Tràm Cà Mâu
Tuổi già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, v́ biết ḿnh
c̣n sống. Đại ư viết như vậy, trong một cuốn sách Mỹ mà ông Tư đọc
được, làm ông thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi
vừa tỉnh giấc. Bạn bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đă về với
Diêm Vương khi c̣n trẻ măng, v́ cuộc tương tàn khốc liệt dài ngày
trên quê hương. Nhiều người khác gục ngă trong trại tù v́ đói khát,
bệnh tật, mồ hoang vùi cạn. Một số khác nữa, v́ khao khát tự do mà
chôn thân dưới đáy biển, hoặc chết khô giữa rừng sâu. Không ít người
c̣n lại, tử thần cũng đă đón mời v́ bạo bệnh, khi tuổi năm sáu mươi.
Phần ông vẫn c̣n dai dẳng sống sót cũng là ân huệ trời ban, không
vui hưởng tháng ngày, cũng uổng lắm sao!
Ư nghĩ đó làm ông mỉm cười sung sướng. Ông vẫn trùm thân trong chăn
ấm. Tội chi mà dậy sớm cho mệt. Mỗi khi nghe tiếng khởi động máy xe
từ hàng xóm vọng qua trong buổi tinh sương, ông càng vui sướng hơn,
v́ không c̣n phải vùng dậy giữa đêm đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng
ngày như mấy gă trẻ tuổi ở cạnh nhà. Về hưu rồi, mỗi tuần hưởng bảy
ngày chủ nhật, bảy ngày thảnh thơi. Hết áp lực của công việc hàng
ngày, không phải lo lắng bị thất nghiệp khi kinh tế khủng hoảng
xuống dốc. Khoẻ re.
Cứ nằm trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru đưa, phát ra từ cái
radio nhỏ, có khi ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon lành.
Ngủ chán th́ dậy. Bước xuống giường, dù khớp xương sưng đau, đi khập
khễnh ông cũng thầm cám ơn cái chân chưa liệt, c̣n lê lết được. Chưa
phải nằm dán lưng vào giường như một số người bất hạnh khác. Những
kẻ này mà nhích được vài bước cà thọt như ông, th́ chắc họ cũng
sướng rân người. Ông thầm bảo, có thêm được một ngày để sống, để
vui, để yêu đời.Bệnh hoạn chút chút, th́ phải mừng, chứ đừng có nhăn
nhó than văn ỉ ôi.
Mỗi khi đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: “Ḿnh sướng như vua rồi, có
nước máy tinh khiết để dùng. Giờ nầy, cả thế giới, có hơn một tỉ
người thiếu nước để nấu ăn, để tắm giặt và nhiều tỉ người khác không
có nước sạch, phải uống nước dơ bẩn.” Dù cái bàn chải đánh răng đang
ngọ ngoạy trong hàm, ông cũng ư ử hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy
nước lên mặt, ông cảm được cái mát lạnh và niềm sung sướng chứa chan
đang lan tỏa chạy khắp người. Ông biết đang được ân sủng của trời
đất ban chotrong tuổi già. Ông cứ nhớ măi thời đi tù Cộng Sản, mỗi
ngày chỉ có được một lon nước chừng một lít, để rửa ráy tắm giặt.
Chừng đó thôi, mà cũng xong việc. Khi ấy, thấm cái khăn ướt lau khắp
người, nghe mát rượi, đă đời, và khi c̣n lại một phần nước cặn đen
ng̣m dưới đáy lon, cầm đổ lên đỉnh đầu, sướng đến rên lên được.
Ngồi lên cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ, trắng toát, thơm tho,
không vướng một chút mùi vị hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng, có nhạc
văng vẳng từ radio, ông cầm cuốn sách thưởng thức chữ nghĩacủa
“thánh hiền”, tư tưởng của Đông Tây. Không bao giờ ông quên cùng giờ
phút nầy, có hơn ba tỉ nhân loại không có cầu tiêu để làm cái chuyện
khoái lạc thứ tư. Có người phải ra đồng lồng lộng gió, mà làm chuyện
“nhất quận công, nh́ ị đồng”. Phải gấp gấp cho xong chuyện, không
nhẩn nha được, v́ hai tay phải múa lia lịa hất ra đàng sau, để xua
đuồi lũ ruồi đồng đang vo ve “oanh tạc”. Xong việc, may mắnlắm th́
có lá chuối khô mà lau chùi, c̣n không th́ dùng đất cày, đá cục, nắm
cỏ, que nhánh cây tươi, khô. Ông cứ nhớ thời làm việc ở quận lị, chỉ
có nhà tiêu lộ thiên, hai tấm ván bắt ngang qua một hầm cầu lộ
thiên, nắng xông hơi phân người lên nóng hừng hực rát cả mặt, bên
dưới gịi bọ lúc nhúc lổm nhổm làm thành một tấm màn trắng-ngà
chuyển động. Có con gà ở đáy hầm, nó đang thưởng thứcngon lành món
gịi bọ, thấy ông xuất hiện bất thần, sợ hăi hoảng hốt đập cánh bay
lên kêu quang quác và vung văi ‘ám khí’ khắp trong không gian, làm
ông cũng khiếp viá, ôm đầu phóng chạy dài. Nghĩ đến chừng đó thôi là
ông đủ cảm được cái sung sướng đang có ngay bây giờ. Ngồi thật lâu,
đọc cho xong mấy trang sách, mới nhởn nhơ rời pḥng.
Ông Tư tự đăi một b́nh trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi
cháo gạo tẻ đặc rền ăn với cá kho mặn. Dọn ra bàn, đèn vàng soi một
khoảng ấm cúng. Ông thong thả vừa hớp nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng
cháo, chất gạo béo tạo vị giác đi qua trong cổ họng. Ông lầm
thầm:“Ngon, cao lương mỹ vị cũng không bằng”. Ông thường ngâm nga
hai câu thơ :
“Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng.
Ba nguồn thân thiết dạt dào thương”.
Mắt ông dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ư
lời hoa gấm. Ông trầm ḿnh vào những gịng thơ, tim xao xuyến xúc
động mênh mang. Thỉnh thoảng ông dừng lại, và nói nhỏ cho chính ông
nghe: “Tiên trên trời cũng chỉ sướng và thong dong như thế này là
cùng”. Ông nhớ đến cái thời “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
lên xă hội chủ nghĩa”, buổi sáng bụng đói meo, vác cuốc đi làm lao
động tay chân nặng nhọc, ráng uống một bát nước lă để cầm hơi và
đánh lừa cái bụng đang sôi sồn sột. Bây giờ được như thế nầy, phải
biết cám ơn ân sủng của trời ban cho. Biết bao nhiêu tỉ người trên
thế giới này mơ ước được có một buổi sáng thảnh thơi và no ấm như
ông mà không được nhỉ?
Nh́n xuyên qua cửa pḥng ngủ, ông thấy bà vợ nằm ngủ giấc yên b́nh,
ḷng ông dạt dào niềm thương. Bà đă cùng ông mấy mươi năm dắt d́u
nhau trong phong ba băo táp của gịng đời nghiệt ngă. Đă chia sẻ
ngọt ngào cũng như đắng cay của một thời khói lửa điên đảo. Giờ này,
may mắn vẫn c̣n có nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm thiết,
nhường nhịn nâng đỡ chăm sóc ngày đêm. Không như những cặp vợ chồng
già khác, cứ lục đục gây gỗ nhau, tranh thắng thua từng li từng tí,
làm mất hạnh phúc gia đ́nh. Ông thương bà biết an phận thủ thường,
không đứng núi ầy trông qua núi nọ. Ông thấy bà hiền lành và có trái
tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào pḥng, hôn bà lên trán, nhưng
ngại làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng. Ông lại cám ơn trời đă đem
bà buộc vào đời ông. Ông cười và nhớ câu nói của một nhà văn nào đó:
“Đời sống không thể thiếu đàn bà, nhưng sống được với một người đàn
bà không phải dễ.”
Ông Tư ra vườn. một mảnh đất nhỏ trồng vài cây hoa, hương thơm
thoang thoảng, có tiếng chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy đoá hoa
sặc sỡ c̣n đọng sương đêm lóng lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt
ông, tạo thành một cảm giác dịu dàng, êm ái. Ông vươn vai, xoay
người trong thế thể dục chậm, xương sống được thư giăn kêu răng rắc,
đă đời. Hít thở và phất tay chừng mười lăm phút cho máu huyết lưu
thông. Loại thể dục nầy đă giúp ông bớt được những cảm mạo thông
thường, ông tin vậy.
Ông Tư thay áo quần để đi ra đường. Cầm cái áo lành lặn bằng vải tốt
trên tay, ông thường nhớ đến thời đi tù, khâu bao cát làm áo, rách
tả tơi, không đủ che gió lạnh thấu xương của núi rừng. Thế mà cũng
có nhiều tù nhân khéo tay và nghịch ngợm, khâu bao cát thành bộ đồ
lớn, đủ ba mảnh, và làm luôn cả cái “cà vạt”, mang vào trông cũng
sang trọng như đi ăn đám cưới. Nhớ lại thời đó mà rùng ḿnh. C̣n
sống sót, và đến được đất nước tự do này, cũng là một điều mầu nhiệm
lạ lùng. Ông Tư đi ra đường, xe cộ vùn vụt qua lại liên miên. Lề
đường rộng, phẳng phiu, sạch sẽ. Bên kia là giao điểm của hai xa lộ,
các nhánh cầu cao đan uốn éo chồng chất lên nhau, ṿng vèo trên
không, như những nùi rối. Ông Tư thầm cám ơn tiền nhân đă đổ sức
lực, mồ hôi, tài nguyên khai phá và xây dựng nên những tiện nghi nầy
cho ông nhảy xổm vào hưởng dụng, mà không ai có một lời ganh ghét,
tị hiềm.
Ông, từ một trong những nước lạc hậu nhất của hành tinh nầy, bị
chính quyền cuả xứ ông bạc đăi, kỳ thị, kềm cặp và lấy hết các tự do
cơ bản. Đến đất nước này, ông được b́nh đẳng, có công ăn việc làmhợp
với khả năng, con cái ông được đến trường, học hành thành tài, có
nghề nghiệp vững chắc và sống với mức trung lưu. Ông cảm thấy c̣n nợ
quê hương mới nầy quá nhiều thứ, từ tinh thần đến vật chất, mà biết
không bao giờ trả lại được một phần nhỏ nào. Ông Tư vừa đi bộ vừa ca
hát nho nhỏ.
Một người cảnh sát cao lớn dềnh dàng đi ngược đường chào ông, ông
chào lại bằng lời cám ơn đă giữ ǵn an ninh cho dân chúng sinh sống.
Người cảnh sát cười và nói đó là bổn phận, v́ lương bổng của ông ấy
được trả bằng thuế của dân chúng, trong đó có ông. Ông Tư thấy trong
ḷng b́nh an, ông không làm điều ǵ phạm pháp, th́ không sợ ai cả.
Ông đọc trong báo, thấy có những xứ, dù không làm ǵ sai quấy cả,
cũng bị cảnh sát giao thông chận lại đ̣i tiền, nếu không cho tiền,
th́ bị quy kết đủ thứ tội mà ḿnh không có.
Nắng chiếu hoe vàng cả dăy phố của một ngày thu, ông Tư bước đi mà
ḷng rộn ră. Gặp ai cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi nồng
nhiệt, mọi người đều vui theo. Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu
rĩ đi ngược đường, ông Tư lớn tiếng:
“Chào cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời nắng đẹp quá!” Ông cụ trả
lời qua loa: “Tàm tạm, chưa chết! Chán cái mớ đời.” Ông Tư nói to:
“Việc chi mà chán đời cho mệt cụ ơi. Chưa chết là vui lắm rồi. Cụ có
biết là chúng ta đang sung sướng phước hạnh, tội chi phí phạm thời
gian để buồn nản?” Ông cụ thở dài: “Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời
đâu có giản dị! À, nầy, mà h́nh như ông đau chân, bước đi không được
b́nh thường? Thế th́ vui nỗi ǵ? ” Ông Tư cười lớn: “Vâng, tôi đau
chân, nhờ đau chân mà tôi thấy được niềm vui hôm nay lớn hơn, v́ c̣n
đi được, bước được, chứ chưa phải nằm nhà. Cụ ơi, nếu lo âu mà giải
quyết được những khó khăn, th́ nên lo. Nhưng nếu lo âu, mà không
giải quyết chi được, th́ hăy vui lên, cho đỡ phí phạm ngày tháng
trời cho” Ông cụ già lắc đầu bỏ đi.
Ông Tư xà vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công viên dưới tàng cây
có bóng nắng lung linh. Nh́n bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn lộn
trên băi cát, ông vui lây với cái hồn nhiên của chúng. Bên kia đồi
cỏ, có đôi nam nữ nằm dưới gốc cây, kê đầu lên tay nhau, tóc đổ dài
óng ánh, thỉnh thoảng vang tiếng cười rúc rích. Đất nước nầy ấm no
và thanh b́nh quá, sao có nhiều người c̣n kêu ca đời sống khó khăn?
Phải chăng những kẻ này chưa biết an phận, muốn được nhiều hơn điều
đang có, đang đủ. Không thấy được phước hạnh là lỗi tại họ. Ông dong
tay bắt vài tấm lá rơi đang quay cuồng trong gió và lấy bút ghi lên
mặt lá mấy gịng thơ vừa thoáng qua trong trí để ca ngợi cuộc đời.
Thấy băi cỏ êm mát, ông nằm dài, những ṿng tṛn sáng màu vàng rải
rắc trên mgười ông. Gió hiu hiu mát từ hồ nước vờn qua làmmơn trớn
thịt da. Ông Tư rút từ túi quần một cuốn sách nhỏ có nhan đề “14
ngàn điều làm nên hạnh phúc”. Tác giả tập sách nhỏ nầy, thấy đâu đâu
cũng là hạnh phúc tràn đầy. Vấn đề là cảm nhận được cái sung sướng,
cái hạnh phúc đang có. Từ việc đặt chân lên một tấm thảm mềm êm ái,
đến việc cắn một trái ngọt chín mọng trong miệng, đến mơ mộng được
hát trên bục một hộp đêm, nghe một lời nóidịu dàng yêu thương…
Hạnh phúc và sung sướng cảm nhận được từ những điều rất nhỏ nhặt,
đơn sơ, tầm thường nhất trong sinh hoạt hàng ngày. Không cần phải là
ôm chặt người yêu trong ṿng tay, cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn
trên giường, cũng không cần đến việc cầm trong tay cái vé số trúng
độc đắc, hoặc làm chủ được một ṭa lâu đài sang trọng… Ông nghĩ,
chắc sẽ có người cho tác giả tập sách nầy là kẻ “lạc quan tếu”.
Nhưng thà lạc quan tếu hơn là bi quan.
Đời nầy, có nhiều người đắm ḿnh trong hạnh phúc, mà cứ tưởng đang
ngụp lặn trong bể khổ. Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và
xem thường, chỉ khi mất đi, hay đă trôi qua, mới biết, th́ đă quá
muộn màng.
Nắng đă xông hơi nồng nóng, ông Tư đón chuyến xe buưt ra về. Cái vé
xe cho người già rẻ rề, chỉ bằng một phần ba vé b́nh thường. Ông nói
lời cám ơn tài xế, và thấy mang ơn những người cùng đi xe công cộng
nầy, v́ xem như họ đă gián tiếp gánh một phần tiền vé cho ông.
Về nhà, bà Tư đă dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa ráy cho sạch sẽ mà ra
ăn. Thấy ly nước chanh muối, ông cầm uống, chất nước ngọt ngào mằn
mặn chua chua, ngon lành đi qua cổ họng. Ông nh́n vợ với ánh mắt
thương yêu và nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn, mà thấy bát canh
bông bí nấu tôm đă biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với ông,
c̣n ngon hơn sơn hào hải vị.
Ăn xong, c̣n chút cơm thừa, bà Tư bỏ vào chén, cất vô tủ lạnh, không
dám đổ đi, v́ sợ phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của ông: “Ngay
giờ khắc nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói ră,
không có một miếng ǵ đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng,
và nhiều tỉ người khác quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà
thôi.” Đă từng đói, nên ông bà không dám phí phạm thức ăn.
Ông Tư mừng v́ ăn c̣n thấy ngon miệng, không như một số người khác,
ăn ǵ cũng như nhai đất sét, không muốn nuốt, v́ nhạt miệng, mất vị
giác. Một số người khác c̣n tệ hại hơn nữa, họ không c̣n ăn bằng
miệng được, mà ăn bằng bụng, nhờ ống dẫn thức ăn nối với dạ dày, như
đổ xăng cho xe hơi.
Ông Tư ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin tức thế giới biến
động. Đôi khi thấy gía thị trường chứng khoán tụt dốc xuống thấp,
làm nhiều nhà b́nh luận lo ngại. Nhưng ông Tư cười, ông chẳng thèm
để ư, không cần quan ngại chi cả. Chứng khoán lên hay xuống, cũng
thế thôi. Ông có lo ngại hay quan tâm cũng chẳng thay đổi được ǵ.
Với số tiền hưu khiêm tốn, và cách ăn tiêu trong khả năng tài chánh,
ông bà Tư chưa bao giờ thấy thiếu thốn cái ǵ. Có một ông bạn khoe
rằng nay đă thành triệu phú. Bà Tư đùa và hỏi, triệu phú th́ khác
người không là triệu phú cái ǵ? Ông bạn lúng túng ấp úng không biết
phải trả lời ra sao. Nhưng ông bà Tư chắc chắn rằng, họ ít tiền,
nhưng được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều người giàu triệu phú khác.
Ông Tư rà mắt qua các tin tức và các biến cố mới nhất. Thật là tuyệt
diệu và thần kỳ. Chuyện vừa xảy trong giờ trước, đă được tường thuật
ngay. Dạo một ṿng tin tức xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè.
Có những người bạn xa cách hàng ngàn dặm, mấy chục năm nay chưa gặp
lại nhau, mà thư từ qua lại liên miên, tưởng như gần gũi trong gang
tấc. Tha hồ hàn huyên tâm sự. T́nh cảm qua lại thân thiếtchứa chan.
Nhờ máy vi-tính, khi viết, tha hồ bôi xoá tẩy sửa lung tung, mà
không cần phải xé tờ nầy, viết lại tờ kia, vô cùng tiện lợi. Thư
viết xong, chỉ cần một cái nhấp con chuột, bạn ông nhận được ngay
tức th́. Không cần phải nhờ bưu điện chuyển đi có khi cả tuần mới
đến. Hàng chục lá thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới chuyển đến
ông đủ điều hay, lạ, nhiều bài thuốc hiệu nghiệm, trăm bản nhạc du
dương, ngàn h́nh ảnh tuyệt vời của các thắng cảnh thiên nhiên, các
đoạn phim ngắn đủ thể loại của nhiều vấn đề khác nhau. Ông cám ơn
khoa học kỹ thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông lại gần gũi trong
không gian và cả thời gian.
Mỗi khi nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời, ông Tư mừng cho họ
thoát được thời gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều người nằm
liệt vài ba năm, không sống, không chết. C̣n có những kẻ phải cưa
tay cưa chân. Ông vẫn thường mong sau này, nếu được chết, th́ chết
mau chóng, yên lành, khỏi qua thời gian bệnh hoạn lâu ngày.
Có một bạn già mỉa mai, cho ông Tư là “kẻ tự sướng” ông chỉ cười và
nói : “Thà tự sướng hơn là tự khổ”
Ông Tư thường nghĩ rằng, ông đă và đang được quá nhiều phước hạnh
của trời ban, nhiều ân nghĩacủa nhân loại, xă hội, nhiều t́nh thương
của gia đ́nh, bạn bè, người quen và cả chưa quen. Ông thấy sung
sướng hạnh phúc. Ông tội nghiệp cho những người suốt đời than van,
nắng không ưa, mưa không chịu, và tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của
họ, và d́m đời vào bất măn, khổ đau./.
Tràm Cà Mau
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi