào thơ văn, đă làm xao xuyến ḷng người. Nét đẹp, hồn thơ của Huế c̣n măi đó với thời gian.

Huế: duyên dáng, yêu kiều, ngẩn ngơ, mộng mơ,… thơ thẩn người đi, chân bước không đành.

Một tiếng dạ! Huế ơi, ḷng xao xuyến
Tà áo dài tha thướt ướt hoàng hôn.

Mùa Xuân miền Trung năm này lạnh. Mỗi người được một cái mền mới, tuy làm bằng giấy, của quân đội Mỹ, cũng đủ ấm và bền đến cả tháng.

Sau khi được các giới chức có trách nhiệm đến thăm chào, tiếp nhận và thuyết t́nh tổng quát về t́nh h́nh ở địa phương, mỗi người được cấp cho bảng tên đeo trên ngực “Đoàn Cứu Trợ- Tổng Nha Thanh Niên” và chính thức nhận việc.

Đây, Huế!

Huế bây giờ hăy c̣n đầy thê lương, tang tóc… trong hơi thở, trong ánh mắt của mọi người.

Đây, cầu Trường Tiền!

Cầu Trường Tiền bây giờ nằm găy gục xuống ḍng sông Hương, như thi thể những nạn nhân cong vẹo trong các hố chôn người của cộng sản. Chúng nó đă nhẫn tâm tàn sát dân lành một cách vô cùng man rợ và c̣n giật sập cầu Trường Tiền. Cầu Trường Tiền là phương tiện lưu thông giữa hai miền tả ngạn và hữu ngạn sông Hương, đoạn chảy ngang thành phố Huế. Cầu Trường Tiền c̣n là biểu tượng thân yêu của Huế. Sau thảm sát Tết Mậu Thân 68, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đă khóc thương cho Huế qua bài "Chuyện Một Chiếc Cầu Đă Găy":

“T́nh người về giữa đêm xuân chưa dứt cuộc vui
Giặc đă qua đây gây cảnh nổi trôi.
Cầu thân ái đêm nay găy một nhịp rồi
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài
V́ sao không thương mến nhau c̣n gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu
Mối thù chờ sang ngày nào nối lại nhịp cầu rửa hờn cho nhau”.


Lúc này, Công binh của quân lực miền Nam đă bắt hai cây cầu tạm. Tuy chỉ một lối đi bộ hẹp trên mỗi chiều, nhưng giúp nối liền hai bên bờ sông Hương.

Qua bên kia bờ sông Hương, qua cầu Đông Ba, khỏi ngă ba Nguyễn Du, đoàn Cứu Trợ qua thêm hai ngă ba đường lớn, bên phải gặp Trường Trung học Gia Hội; đi xéo phía trước thêm chút là đến Tăng Quang Tự, c̣n được gọi là Chùa Áo Vàng, tọa lạc bên trái con đường.

Trong sân chùa và trường học, một số hầm hố chôn người đă phát hiện và đang khai quật. Thân nhân cùng dân chúng đào xới đất, để t́m thi thể nạn nhân bị vùi dập trong đó. T́nh người, t́nh đồng bào, đă giúp cho những người dù không phải là thân quyến, không c̣n e dè trước mùi tử thi đậm đặc trong không khí.

Hầu hết, nạn nhân bị cộng sản giết bằng cách đập vỡ đầu với các vật cứng như xẻng đào đất, hay bị đạp cho rớt chúi xuống hố rồi bị chôn sống. Trong số những người bị chôn có chị Tâm Tuư, cô bạn trường Đồng Khánh của nhà văn Nhă Ca:

“Khi xác được đào lên, thấy tóc mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn. Bạn tôi bị chôn sống khi c̣n đầy sức sống, như nhiều nạn nhân khác.”

Xác c̣n bị trói ghịt hai tay và cột nối với nhau thành từng xâu 10 đến 12 người, bằng các thứ dây oan nghiệt: dây điện thoại, dây kẻm gai sắc nhọn, … Trong đất bùn nhầy nhụa có xác thịt con người bất hạnh bị rữa nát, có mảng xương sọ c̣n lọn tóc rối nùi dính theo. Xác gồm thanh niên, sinh viên, học sinh, đàn ông, phụ nữ và cả trẻ em. Thi thể nạn nhân đủ các dạng nằm, ngồi, cong queo, găy gập….

Cảnh tượng vô cùng thương tâm!

Cho dù đă được nghe biết trước, tất cả những thảm thương trước mắt và quanh ḿnh là nỗi kinh hoàng không sao ghi trọn vẹn bằng ngôn ngữ!

Huế chưa thật sự an b́nh. Thành phố c̣n trong luật giới nghiêm từ 2 giờ trưa đến 8 giờ sáng hôm sau. Đến giờ giới nghiêm, dân chúng cùng thân quyến t́m được xác người thân hay chưa đều phải về nhà. Những người có trách nhiệm được ở lại, tiếp tục công cuộc đào xới, cắt bỏ dây trói,… đem thi thể nạn nhân lên trên mặt đất, cùng các di vật may mắn t́m thấy, được bao bọc và đặt bên cạnh đầu nạn nhân, hầu giúp thân quyến dễ nhận xác. Đến khoảng 4 giờ chiều, tất cả mọi người mới nghỉ việc để trở về nơi tạm trú ở Câu lạc bộ Thể thao Huế.

Nhúng áo quần đă mặc đi đào xác vào chảo nước sôi lớn có pha xà bông bột. Khói hơi tử thi bốc lên ngùn ngụt trong sân. Nước sôi, rồi nước sông Hương, giặc giũ măi, mùi xác chết vẫn c̣n đó, c̣n ướp đậm trong từng sợi vải.

Công tác giúp đồng bào Huế t́m xác thân nhân qua hơn hai tuần dự trù, phải thêm tuần thứ ba mới tạm gọi là xong. …

Hàng ngàn dân Huế bị chôn vùi; không chỉ trong núi trong rừng, nơi họ bị chôn c̣n là đất chùa, đất nhà thờ, đất trường học, và ngay tại vườn nhà… Khu chôn người tập thể ở trường trung học Gia Hội và chùa Áo Vàng chỉ là 2 trong hơn 20 địa điểm chính có hầm hố chôn người tập thể ở Huế, như: Tiểu chủng viện, cửa Đông Ba, Cồn Hến, Nam Giao, Phú Xuân, cạnh Lăng các vua, khu vực Ḍng Thiên An, Phú Xuân, Phù Lương, làng Châu Chữ, câu An Ninh, trường An Ninh Hạ, Chợ Thông, gần chùa Linh Mụ, truờng Văn Chí, Phú Thứ, Tiên Nộn, Đồng Di, Tây Hồ, Khe Đá Mài, Khe Lụ, sau làng Đ́nh Môn…

Huế!

Mậu Thân 1968!

Nơi đây, “tôi đă thấy, tôi đă thấy: những hố hầm đă chôn vùi thân xác anh em!

Nơi đây, không có tiếng hát trên những xác người, chỉ nghe vang dậy tiếng kêu gào thảm thiết!

Huế! Thảm sát Mậu Thân 68!

Ṿng khăn sô, nước mắt uất hận c̣n âm ỉ măi măi trong ḷng người!

Rồi Tết lại đến!

Trống vắng dễ gợi nhắc dĩ văng thương tâm. Muốn t́m cái ǵ đó sinh động hơn, cho khuây khỏa ḍng kư ức vẫn c̣n thao thức, Vinh lên tiếng:

- Tao đi lấy nước, nấu chút nước sôi…

Vinh nói với Vũ, rồi bước xuống phía sau đuôi ghe lấy cái ấm trong góc bếp, đi ra thùng nước ngọt phía trước mũi để lấy nước. Nghe vậy, Vũ rút người xuống mui, soạn ly tách, chuẩn bị pha trà để cúng và cà phê cho hai đứa.

Sắp bánh, châm trà cúng xong, cà phê cũng sẵn sàng. Hai đứa dựa lưng vào vách mui, nhâm nhi mùi thơm vị đắng của cà phê, cà phê sáng sớm. Bây giờ, trong lúc mọi thứ bị khan hiếm dưới chế độ cai trị khắc nghiệt của cộng sản, cái chất đắng ấy không biết chắc là từ những ǵ. Thế nhưng, may mắn có cà phê như thế này, đời c̣n ấp áp và hương vị lắm.

Nghe có tiếng tàu đánh cá lớn chạy tới, Vinh ngó Vũ có ư ḍ hỏi:

- Tụi nó?!

Vũ gật đầu, vói tay kéo mở cửa sổ để hai đứa nh́n ra ngoài sông. Và cái khối gỗ to dềnh dàng màu xám tro vẹt nước phóng ào qua khung cửa sổ nhỏ. Vũ buột miệng:

- Mẹ! bọn...

Vũ nén giận bỏ lửng câu nói, rồi bực dọc kéo cửa đóng lại, ngồi tư lự hút thuốc. Đúng như cả hai đă đoán biết. Không ai đi đánh cá sáng Mồng Một Tết. Không cần biết lai lịch chiếc tàu đánh cá màu xám tro này, cũng đoán ra là tàu đánh cá trá h́nh của công an biên pḥng. Chiếc tàu này không xa lạ ǵ với dân địa phương, nhất là với Vũ và Vinh. Đêm cuối tháng Tư năm trước, công an trên tàu này đă hung hăng bắn chận ghe của hai đứa, hống hách tràn qua lục xét ghe xong, lại bắt phải chạy theo giúp chúng nó lùng kiếm chiếc ghe vượt biển đang c̣n trốn lánh đâu đó trong vùng. May nhờ có trách nhiệm vận chuyển tôm tươi, mới được chúng nó cho chạy ghe về công ty để giao hàng…

Sáng nay, tàu “đánh cá” của công an biên pḥng phóng ra cửa biển, chắc cũng là để t́m bắt ghe thuyền vượt biển t́m tự do.

Máy tàu chúng nó mạnh lắm, cuộn sóng dậy đ́ đùng. Vũ và Vinh cầm lấy ly của ḿnh lên, giữ cho cà phê đừng bị sóng làm đổ tạt ra ngoài. Và sóng ào ào đùa vào tới, xô đập và nhồi lắc các chiếc ghe thuyền nằm cập bến tàu nghiêng ngả dữ dội một lúc lâu.

Hai đứa ngồi lặng yên.

Ḍng nước bây giờ hăy c̣n lặng yên, như ḷng người c̣n dùng dằng, nấn ná, chưa muốn ra biển, xa rời ḍng sông quê hương.

Mậu Thân 1968 - Mậu Tuất 2018

“Đă 50 năm qua, nhưng kư ức không thể phai mờ!”

Bùi Đức Tính

 


VĂN CHƯƠNG

2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Những bài viết của Bất Khuất


C̣n nhớ không em?  
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường  
Đêm trắng  
Nước mắt trong cơn mưa  
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS


I’ll be home for Christmas  
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10  
Vợ hiền
Dạy con  
Lễ hội sinh nhật  
Chọn lựa  
BS Đặng Tuấn Long  
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca kinh hoà binh  
Môt thoáng ngậm ngùi  
Đường về không xa
Năm mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục  
Vá đường
Chăn gà  
Một người làm quan  
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời

Thuyền đi đâu, về đâu?  
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm  
Mẹ cài cho con đóa hồng  
Những mùa Trung Thu  
Thầy Trân  
Tháng Tư nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă  
Trái tim Bồ Tát  
Người Hạ Sĩ Nhứt
Lá thư t́nh trong cặp
Người pháo binh già...
Thức trắng đêm nay!
Mặt trận Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép  
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào  
Làm việc cho Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973  
Người chiến sĩ không quân phục  
Tôi cưới vợ 
Buổi họp mặt vui vẻ  
Cơi bụi hồng
Chiều buồn biên giới  
Mùa đi tù!  
Nếu có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước tôi  
Người Mẹ thời chiến 
Má tui  
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại 
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku 
C̣n thương rau đắng …  
Ngày lễ Mẹ 
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4 
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn  
Người về có nhớ thương binh?  
Từ những trang thơ 
Tự tử đi anh em! Tao không đầu hàng!  
Chuyện trên QL 20  
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH

Mùa xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta  
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống  
Bỗng dưng anh tới  
Để nhớ một thời...  
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến  
Trong nỗi khốn cùng   
Giờ phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về  
Phụng Dực, trận đánh để đời  
Buổi họp mặt vui vẻ  
Trạm cuối cuộc đời
Nhớ nhà  
Khép lại núi rừng  
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"  
Nhức nhối con tim  
Trái tim cao cả  
Hạt tình hồi sinh  
Hai con khỉ già 
T́m chốn thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt  
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt  
Đại gia ở Mỹ  
Chỉ c̣n nỗi nhớ  
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một cuôc chơi
Sự ra đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác và Hèn Hạ!  
Phi vụ "Ong Chúa" 14-4653 cuối cùng

Một cái Tết khó quên  
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân như thế nào?  
Vơ Ân và tôi  
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt  
Hạnh Phúc… Rơi  
Bông Mồng Gà  
Rồi người lính có về không?  
Tạ ơn Thiên Chúa !  
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít ướt
Những chuyện ngày xưa
Chân dung người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm cũ
Ơn đời chứa chan  
Câu truyện t́nh trong quân ngũ  
Trong lâu đài kỷ niệm  
Người nữ tù và giải Nobel  
Đùa của tạo hoá  
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH  
Con c̣n nợ ba
Cái bằng... lái xế !  
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân  
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường  
Con búp bê của mẹ 
Sự c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô Giáo Ngụy Người Huế  
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ  
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt biển...  
Huế, tôi và Mậu Thân  
Hương  
1 đồng giấy, 7 đồng phở  
Vui buồn với UH1  
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt  
Khoe chữ  
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....  
Truyện hai h́nh ảnh một đời người  
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi  
Nén hương ḷng cho một người vừa đền xong nợ nước  
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông  
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh  
Quê hương của tôi  
Chim trời bạt gió 
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Nó và biến thiên cuộc đời

Có những mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Các ngày tết ở VN trong năm 
Nói chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất 
Những người lính Dù bị lăng quên 
Gói trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....  
Người đưa thư  
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi
Chọn tuổi xông nhà đầu năm