Dương Nghiễm Mậu
Nổi tiếng với các tác phẩm Tuổi Nước Độc, Gào Thét, Buồn Vàng, Con
Sâu… Dương Nghiễm Mậu c̣n là một phóng viên Quân Đội từ 1966, sau
nhập ngũ. Các phóng sự tiền tuyến của nhà văn luôn bật lên sự tha
thiết của quê hương. Không phải là sự sống động của một trận đánh mà
là sự nghiệt ngă của dân chạy loạn. Câu hỏi mà Dương Nghiễm Mậu đặt
ra: ”Dân số Quảng Trị có hơn ba trăm ngàn, con số c̣n bị kẹt lại
khoảng 50 ngàn, tôi thấy số dân chúng ra đi thật lớn lao và thực sự
là đau đầu với chính người cộng sản khi tới chiếm Quảng Trị. Họ phải
nói thế nào với quốc tế về điều họ vẫn nói: dân chúng ủng hộ họ, và
về chiêu bài giải phóng vẫn không ngớt được nói đến. Không, dân
chúng đă ra đi khi người cộng sản đến. Không có dân, đất đai c̣n có
nghĩa ǵ nữa?”; Quang cảnh mà Dương Nghiễm Mậu chứng kiến: “Chung
quanh tôi mỗi lúc một đông người, mỗi người góp một câu chuyện, ai
cũng trông mong được sống ở Đà Nẵng và chờ ngày trở lại quê hương
của họ, tôi cũng đă được nghe câu chuyện thương tâm của một người mẹ
kể lại cái chết của con ḿnh trên chuyến đi Nam, đứa con của bà đă
chết trên chiếc thuyền của gia đ́nh trong khi vượt biển vào cửa
Thuận. Tôi mường tượng thấy cảnh tượng bi hùng của chuyến ra đi,
cảnh tượng giống như những người dân miền Bắc trong vụ Trà Lư, những
người đă chọn để được sống tự do hoặc là chết… Gần hai mươi năm sau,
cảnh tượng đó lại tái diễn một lần nữa”; sẽ lặp lại tháng 4-1975 rồi
tiếp tục sau đó.
Với Bắc quân, câu hỏi c̣n nguyên: “Giải phóng ǵ?”
Thông tin không phá hủy chất văn, Quảng Trị Đất Đợi Về toát ngời khí
hậu của Mậu truyện mà người đọc c̣n nghe thấy “một không khí ch́m
ch́m nhưng đầy đe doạ”, c̣n trông thấy hoa phượng đă “trở thành
những vũng máu đọng chờ khô của một cái chết”. Thời điểm của phóng
sự, là ngay sau khi Quảng Trị thất thủ, Cộng quân áp sát sông Mỹ
Chánh uy hiếp Huế.
[Trần Vũ]
Mỗi lần trước khi trở lại miền Trung, điều tôi thường hỏi: ngoài đó
bây giờ mưa hay nắng. Lần này cũng thế, người em tôi vừa từ Huế trở
về sau hai mươi ngày công tác nói: trời đang nắng và thành phố đầy
hoa phượng, hoa sen. Bây giờ ngoài đó mùa hè và tôi nhớ tới không
khí oi bức trong những chuyến đi cũ vào những thời gian đầu mùa hè:
hoa phượng đỏ trên những ngọn cây, hoa sen nở đầy trong hồ Tĩnh Tâm,
chung quanh trường thành, những trái nhăn nhỏ sai trên ngọn cây
trong Thành nội.
Nhưng khi tôi đặt chân tới Đà Nẵng, buổi chiều mây thấp và mưa nhỏ
hạt. Người bạn nói với tôi trời mới đổ mưa từ buổi sáng. Tôi nh́n
thấy mây thấp trên phía đèo Hải Vân. Đà Nẵng mưa th́ chắc Huế mưa.
Tôi hỏi về con đường qua đèo, người bạn nói: đi được như thường, hôm
qua hơi bị kẹt v́ cầu Nam Ô bị gẫy. Tôi hỏi cây cầu nào. Anh bạn
nhắc lại: cầu Nam Ô. Tôi nói không phải, tôi biết ở đó có hai cây
cầu, tôi muốn biết cầu nào v́ trong chuyến đi trước, cây cầu mới xây
cất, thứ cầu cho những xa lộ chưa dùng được, hôm trước đă có tin cho
biết cầu Nam Ô bị sập, nhưng là cây cầu cũ, cầu xe lửa, người bạn
nói, bây giờ th́ cả hai nhưng đang được sửa chữa. Trời mây thấp, mưa
nhỏ hạt, những sự di chuyển ướt át khiến cho thị trấn có một khung
cảnh đ́u hiu.
Tôi gởi hành lư lại nhà người bạn rồi chạy quanh, vẫn khung cảnh
quen thuộc, thêm một vài ngôi cao ốc đang được xây cất nhưng chừng
như công việc đă ngừng lại, những trường học trở thành trại tạm cư.
Tại trường nữ, tôi thấy những nữ học sinh ngồi gác cổng ra vào trong
khi đó có một gia đ́nh th́ chất hành lư lên hai chiếc xích lô, tôi
hỏi và được biết: họ dời ra trại Hoà Khánh. Trại tạm cư Nguyễn
Thượng Hiền cũng đă đóng cửa với tấm vải lớn kẻ những hàng chữ cho
thấy những người tỵ nạn đă ra sống ở trại tạm cư Hoà Khánh.
Đi bộ trên đường phố tôi thấy số xe ôm gia tăng với những chiếc xe
ghé lại lề đường. Buổi chiều báo từ Sàig̣n ra trễ và những nhà sách
đông người ghé lại đợi chờ những tờ báo phát hành từ chiều hôm trước
tại Sàig̣n… Tôi ghé lại nhà những người quen, nơi nào cũng có những
người thân từ Quảng Trị, từ Huế vào tạm trú, một vài người đă trở
lại Huế, hoặc đi Sàig̣n, tôi được nghe nói về những người tỵ nạn đă
vào Chu Lai, đă đi Long Khánh.
Một gia đ́nh trong khi chạy khỏi Quảng Trị đă bị thất tán, một nửa
vào được Đà Nẵng, c̣n một nửa không biết đâu, những người thân đang
đi t́m kiếm nhau. Đài phát thanh Đà Nẵng với mục nhắn tin đài của
những người ở Quảng trị t́m tin cha, t́m mẹ, chồng con thất lạc. Có
những đứa trẻ tám chín tuổi bị lạc gia đ́nh trên đường chạy giặc.
Theo dơi mục nhắn tin tôi thấy nỗi tan hoang đối với hơn ba trăm
ngàn dân chúng vùng giới tuyến.
Trại tạm cư lớn nhứt ở Đà Nẵng dành cho Quảng Trị nằm ở Hoà Khánh,
một Quận ở ngoài Thị xă, nằm phía nam đèo Hải Vân, ngay ven quốc lộ
Một. Tôi ngạc nhiên khi vừa từ thị xă tới đây lúc đứng trước một ngă
ba đường có tấm bảng lớn sơn xanh, kẻ chữ trắng hàng chữ: QUẬN GIO
LINH.
Quận Gio Linh, tôi nói với người bạn: quận Gio Linh ở Đà Nẵng! Tôi
nhớ tới nơi tôi đă từng ghé lại trong những năm trước trên đường
công tác. Ngày ấy tôi theo quốc lộ Một vượt Đông Hà ra tới đồn A2
nằm ngoài cùng giáp với vùng phi quân sự sau khi Quân Đội ta đă bỏ
chân cầu Hiền Lương trở vào trấn đóng phía trong gần với quận Gio
Linh. Trên con đường đầy những bom đạn tôi chỉ thấy những cánh đồng
hoang vu không bóng người, dân chúng đă phải rời làng mạc trở vào
sống trong khu định cư Hà Thành, c̣n lại chăng một số thôn ấp nhỏ bé
nằm ở giữa quốc lộ với bờ biển, c̣n lại phía Tây quốc lộ th́ coi như
b́nh địa với vùng oanh kích tự do.
Nay Gio Linh chỉ c̣n là tên gọi của một vùng đất. Hai tiếng Gio Linh
đă đi theo dân chúng vào Đà Nẵng. Bỏ quốc lộ đi sâu vào gần bờ biển,
nơi đây có hàng trăm lều vải mới được dựng lên cho dân chúng tạm
trú. Người trưởng trại ngày nay là ông Quận Trưởng của vùng đất cũ.
Vị Thiếu Tá này người nhỏ bé trong bộ đồ đen nói cho tôi biết qua
t́nh h́nh dân chúng, ông không thể đoán chắc về số dân chúng tại Gio
Linh đă ra đi, v́ hiện dân chúng không những chỉ sống tại Đà Nẵng,
họ c̣n vào Chu Lai và nhiều nơi khác nữa, con số phỏng chừng khoảng
28 ngàn người ra đi so với dân hơn ba chục ngàn người. Ông kể lại
cho tôi nghe những ngày kinh hoàng ở Quảng Trị khi đoàn người rời
khỏi nơi đây để vào Huế: cả đoàn xe bị ḿn và pháo kích, nhiều người
bị thương phải nằm lại với tiếng kêu la thảm thiết…
- Ông thấy dân chúng có muốn đi vào lập nghiệp ở trong Nam không?
- Phần lớn dân chúng không muốn đi, họ mong trở lại Gio Linh.
Khi tôi từ trong lều đi ra th́ có một người đàn ông giữ tôi lại và
hỏi tôi có phải nhà báo không? Tôi nói không phải. Ông ta nói điều
muốn nhờ. Tôi nói cho tôi biết. Sau đó ông ta giới thiệu là một
người thuộc làng Gia Hải, một làng phần lớn sống bằng nghề chài lưới
tại Cửa Việt, tôi ngạc nhiên khi biết dân chúng tại làng này đă cùng
nhau xuống thuyền đi về phía Nam bằng những chiếc thuyền đánh cá nhỏ
bé của họ. Điều mà người này muốn nhờ tôi là: tranh đấu cho họ được
ở lại Đà Nẵng sinh sống, họ chỉ cần giúp đỡ lương thực một tháng đầu
rồi sẽ tự túc bằng nghề đánh cá của ḿnh.
Sau đó ông ta cho tôi thấy, dân chúng tại Gia Hải đưa được vào Đà
Nẵng 150 chiếc thuyền, chuyến ra đi của họ hết sức gian khổ, trước
hết khi ra khỏi Cửa Việt họ đă bị cộng quân ngăn cản, súng đă nổ vào
đoàn thuyền, một số dân chúng đă không ra đi được v́ những làn đạn
này, nhiều người đă bị thương và chết trong chuyến ra đi, trước hết
họ tới được cửa Thuận An. Sau đó tới Thuận An vào trong băi biển Đa
Phước.
Khi tôi nói tới chuyện đi vào miền Nam, ông ta nói chính phủ có thể
mang được người đi nhưng c̣n thuyền bè của chúng tôi th́ sao, chúng
tôi sống bằng nghề biển như vậy làm sao để thích ứng với nghề nông
trong khu vực khai hoang? Chung quanh tôi mỗi lúc một đông người,
mỗi người góp một câu chuyện, ai cũng mong được sống ở Đà Nẵng và
chờ ngày trở lại quê hương của họ, tôi cũng đă được nghe câu chuyện
thương tâm của một người mẹ kể lại cái chết của con ḿnh trên chuyến
đi Nam, đứa con của bà đă chết trên chiếc thuyền của gia đ́nh trong
khi vượt biển vào cửa Thuận. Tôi mường tượng thấy cảnh tượng bi hùng
của chuyến ra đi, cảnh tượng giống như những người dân miền Bắc
trong vụ Trà Lư, những người đă chọn để được sống tự do hoặc là
chết… Gần hai mươi năm sau, cảnh tượng đó lại tái diễn một lần nữa.
Câu hỏi mà tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần với những người đă gặp là:
tại sao không nghĩ tới việc vào các vùng đất an ninh, ph́ nhiêu ở
Nam lập nghiệp? Tất cả đều nói: chúng tôi chờ đợi trở về. Trở về, họ
như gắn liền với đất đai khô khan cực nhọc, họ không muốn rời khỏi
quê hương nơi có những mái tranh nghèo, những mồ mả tổ tiên, nơi họ
đă được sinh ra và lớn lên trong nỗi nhọc nhằn.
Trước đây, ngay từ thời Đệ nhất Cộng hoà, công việc di dân lập ấp
được đặt ra, dân chúng tại đây cũng đă từ khước ra đi, ngày nay họ
vẫn không thay đổi ư muốn đó. Chừng như quê hương càng đau khổ, đời
sống càng nhọc nhằn người dân càng gắn bó keo sơn với nó. Vùng Gia
Đẳng, Gia Hải… những vùng cát trắng khô khan kia vẫn c̣n lại những
ǵ mà người dân thấy không thể bỏ nó mà ra đi được cho dù họ biết
chắc rằng ra đi họ sẽ có một nơi sung sướng hơn, đầy đủ hơn.
Những gia đ́nh với hành lư nghèo nàn ở trong trại tạm cư chia nhau
những diện tích nhỏ hẹp để sống, những trẻ con vẫn nô giỡn trên băi
cát, những bà mẹ vẫn nhẫn nại nhóm những bếp lửa nhỏ lo bữa ăn đạm
bạc hàng ngày. Tôi thấy chiếc áo màu của một sinh viên ra đây lo cứu
trợ như lạc lơng với khung cảnh.
Trại tạm cư Hoà Khánh lớn lao hơn nhiều trại tạm cư dành cho dân
thuộc Quận Gio Linh. Nơi đây bao gồm dân chúng thuộc nhiều Quận,
phần lớn họ được sống trong những ngôi nhà tôn của một trại binh Mỹ.
Những con đường trong trại tráng nhựa phẳng ĺ c̣n tốt nguyên vẹn,
nhưng những ngôi nhà th́ phần lớn đă hư v́ thời gian, nhiều vách gỗ
đă bị gỡ, những bao cát phần lớn đă mục khiến cho khung cảnh có vẻ
điêu tàn. Ngay trong những ngă tư đă có những hàng quán giải khát,
dân chúng như đă bắt tay ngay vào việc t́m sống. Nhiều người lo đi
t́m kiếm những người quen, người ra kẻ vào tấp nập.
Đại Tá Hoà, người tôi gặp lúc ông cầm đầu một phái đoàn, là vị Tỉnh
Trưởng Quảng Trị. Ông mới về làm Tỉnh Trưởng được ba tháng, nay ông
đă ở Đà Nẵng với những người tỵ nạn. Trông ông thấy phảng phất một
vẻ buồn. Dân số Quảng Trị có hơn ba trăm ngàn, con số c̣n bị kẹt lại
khoảng 50 ngàn, tôi thấy số dân chúng ra đi thật lớn lao và thực sự
là đau đầu với chính người cộng sản khi tới chiếm Quảng Trị. Họ phải
nói thế nào với quốc tế về điều họ vẫn nói: dân chúng ủng hộ họ, và
về chiêu bài giải phóng vẫn không ngớt được nói đến. Không, dân
chúng đă ra đi khi người cộng sản đến. Không có dân, đất đai c̣n có
nghĩa ǵ nữa?
Người thanh niên ấy có nước da ngăm đen, vẻ ngơ ngác trên mắt nh́n,
g̣ má cao, cằm vuông, anh hơi chút mỉm cười ngậm ngùi khi tôi hỏi
anh về chuyến hành tŕnh đă trải qua. Anh lặng đi rất lâu, giọng anh
trầm xuống, có lúc tôi chỉ thấy môi anh mấp máy và như tiếng nói
biến mất: trước hết chúng tôi về Quảng Trị, thực chúng tôi không
nghĩ có lúc sẽ ở đây, nếu biết vậy chúng tôi đă đi thẳng tới đây,
chúng tôi không ai nghĩ thế cả, nhưng rồi chúng tôi phải đi khỏi
Quảng Trị, ngày đó là ngày mấy nhỉ, không rơ là 28 hay 29 ǵ đó, mà
chừng như…, phải rồi, pháo kích, rồi ḿn anh ạ, rồi cả một cuộc giao
tranh nữa, những chiếc xe nổ tung, những thân người văng lên, tan
tác những tiếng kêu khóc thảm thiết, mạnh ai nấy chạy, không c̣n ai
nghĩ tới chuyện cứu ai nữa… Chúng tôi chạy, chỉ biết chạy thế thôi…
với hai bàn chân chúng tôi tiếp tục đi, trước hết là Huế, sau tiếp
tục đi nữa, không, anh không thể hiểu được nếu anh không cùng chúng
tôi trong chuyến ra đi ấy, chúng tôi có cảm tưởng như ngay sau chân
chúng tôi cộng sản theo bén gót.
Chúng tôi như tranh nhau lấn bước về phía trước, người ta có phương
tiện để đi, chúng tôi th́ không, quốc lộ như thế mà bốn hàng xe chạy
th́ anh thử hỏi làm sao chúng tôi len chân, và trên dọc đường ấy
người ta như đứng lại với nhau, không c̣n trật tự nữa, thỉnh thoảng
súng lại nổ và người nháo nhác… Tôi đă thấy ngay trước mắt tôi chiếc
xe lật xuống đèo và những người chết, tôi đă thấy những bà mẹ kêu
gào t́m đứa con thất lạc… Tôi không hiểu tại sao sự việc lại xảy ra
như thế, bây giờ nh́n lại tôi càng thấy vô lư, bọn nó chưa tới được
ṿng đai mà sao ḿnh đă bỏ lại hết để chạy… Tôi lạc mất một người em
gái, cho đến hôm nay tôi vẫn không hiểu nó c̣n sống hay đă chết phơi
xác dọc theo quốc lộ…
Người thanh niên lặng đi, đôi mắt nh́n xuống trũng bóng tối. Tôi
không c̣n biết có lời nào để nói với anh. Tôi nhớ lời anh Cường kể
lại chuyến đi của chính anh, thực anh chưa muốn đi nhưng sau nh́n
lại thấy mọi người đi hết th́ anh sợ, người anh nghĩ chưa đi là anh
Du th́ anh đă thấy lên trực thăng đi rồi, cuối cùng anh phải đi
chiếc xe cũ đưa anh lên đèo nhích từng chút, có lúc xe không đứng
lại được mà tụt xuống, đi từ sáng cho măi tới 9 giờ tối mới vào tới
Đà Nẵng, trên đường anh đă thấy những đào binh nổ súng bắt xe cho họ
lên, anh đă thấy một bà cụ già ngồi trên một tấm gỗ có gắn bánh xe,
tay bám lấy chiếc dây thừng buộc vào chiếc xe đạp của người con đạp
phía trước… Mường tượng tới cảnh ra đi, quăng đường Quảng Trị-Huế-Đà
Nẵng trở thành một cuộc trường chinh cho người dân Trị Thiên, tôi
nghĩ nếu con đường đèo bị cắt, hay một cuộc phục kích xảy ra th́ họ
sẽ ra sao?
Trời mưa nhỏ hạt suốt đêm, sáng hôm sau trời vẫn thấp mây, tôi mang
theo hành lư để tới Huế như dự định, trước khi đi tôi ghé lại thăm
anh Lam, tôi nghĩ anh nắm được nhiều dữ kiện về những sự việc đă xảy
ra. Tôi thấy anh hết sức b́nh tĩnh và nói với tôi về công việc anh
đang làm, giúp đưa dân chúng Quảng Trị vào miền Nam theo chương
tŕnh di dân khẩn hoang của chính phủ, anh cho thấy dân chúng không
muốn đi riêng, họ muốn đi cả Quận, cả Làng. Anh cũng nói tới hoạt
động của các đảng phái một cách lạc quan. Khi hỏi anh: ai ra lệnh
rút khỏi Quảng Trị, anh nói không phải Tướng Lăm ra lệnh. Anh cười
khi đặt với tôi một vài vấn đề sau khi rút khỏi phần đất này, việc
oanh tạc Bắc Việt, việc thả thủy lôi xuống các cửa biển và sông ng̣i
miền Bắc…
Tôi ra bến xe, trời mưa nhỏ, tôi chờ cho những chuyến xe từ Huế vào
tới nơi th́ leo xe trở ra. Tôi thường theo cách đó để có thể yên tâm
lên đường mỗi khi ra đây công tác. Chuyến xe quen thuộc màu đen với
mười chỗ ngồi, số người trở ra Huế chờ đợi từng chuyến xe đến và
trong chốc lát lên đường trở ra. Đường ra khỏi thị xă xe cộ đủ loại
nối đuôi nhau, có hàng trăm xe vận tải đưa đạn vượt qua đèo. Trước
khi tới cầu Nam Ô xe bị đọng lại với sự chờ đợi oi bức, xe nhích
từng khoảng ngắn. Khi ngang qua tôi thấy ḍng sông rộng. Cây cầu xi
măng bị hư một nhịp đang được sửa chữa và hiện có một cầu tạm bắc
lên cho xe cộ lưu thông.
Cầu Nam Ô là cây cầu xa lộ độc nhất được hăng thầu Mỹ làm cho suốt
dọc quốc lộ từ Đà Nẵng tới Huế, cầu Lăng Cô là cầu cũ được sửa lại,
c̣n hầu hết những cây cầu khác được làm bằng gỗ ở đây đă bị phá sập,
những binh sĩ công binh đang lo đắp một con đường ṿng và sửa lại
cây cầu.
Chiếc xe tôi đi chạy hơi ra ngoài bị chận lại, như một h́nh phạt
không được qua, người tài xế bứt đầu bứt tai nh́n những chiếc xe
chạy sau vượt lên phía trước, tôi thấy nhiều xe chở hàng không có
mui chở đầy người, đó là những gia đ́nh ở Huế trở lại nhà, họ mang
những hành lư. Có những chiếc xe có mui th́ người ngồi cả trên mui
cao, trên quăng đường này tôi cũng thấy nhiều xe chạy đường xuyên
Việt, từ Quảng Trị tới Sàig̣n, nhưng v́ biến cố trong những ngày qua
đă khiến cho những chuyến xe này không thể trở lại Sàig̣n được.
Những chuyến xe sẽ thương nhớ đường dài…
Mưa vẫn đổ mau hạt trong khi xe qua đèo, con đường rộng, nhựa phẳng
trở thành nguy hiểm, tôi nghĩ tới những ngày tháng trước khi đoàn
người tỵ nạn phải ngang qua đây. Một trăm cây số của đường dài lo âu
chất ngất và nỗi kinh hoàng nh́n về ngày mai… Vùng biển Lăng Cô làm
tôi nhớ lại mộng ước được về sống trong một xóm dân chài của Ninh
Hoà, hai tiếng Ḥn Khói vẫn c̣n ghi nhớ với những cồn cát trắng như
tuyết và những ngọn dương cao cùng với biển xanh bao la phía trước…
Quê hương ta những vùng đất hứa có thật vẫn c̣n đó nhưng chừng như
lúc nào cũng ở ngoài tầm tay với…
Cầu Phú Lưu bị sập nhưng vẫn di chuyển một chiều, khoảng đường từ
phía chân đèo trở lại Huế tôi thấy nhiều binh sĩ thuộc Sư Đoàn 3, họ
có mặt nơi những chiếc cầu c̣n lại. Trên một thành cầu sắt của đường
xe lửa tôi nh́n thấy hàng chữ: Bảo vệ cây cầu tới giọt máu cuối
cùng. Tôi buồn rầu nghĩ tới những cây cầu đă găy. Tôi nghĩ tới những
cây cầu gỗ trên quốc lộ 9 nối Đông Hà tới biên giới và trên quốc lộ
1 Gio Linh tới Đà Nẵng.
Năm 1968, khi tôi theo quốc lộ 9 lên Cam Lộ, nơi có trên 6 ngàn dân
chúng quận Hướng Hoá từ trong núi về tỵ nạn, trong số này phần lớn
là sắc tộc Bru. Bấy giờ trận chiến ác liệt ở Khe Sanh, trong khi xe
ủi đất Mỹ làm việc không ngừng, họ mở rộng đường trải đá, trải nhựa
và làm cầu. Tôi tự hỏi như vậy có phải con đường sẽ được dùng để
sang Lào không? Năm 1970 trở lại, cả vùng đă hết lính Mỹ, chúng tôi
dùng xe díp chạy từ Quảng Trị lên Cam Lộ uống cà phê và nói chuyện
hoà b́nh, ngày lên xin đất mở đồn điền trên Khe Sanh…
Tôi nghĩ tới những cây cầu và hỏi: những cây cầu bằng gỗ này chịu
đựng được bao nhiêu năm? Tại sao không phải là cầu xi măng? Không ai
trả lời. Và tôi cũng đă hỏi: sao Mỹ làm con đường này tốt vậy mà
không dùng? Và câu trả lời măi tới khi có cuộc hành quân sang Hạ Lào
tôi mới thấy, mỗi ngày hàng trăm xe đạn dược theo đó mà tới Khe
Sanh. Nói tiếp về những cây cầu tôi cũng thấy từ Gio Linh vào Huế
chỉ mới có một cây cầu mới đúc, c̣n hầu hết là cầu gỗ. Và bây giờ
tôi lặp lại câu hỏi: những cây cầu chưa bị phá sẽ c̣n chịu đựng được
bao nhiêu lâu?
Phú Lộc, La Sơn, Phú Bài, Phú Lương, Dạ Lê, An Cựu… và cầu Trường
Tiền. Huế vẫn c̣n đó, một sinh hoạt lặng lẽ, nhiều căn nhà cửa đóng
nhưng có toán công nhân sửa đường vẫn làm việc, những người thợ nề
vẫn tiếp tục trát vôi nơi bệnh viện trung ương đang xây cất… Hoa
phượng đỏ như máu trên những con đường hai bên bờ sông, trong Thành
nội, ghe thuyền đầy trong ḷng sông nhà bè và vùng Bao Vinh không
khí như thuở thanh b́nh, tôi nghe thấy một không khí ch́m ch́m nhưng
đầy đe doạ. Tôi t́m gặp lại những người bạn cũ, gần hết đă ra đi.
Anh Tấn bây giờ nuôi râu dài như một đạo sĩ, anh Du như già hơn mấy
tuổi, anh nói lại một ngày từ sở làm ra đường t́m xe về nhà, phố
vắng tanh, không một chuyến xe khiến anh ngao ngán thấy ḿnh như con
chó hoang, và mắt anh như rưng rưng khi kể lại chuyến bay đưa anh
khỏi Thành nội trong không khí nháo nhác tan vỡ. Bây giờ th́ anh đă
trở về một ḿnh sống như ḿnh muốn sống. Thục nói: ở lại với ư nghĩ
ngông cuồng làm kẻ tuẫn đạo… Liệu có mất Huế không?
Cộng sản có đánh Huế không? Tại sao Huế không bị pháo kích? Những
câu hỏi đặt ra mà không ai dám trả lời khẳng định, ai cũng có ư kiến
nhưng sau đó là cái mỉm cười ngụ ư… Thành phố đầy những lính, đủ màu
áo, h́nh như không thiếu một binh chủng nào, ít hoặc nhiều họ đều có
mặt. Tôi gặp lại những người bạn trong Quân Đội những ngày cũ. Những
hàn huyên không hết về kẻ sống người chết, những người ở An Hậu,
những ngày ở Phú Thứ, những ngày trong Dăy Phố Buồn Thiu, những ngày
ở Khe Sanh, những ngày rong chơi yên b́nh trong những làng xóm ở
Triệu Phong nói chuyện về những nàng cung phi sinh trưởng ở Sải, và
vẻ đẹp tây phương của những cô gái ở Mỹ Chánh, ḍng sông mà người
bạn tôi nói nửa đục nửa xanh, nơi những thuyền bè tây phương từ thế
kỷ trước đă vào đó…
Trên máy bay nh́n xuống quốc lộ 1 chỉ thấy một ḍng xuôi về Nam hỗn
độn…
Buổi chiều mưa thật lớn, người bạn nói với tôi cơn băo đang tiến
tới. Một người bạn nói với tôi về Huế: đất ǵ lạ, một năm ở đây th́
có ba tháng để tranh đấu, ba tháng để chịu tai ương, ba tháng để cứu
trợ, c̣n ba tháng để làm thơ. Điều người bạn nói thực đúng với thời
gian 10 năm trở lại đây, Huế đầy những tai ương và đau khổ, cơn ác
mộng Mậu Thân với hàng ngàn người bị chôn sống vẫn c̣n ám ảnh những
người sống sót, đó là một trong những điều giải thích v́ sao họ đă
lũ lượt kéo nhau ra khỏi Huế dù thực sự chiến tranh chưa đến.
Tôi theo xe người bạn ra khỏi Huế, hiện đang có những cuộc chuyển
quân vào phía Tây và phía Bắc, những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến đă
đột kích ba lần vào vùng đất Quảng Trị, nhưng sông Mỹ Chánh vẫn là
chiến tuyến. Quốc lộ 1 chạy về phía Bắc vắng hoe, chỉ có những xe
nhà binh di chuyển với vận tốc nhanh hơn thường ngày, những cánh
đồng ở Hương Điền vẫn có bóng người nông phu, thiên nhiên vẫn như
một ngày thanh b́nh cũ. Trong pḥng tuyến, tôi hỏi một anh bạn: bao
giờ qua bên kia? Người bạn cười, định qua rồi nhưng mưa nên ngừng.
Sao vậy? Hết mùi thối rồi… Tôi không hiểu. Người bạn nói: Mấy hôm
trời nắng, gió Nam thổi hôi quá chịu không nổi tính hành quân để
chôn xác chết của mấy trận, nhưng mưa rồi nên đỡ.
Tôi rùng người và thấy như đầy mùi tử khí. Tôi mường tượng tới
khoảng đường c̣n lại để tới Quảng Trị, những làng mạc và đồng ruộng
ngày nay c̣n ngổn ngang những xác người đă nằm xuống trong những
ngày trước, nắng lửa làm cho những tử thi trương lên và bây giờ
những cơn mưa làm cho tan ră… Đêm lại cơn mưa lớn. Tôi cùng người
bạn ngồi trong quán cà phê, chút rượu khiến cho chúng tôi ngây ngất.
Trên chiếc xe nhỏ chúng tôi đi trên những con đường vắng không có
bóng người, chỉ có những tàn cây và bóng tối, thỉnh thoảng mới gặp
những người lính ướt nước. Tường thành lầm ĺ, những băi cỏ tranh
cao với bông trắng, tất cả như thầm th́ một tâm sự. Không khí lặng
như một cơi chết nào. Thiên nhiên kia c̣n nghĩa ǵ khi không c̣n
những mắt nh́n chan chứa, không c̣n nhịp tim rộn ràng? Tôi như nghe
thấy tiếng thở dài của những cánh sen hồng về nỗi tàn tạ. Mùa hè đă
đến rồi đấy nhưng như đă mất v́ không có tiếng guốc khuya trên cầu,
hoa phượng đă nở đỏ nhưng không c̣n là màu của nắng lửa, nó trở
thành những vũng máu đọng chờ khô của một cái chết.
Người bạn nói: Tôi ở lại đây và tôi chờ ngày vào Quảng Trị.
Tôi nh́n người bạn.
Dương Nghiễm Mậu
(*) Quảng Trị Đất Đợi Về đăng lần đầu trên Tạp chí Chính Văn số 1
phát hành ngày 17 tháng 5-1972
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi