* tâm bút mhhoàilinhphương
* kính cẩn nghiêng mình tiễn đưa hương hồn chú Nguyễn Văn Đông về
nơi an nghỉ đời đời…
“ Và xin em hiểu rằng…
Dù nơi chiến tuyến mịt mờ mưa bay
Lòng anh vẫn nhớ tình người hôm nay…
Đời dâng cho núi sông
Lòng này thách với tang bồng
Đừng sầu má thắm phai hồng
Buồn lắm em ơi!...”
( “ Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp” – NVĐ)
Tiếng hát ténor của cố nghệ sĩ Hùng Cường mang hương xưa nhiều năm
tháng cũ bỗng quấn quít, thúc dục.. tràn lên theo sóng. Âm vang như
những hồi trống trận. Ào ào như thác đổ và phẫn nộ như những trận
cuồng phong.. Nhưng lại êm ái, nồng nàn yêu thương vô kể… Lời ca của
môt thời kỳ tổ quốc điêu linh…
Và hình ảnh chân dung người lính Việt Nam Cộng Hòa bỗng hiện ra với Bảo Quốc Huân Chương trên ngực áo, cùng lời cáo phó từ quê nhà…. trên màn ảnh rộng..
Tôi thàng thốt, bàng hoàng, chợt nhận diện… sững sốt gọi Chú Đông ơi! – người chú đã có những tháng năm quá đổi thân thiết với gia đình, với tình nghĩa đệ, huynh mà Ba tôi xem như ruột rà, thân tộc - ông chú nhà binh tài hoa, với những bài tình ca lắng sâu nhưng đầy bi tráng.
Chúng tôi đã không còn gặp lại chú môt lần nào sau cơn hồng thủy bạo tàn của tháng tư đen, gió nổi cát bay cuốn xô người miền Nam vào muôn trùng bất hạnh.
Là cuộc đổi đời lớn nhất trong lịch sử của miền Nam tự do, của Saigon – hòn ngọc viễn đông lấp lánh hào quang cùng năm châu, bốn bể.
Cũng như số phận bao nhiêu người lính Cộng Hòa, Ba tôi bị lưu đày về một vùng biên giới xa, và không lâu sau đó đã nằm xuống mãi mãi trên núi đồi hoang vu Hoàng Liên Sơn, Bắc Viêt …
Và chú ở một phía trời nào.. cũng đã bị giam cầm cùng đồng đội vì can tội cầm súng giữ gìn từng tấc đất của quê hương.
Rồi… nhà nhà nổi trôi …, người người lưu lạc…
Trong cay đắng muôn trùng, chúng tôi đã phải lìa
bỏ nơi chốn chôn nhau, cắt rốn, bứt cả cội nguồn, theo chân đoàn
người viễn xứ, tìm vùng đất mới dung thân.
Một chớp mắt thôi. Mà mấy mươi năm như khúc đoạn trường. Giòng lệ
vẫn chưa khô trong trái tim người lưu vong, biệt xứ…
Chú Đông ơi, Saigon ơi, tuổi ngọc ngà ơi!
Còn chuyến tàu nào cho tôi trở về thuở ấu thơ đã mù xa lăn lắc…
Ở đó… có những câu chuyện kể về môt mùa chinh chiến cũ – những người
trai anh hùng ra đi vì tiếng gọi của nước non…
*
Hà Nội với hình ảnh Ba tôi cùng với chú Đông
“ Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung “
( Chinh Phụ Ngâm Khúc)
trong bộ quân phục oai phong trên cầu Thê Húc, trước đền Ngọc Sơn,
hay bên hồ Hoàn Kiếm long lanh ánh bạc đã ghi dấu đậm màu ký ức của
môt cô bé con chưa tới tuổi đến trường. Đêm đêm nơi quê Ngoại vẫn
nghe tiếng súng đì đùng, những dóm lửa vèo bay sáng soi môt góc trời
ly loạn…
Khánh Hòa 1953.
Như bao người trai khi đất nước lâm nguy, theo tiếng gọi lên đường, Ba tôi phải rời bỏ gia đình, gia nhập quân đội. Khóa Đại Học Quân Sự ở Hà Nội đã là cơ duyên cho Ba tôi và chú Đông xẻ chia cuộc đời quân ngũ, với môt ý nguyện tâm đồng, kết nghĩa Đào Viên.
Khóa học được kết thúc trước ngày hiêp đinh Genève ký kết. Và năm 1954, những người lính miền Nam đã trở về lại mái nhà xưa…, mỗi người nhận môt đơn vi khác nhau.
Dù không còn được gần nhau, nhưng chú Đông vẫn
luôn hiện hữu trong cuộc sống Ba tôi, vì cùng chung chí hướng : có
một tổ quốc để phụng sự, môt dân tộc để yêu thương và môt lý tưởng
để theo duồi….
…Lớn thêm chút nữa, tôi thấm thía hiểu được về thân phận con người
khi dấn thân vào cuộc chiến, về đời sống lãng bạt, phiêu bồng khi
khoác chinh y, của chặng hành quân xông pha trên vùng đất giặc:
“ Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”
( Lương Châu Từ - Vương Hàn)
Và thật rực rỡ trong tôi, chú mang hình ảnh của môt quân nhân vững
như thông, hiền như núi và phiêu du như môt cánh chim bằng..
Hay có phải:
“ Phương trời anh đi
Xa xôi van lý
Đêm nằm gối súng
Chung ánh trăng nhưng đôi đường
Ly cách trong tình thương….”
( Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp)
Xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, được trui rèn chí khí, với
phương châm Danh Dự - Tổ Quốc – Trách Nhiệm, nợ nước oằn vai,
cuối bãi, lưng đèo, chân mây, đầu gió… giữ vững niềm tin với lời thề
khẳng khái:
“ Đường mây chân núi xa
Dù ngàn nắng lửa mưa dầu
Lòng người nhất quyết không đầu
Dành lấy mai sau…”
( Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Lý tưởng của người lính Việt Nam Cộng Hòa trong nhạc Nguyễn Văn Đông
là lý tưởng tương phản với chí nam nhi trong thơ của Uy Viễn Tướng
Công Nguyễn Công Trứ:
“ Đã trót sinh ra trong trời đất.
Phải có danh gì với núi sông”
mà là làm tròn sứ mạng của người trai, không màng lợi danh, chỉ mong
sao quê nhà qua cơn nguy biến:
“ Và xin em hiểu rằng
Ngưởi đi giúp nước nào màng danh chi
Cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy…”
( Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp )
Luôn ấp ủ, ước mơ có một ngày thực sự thanh bình về trên quê mẹ, cờ
tự do tung bay phất phới, đưa vị thế Việt Nam oai hùng, rạng rỡ dưới
minh châu trời Đông.
“ Tôi đi giữa trời bồi hồi
Cờ bay phất phới quên chuyện ngày xưa
Mong sao nước Việt đời đời
Anh dũng, oai hùng vang danh thế giới…”
( Hải Ngoại Thương Ca )
Tâm niệm cho riêng mình về lý tưởng cao cả, người lính Cộng Hòa đi
vào lửa đạn, theo tiếng gọi của hồn thiêng
“ Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông
Kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa….”
( Mấy Dặm Sơn Khê)
Trong mùa chinh chiến, hình ảnh người trai thời tao loạn đậm nét
rạng ngời trong nhạc Nguyễn Văn Đông với nợ nước nặng mang, thỏa chí
tang bồng, mười phương, tám hướng
“ Anh như làn gió ham ngược xuôi theo đường
mây
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương
Nước non còn đó một tấc lòng
Không mờ xóa cùng năm tháng…”
( Mấy dặm sơn khê)
Một bóng dáng trượng phu đầu sóng, ngọn gió, với hình tượng hào
hùng, anh dũng, đẹp như những vần thơ trác tuyệt của người xưa,
thuở: “ Chàng từ đi vào nơi gió cát…’
“ Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng săc trắng như là tuyết in….”
( Chinh Phụ Ngâm Khúc)
Nhưng cũng nồng nàn, thiết tha vô tận, khi bâng khuâng về môt màu kỷ
niệm rưng rưng:
“ Đời tôi quân nhân
Chút tình riêng gửi núi sông
Yêu màu gợi niềm thủy chung
Nhưng rồi vẫn nhớ… một trời vẫn nhớ đời đời…
Phương rơi rơi trong lòng tôi…”
( Sắc Hoa Màu Nhớ)
Nên những phiên gác đêm buốt giá ở đồn xa khi Xuân về khắp nẻo, bỗng
làm người chiến sĩ chạnh lòng:
“ Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chào Xuân đến súng xa vang rền
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi…..
………………………………….
Chốn biên thùy này xuân tới chi
Tình lính chiến khác chi bao người
Nếu Xuân về tang thương khắp lối
Xuân này khó cho vơi, thì đừng đến Xuân ơi!...”
( Phiên gác đêm xuân )
Hay mịt mù, lạnh lẽo, u hoài trong những chiều mưa biên giới:
“ Chiều mưa biên giới anh đi về đâu
Sao còn đứng mãi nơi giang đầu
Kìa rừng chiều âm u rét mướt
Chờ người về vui trong giá buốt
Người về bơ vơ…”
( Chiều Mưa Biên Giới)
Để nghe chút nghẹn lòng, như tiếng thở dài của người muôn năm cũ:
“ Vầng trăng ai xẻ làm đôi.
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường “
( Chinh Phụ Ngâm Khúc)
“ Một người gối chiếc cô phòng
Một người góc núi, ven rừng
Chân mây đầu gió…”
( Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp)
Nhưng nhiệt huyết người trai lại bừng bừng trở dậy, với một niềm tin
tất thắng, giang tay đón chào một ngày mai tươi sáng cho dân tộc
Viêt Nam
“Người về đây giữa non sông này
Hội trùng dương hát câu sum vầy
Về cho thấy con thuyền nước Nam
Đi vào mùa xuân mới sang
Xa rồi ngày ấy ly tan…’
( Hải Ngoại Thương Ca)
Chân dung người lính Cộng Hòa trong nhạc Nguyễn Văn Đông, với tâm
tình người con hai vai nặng mang tình sông núi, là những càm xúc dạt
dào giàn trải gửi về người Me tóc trắng pha sương …
“ Mẹ ơi, lời tâm thư gói trọn tình con viết từ
chiến trường
Mẹ ơi, sầu lo chi tóc già bạc phơ xót xa lòng con…
….
Mẹ ơi, Và con trai của Me ngày mai sẽ về, sẽ về
Mẹ ơi, Me hiền ơi chớ buồn vì con nước non chưa tròn…”
( Lá Thư Người Lính Chiến)
Khát vọng hòa bình khi quê hương tàn chinh chiến cũng là nỗi niềm
chung của những người con gái có người yêu ra chiến trận, ước nguyện
sắt son, chung thủy đợi chờ …
“ Xin cho tôi một niềm tin
Anh ra đi, anh sẽ về
Xin cho màu trăng nguyên thủy của ngày xưa hai đứa…
Soi bước chân chàng đi…”
( Chiếc bóng công viên)
*
Năm tháng dần trôi, chú đã rời đơn vị tác chiến, đề về Bộ Tổng Tham
Mưu Quân Lực Viêt Nam Cộng Hòa.
Thời gian này, người lính ấy vẫn mang hơi thở chiến tranh, luôn giữ tròn khí tiết hùng anh trên từng giòng ca rừng thiêng, biển gọi…
Trở lại Saigon, bước chân chú tìm về cư xá chúng tôi, con đường Trần Hưng Đạo thênh thang với hai hàng cây cao, những cánh hoa sao xoay tròn trong gió…
Có môt mùa trăng cũ, chiều Trung Thu chú đến bất ngờ như chuyện thần tiên.. Tay ôm một chồng mười hộp bánh Trung Thu Tân Tân còn đầy hơi nóng,, hương vị thơm nồng bay ngát không gian. Chị em tôi quây quần, xúm xít nói cười, đùa vui bên chú – người có cuộc sống phiêu bồng như ngàn năm mây trắng….
Tình cảm chú lắng chìm trong dáng vẻ ngoài nghiêm
nghị… Nhưng thẳm sâu là một đại dương mênh mông chứa chan tình nước,
và đầy ắp gắn bó yêu thương tha thiết, tình người…
Dù không thiếu những bóng hồng vây quanh ước mơ cùng được chung đời,
chú Đông tôi vẫn cô độc, lẻ loi đi về một bóng trong căn nhà đường
Lê Lai im lìm, lặng lẽ, mang chút hơi hướng của ngoại ô đèn vàng
giữa đô thị phồn hoa…
Đêm đêm tiếng còi tàu hội ngộ, cùng với chia ly
vẫn ngân lên bên cạnh nhà ga Saigon, hẳn đã xuyến xao lòng chú về
những mùa Giáng Sinh kỷ niệm?
“Mùa Giáng Sinh xưa anh hẹn anh sẽ về
Ngày đó Noel bên hội sao trần thế
Anh có nhớ không anh
Em mặc màu áo xanh lam
Xanh như liễu Đà Lạt
Một chiều đông Giáng Sinh”…
( Màu Xanh Noel)
Hay một mối tình thơ còn vương lại với người con gái da trắng, mắt
nâu bên kia bờ đại dương từ một mùa xuân xanh thắm.
“ Người về còn nhớ khúc hát
Người yêu dấu bên bờ thành Vienne
Lòng này còn quyến luyến mãi…
Đêm Xuân dài mà đâu có hay?...
( Nhớ Một Chiều Xuân).
Nhưng rồi vận nước ngã nghiêng đã khép lại những cánh cửa của môt
tài năng, môt chí khí quật cường, một tấm lòng anh dũng, trung kiên
với quê hương, dân tộc…
Sau gần mười năm tù tội, người lính Cộng Hòa
phiêu bạt trở về với nhiều thương tật, chừng như ngã quỵ với niềm
đau khôn xiết, tuyệt vọng khôn cùng, trong môt hình hài rách nát tả
tơi, cận kề nỗi chết, với tâm trạng:
“ Ta làm gì cho hết nửa đời sau? “
( Cao Tần)
Như một phép nhiệm màu, một ơn cứu rỗi .. dù qua bao cuộc bể dâu,
vẫn còn đó, trái tim của người phụ nữ chân thành, với tình yêu
thương vô bờ bến, đã chung thủy đón chờ người anh hùng lỡ vận về
cùng chung một mái nhà bằng xuôi ngược, tần tảo, hy sinh…. cho chú
một cuộc tái sinh diệu kỳ khi Việt Nam vẫn còn dài đêm tối...
Xin cúi đầu trước tình người mênh mông biển cả. Tấm lòng người phụ nữ hậu phương dành cho người tiền tuyến khi tàn cơn binh lửa vẫn đậm nghĩa trước sau ….
Và chú sau bao thăng trầm, đã chọn ở lại quê hương, sống âm thầm để giữ khí tiết thanh cao trong phần đời còn lại.
Người lính Cộng Hòa trung trinh vẫn chưa quên lời
tuyên thệ, chỉ quỳ dưới môt bóng cờ, và hát bài quốc ca sắt son duy
nhất…
Chú thân yêu,
Như một nén hương lòng thắp muộn, trong tưởng
niệm ngậm ngùi từ góc khuất của môt nẻo trời xa, con – tất cả chị em
con – cố ngăn giòng nước mắt đưa tiễn chú về môt nơi bình an miên
viễn. Có phải chú đã gặp lại Ba con sau nhiều năm xa cách, kể chuyện
đời lính kiêu hùng, hiến dâng một thời tuổi trẻ khi tổ quốc hưng
vong…
Và vẫn ngẩng mặt, cao đầu để tồn tại trong biến cố lịch sử đau
thương, nghiệt ngã. Vẫn giữ tròn khí tiết của môt người phụng sự
chính nghĩa quốc gia. Là một bản hùng ca bi tráng!
Chú đã nối bước tiền nhân viết thêm ngàn trang sử quý…
Nhân cách ấy sẽ còn sống mãi trong lòng người yêu
thương chú….
Và con đường chú đi, sẽ tiếp nối đến nghìn sau..
Xin chào vĩnh biệt – người chiến sĩ Nguyễn Văn Đông.
M.H.HOÀI LINH PHƯƠNG
Hoa Thịnh Đốn tháng 03/2018.
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Còn nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng nghìn cay
Con đường
tôi về
Hãy còn đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Bãi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ mình!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai mì
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Ký ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và giòng sông Mã
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
tình trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cõi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nhìn lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
Còn
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lý Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
Tìm chốn
thanh bình
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ còn nỗi
nhớ
Tình huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Võ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện tình trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
Tình anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con còn
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
còn mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài Gòn
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
Hình-tượng người LÍNH qua dòng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In hình chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai hình ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
lòng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lãng quên
Gói
trọn mảnh tình quê vào đòn bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi