Mường Giang
Từ Phan Thiết chúng tôi gồm 34 người, quyết tâm
ra đi nên đă liều mạng vượt biển để t́m tự do trên một chiếc thuyền
đanh cá mỏng manh cũ kỹ và thiếu thốn đủ mọi thứ . Thời gian sống
với biển cả tuy ngắn ngủi nhưng thập phần nguy hiểm và đầy bất trắc
. Cuối cùng, ḷng can đảm đă giúp chúng tôi vượt qua tất cả trở ngại
. Chúng tôi đă đến bến bờ tiểu bang Trengganu thuộc Mă Lai Á vào
buổi sáng ngày 26-10-1978, chấm dứt 6 ngày hải tŕnh bi thảm .
Tôi ghi lại đây để nhớ măi không quên những tấm ḷng vàng của các vị
ân nhân Nguyễn Đức Khôi, Nguyễn Đức Long, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn
Mến..Quư Ông nay đă trở về cơi vĩnh hằng nhưng ḷng từ tâm trên
chiếc thuyền PT.M1109 hôm nào đă giúp chúng tôi vượt thoát khỏi địa
ngục trần gian trong thiên đàng xă nghĩa từ sau ngày 39-4=1975. Cũng
chính nghĩa cử cao đẹp trên, Quư Ông đă dạy cho tôi long thương
người trong cơn hoạn nạn và tôi đă theo đuổi lư tuởng đó cho tới
nay, khi đưọc may mắn định cư tại Hoa Kỳ.vào tháng 4-1979.…
Câu chuyện vưọt biên của tôi cũng là một kỳ ngộ, như có một bàn tay
huyền diệu nào đó luôn giúp đỡ sắo xếp..Tôi c̣n nhớ cái đêm trước
khi vưọt biển, v́ buồn đủ thứ lại thương đứa con gái nhỏ tên Duyên
bệnh nặng..nên khi mấy đứa em rũ nhậu, tôi đă quên là ḿnh từ kinh
tế mới trốn về sống chui không có giấy phép. Nhưng cũng thật kỳ lạ,
giữa lúc anh em đang nhậu th́ tên Hùng công an khu vực vào nhà tôi
nhưng hắn không bắt mà chỉ ra lệnh cho tôi ngày mai phải lên lại
KTM. Sau đó ai nấy về nhà ngũ riêng tôi th́ ngổn ngang tram mối nên
làm sao ngủ đưọc. Giữa lúc đang trăn trở th́ chủ ghe tới kêu đi
biển. Rồi đến lúc ghe cập đồn Biên Pḥng Thương Chánh để tŕnh diện.
Tại đây lần nữa Tôi không bị công an bắt giữ v́ đi biển lậu, mà chỉ
ra lệnh cho chủ ghe đuởi tôi lên bờ v́ không có tên trong sổ hành
nghề.. Chủ ghe dạ dâ nhưng vẫn chạy thẳng ra biển..Nhờ những may mắn
trên, nên thành phần bị gạt ra bên lề xă hội lúc đó như bọn tôi mới
có cơ hội ra đi.
Tôi nhớ sáng hôm đó trời đẹp chi lạ, biển lặng như trên sông Cà Ty .
Phương đông mặt trời đă lên cao, thả những tia vàng đỏ óng nhảy tung
tăng theo triền sóng . Gió thổi nhẹ từng cơn như mơn mởn làn da thêm
thoải mái. Như thường lệ, ghe tôi từ Phan Thiết chạy ra địa điểm đặt
cây chà, đúng vào lúc con nước đang lên để làm nghề . Thời gian sống
ngoài biển là lúc mà chúng tôi vui sướng nhất v́ được tự do la hét,
chửi bới , được nh́n cảnh mênh mông của trời đất bao la và hạnh phúc
nhất là ai cũng có quyền hy vọng được tàu ngoại quốc đến vớt sang
bên kia bờ đất tự do. .
Bây giờ là 8 giờ 30 ngày 21-10-1978, mọi công tác dành cho việc lùng
bắt cá đă chuẩn bị xong . Hai đường neo dài hơn 100m đă được móc
cứng sau và trước thuyền, kèm vào đó là hai sợi dây khác dùng để móc
giàn lưới sắp sửa bủa xuống biển đón đàn cá trắng đang nhởn nhơ bơi
lội dưới làn nước trong xanh thăm thẳm . Chúng tôi đă sẵn sàng bắt
một mẻ cá lớn để chốc nữa trở vào bờ dâng cho nhà nước đổi lấy từng
kư gạo sống dần ṃn qua ngày . Đó, đời sống của con người nước Cộng
Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa là thế
Bỗng một tiếng la từ sau lái : Tàu vượt biển đến, hăy kéo neo lên để
chạy cho mau, kẻo chúng đến cướp dầu, cướp ghe . Nhưng đă trễ rồi,
v́ không thể nào trong chốc lát triệt nổi hai cuộn neo thật dài,
thêm vào đó là lưới đang hứng đầy cá, mà con tàu lạ th́ từ xa chạy
xăm xăm đến với một tốc lực tối đa . Đấy là một loại thuyền đánh cá
kiểu Bắc Việt, toàn thể sơn màu đen nên nh́n rất cũ kỹ, dài khoảng
8m, trên thuyền lố nhố những người đang ḥ hét vẫy gọi, trông giống
cảnh ăn hàng của các phim hải tặc . Con thuyền quá mỏng manh và cổ
lỗ nên không có ǵ bảo đảm lắm cho chuyến vượt biển xa xăm mà mọi
nguy hiểm như sóng gió, giông băo đang chực chờ, hơn nữa mùa gió Bấc
đă đến, biển hay động bất ngờ, chỉ cần một trận cuồng phong nhỏ cũng
đủ chôn vùi tất cả bao nhiêu người trên thuyền vào bụng cá . Nhưng
nh́n những khuôn mặt cương quyết, chai ĺ của những người đang đứng
trên thuyền đối diện, tôi cảm thấy thán phục cho những tâm hồn biết
chết trước mắt nhưng vẫn cứ liều lĩnh, mạo hiểm dấn thân vào biển cả
muôn trùng để t́m tự do
Ôi tự do cao quư đến thế sao ? Biết chết vẫn lăn xă vào, biết tù đầy
khổ ải nhưng cũng cứ bền gan tranh đấu, biết địch mạnh ta yếu mà vẫn
cứ âm thầm chịu đựng để chờ ngày quật khởi . Hèn chi tại Nam VN
trước tháng 4-75, chỉ v́ “độc lập hay là chết “ mà đă có hơn một
triệu thanh niên nam nữ, hơn 20 năm chịu banh thây để giữ lấy nó.
Bây giờ th́ một làn sóng người ồ ạt, bỏ tất cả để dấn thân vào cơi
chết, chỉ mong mỏi t́m ra con đường sống để nh́n thấy tự do thật sự.
Rồi con tàu lạ cũng tới, tiếng be gỗ chạm vào nhau nghe chói óc,
tiếng người la ơi ới, tiếng kéo c̣ lên đạn gây thành những âm thanh
hỗn độn, kỳ quái nghe hay hay .
-“Cho chúng tớ xin ít dầu, gạo và nước để ra đi, chúng tớ không thể
quay về với đưọc, giúp chúng tớ đi anh em ơi” . Thật là thảm thiết,
thật là cay đắng, nẻo đường sống của bọn người quyết ḷng tháo gỡ
gông cùm của giặc thù là thế đó . Tôi nh́n kỹ từng khuôn mặt, đều là
bạn bẻ cũ thuộc tỉnh/tiểu khu B́nh Thuận cả . Người đứng trên mui để
chỉ huy tổng quát là Ng-Đ-M, cùng tôi học Triết ở Đại Học Văn Khoa
SG. Trước mũi là Thưọng sĩ Ng-Đ L phục vụ tại Chi Nhánh 2 TMNN., Tài
công là Trung sĩ I ĐPQ VS và thuyền trưởng là Thiếu Uư CSQG NĐK. Tất
cả đều là khách hàng đắc giá của Công An Thuận Hải cả, thảo nào họ
dám dùng con thuyền nhỏ này để vượt biên .
Theo lời M, họ đă khởi hành đêm 19-10-1978 sau khi ba vị chủ ghe
đồng nhận được trát của công an thị xă Phan Thiết mời đến để điều
tra về vụ vượt biên mới đây có liên quan đến họ . V́ tin đến quá đột
ngột nên tất cả số dầu dự trữ dành cho chuyến vượt biên sắp tới
không thể đem xuống ghe được, cũng không thể mang nhiều gạo, thuốc
và thức ăn v́ sợ đồn biên pḥng số 4 kiểm soát sẽ bại lộ . Nên cuối
cùng Ban Chỉ Huy thuyền PTM 1109 quyết định đi liền với số nhiên
liệu và thực phẩm dành cho 1 ngày làm cá đúng theo cấp số ấn định,
nhưng cương quyết mang theo hai khẩu súng cũ đă chôn giấu từ lâu
cùng đồ nghề dành cho chuyến vượt biên thế thôi . Như vậy họ đă
quyết định ra đi với 40 lít dầu, 10 kg gạo và ḷng tin tưởng tuyệt
đối vào Chúa sẽ giúp họ thành công . Đúng 5 giờ 30 ngày 20-10-1978,
con thuyền trên lại quay về bờ biển Phan Thiết và đâm ngay vào băi
Thương Chánh tại Vĩnh Phú, để vớt người như chương tŕnh dự liệu,
giữa lúc tiếng chuông nhà thờ Vĩnh Phú rền vang báo hiệu đợt lễ đầu,
trong kh[ bọn du kích và công an phường canh gác băi tắm đă lục tục
kéo nhau về ăn cơm . Sự liều lĩnh đă đem lại kết quả khả quan nhưng
v́ thời gian quá ngắn nên chỉ cứu thêm được một số anh em và người
nhà, để rồi vĩnh viễn rời xa quê mẹ, con thuyền sẽ điên cuồng lao
vào đất chết .
Đêm đó thuyền đă xông xáo khắp nơi để xin dầu, gạo, nước ngọt dành
cho chuyến hải hành, thuyền suưt đụng độ với 2 chiếc mành quốc doanh
có trí súng đại liên làm anh em một phen mất vía .
Tiếng của thằng bạn làm tôi bừng tỉnh : “C c̣n chần chờ ǵ mà không
nhảy sang đây để đi với tụi tớ, cậu thường ao ước t́m tự do lắm mà .
Hăy đi đi, trời c̣n đó, đất c̣n đó và vợ con chúng ta cũng c̣n đó,
nếu c̣n sống th́ lo ǵ không gặp lại người thân. Vâng bạn tôi nói
đúng lắm, tôi phải ra đi, đây là một cơ hội bằng trời mà tôi hằng
mong đợi, tôi phải đi để sống và c̣n sống là c̣n tất cả.
Tôi nhảy sang con thuyền lạ giữa tiếng la khóc của những đứa em,
giữa những ṿng tay thân t́nh cật ruột giữ lại . Nhưng tôi đă cắn
răng cắt đứt t́nh cảm gởi gấm vợ con trên kinh tế mới cho má tôi,
rồi gục mặt ra đi,
Theo chương tŕnh dự liệu, chúng tôi c̣n phải đi mua thêm dầu gạo và
nước uống đủ để đi thẳng đến Mă Lai Á, v́ không hy vọng ra đến hải
phận quốc tế sẽ được tàu vớt . Bởi thế cần phải được chuẩn bị đầy
đủ, ăn ít cũng được nhưng dầu và nước th́ không thể thiếu được . Do
đó thay v́ trực chỉ ra hải phận, chúng tôi bắt buộc phải mạo hiểm
đến gặp các thuyền bạn để xin dầu và kết quả thật khả quan : Dầu
được 300 lít, gạo 50 kư, nước ngọt 2 thùng lớn c̣n thức ăn th́ không
cần, tuy vậy cũng tạm sống .
V́ sợ các thuyền quốc doanh bị lấy dầu quay vào bờ báo cho đội tuần
duyên nên chúng tôi đành phải ngụy trang, thay v́ chạy chúng tôi neo
lại trên phần chà thường đến làm cá giả vờ đang hành nghề, cho tất
cả đàn bà con gái trẻ em và những người không phận sự xuống khoang
thuyền, chỉ để 7 người trai tráng ở lại lo công tác, súng th́ lên
đạn sẵn đầy đủ để quyết tâm chống chọi nếu bất trắc ập đến . Nhưng
mọi lo lắng đều qua, 4 giờ chiều ngày 20 tháng 10-1978, chúng tôi
chặt đơi, vĩnh viễn xa rời quê hương để ra đi t́m tự do . Hỡi ơi,
phút cuối cùng sao nghe ḷng quyến luyến và hờn tủi chi lạ, biết bao
giờ mới được quay về để nh́n những thâm t́nh đang tuyệt vọng đợi
chờ..
Từ Phan Thiết muốn đi Mă Lai Á, chúng tôi phải qua Côn Đảo và khoảng
đường độ 1200 hải lư, với tốc độ của loại máy Kubota, cộng thêm sức
nước chảy xuôi và cánh buồm, ước lượng phải mất 6 ngày đêm . V́ muốn
bảo tŕ máy móc hầu tạo sự an toàn cho chuyến đi, mỗi ngày bắt buộc
phải cho nghỉ máy 2 giờ, thời gian này thay thế bằng buồm, di chuyển
tối đa chỉ trừ gặp băo mới phải neo lại mà thôi, dụng cụ đi biển
cũng tạm đủ, gồm một địa bàn bộ binh, một ống ḍm của pháo binh và
một bản đồ vẽ tay thêm vào đó là kinh nghiệm nhiều năm đi biển của
tài công, cựu Trung sĩ I V.S, chúng tôi vững ḷng tin sẽ đến được bờ
đất hứa .
Buổi chiều đầu tiên vui chi lạ, mặc dù thuyền vẫn chạy cặp theo bờ
biển nhưng anh em ở dưới khoang cũng được cho lên để thở xả hơi, một
nồi cơm trắng không độn đang nghi ngút khói ăn với cá vừa mới đánh
được hôm qua, không khí và sự thân mật của những người cùng chung
cảnh ngộ làm mọi người cảm động muốn khóc . Xa xa, bên trong từng
dẫy núi liên tiếp lướt qua, ḱa là Ba Ḥn, Tà Cú, Mũi Đèn, Ḥn Bà,
Phước Hải rồi Vũng Tàu, bao nhiêu địa danh, bao nhiêu tế bào của Mẹ,
chúng tôi cứ măi lặng nh́n để ghi sâu vào tâm khảm v́ biết chắc rằng
chỉ trong khoảng khắc khi con thuyền lướt sóng ra hải phận th́ chẳng
bao giờ chúng tôi c̣n nh́n lại được nó .
Buồn lắm, những trở ngại và thử thách đầu tiên đă qua, các em và các
cô không quen đi biển cũng bớt nôn ọe. Trời lại đẹp và biển lặng một
cách đáng yêu . Đúng 20 tiếng lướt sóng chúng tôi bắt đầu cho mũi
thuyền hướng về 180 ly giác, trực chỉ hướng Bornéo, ra ngay hải lộ
quốc tế rồi từ đó sẽ bẻ mũi ghe về hướng 220 ly giác để về Mă Lai Á
. Theo hải tŕnh này thuyền sẽ không gặp Côn Đảo và Thái Lan . Nhưng
đời đâu có bằng phẳng và dễ dàng như thế. Và đúng 3 giờ chiều ngày
23-10-78 thuyền chúng tôi bắt đầu gặp tai họa, một máy bị hỏng, dầu
không bơm được, máy bơm nước cũng hư và phía trước mặt là Côn Đảo
với 2 ống khói trắng toát .
Dùng ống ḍm chúng tôi có thể thấy được đỉnh của ngôi giáo đường .
Nguyên nhân có sự lạc hương này , chỉ v́ tài công V.S trong lúc lái
ghe đă nh́n hai ống khói màu trắng tưởng lầm Côn Đảo là một chiếc
tàu buôn. Bởi thế đă đổi hướng chạy đến . th́ cũng đă lỡ rồi,. Ngay
lập tức buồm được kéo lên, thợ máy Ḥe cố gắng sửa lại bơm dầu và
tất cả thanh niên phải thay nhau tát nước
Tai họa bắt đầu giáng xuống với những trận gió lớn làm biển động
mạnh với từng đợt song dữ . Bao nhiêu bi thăm dồn cùng một lúc dành
cho chúng tôi. Đây là Trường Sa, nơi giao liên của hai con nước vùng
biển Đông Hải và vịnh Thái Lan, nên sóng rất lớn . Nhưng việc ǵ đến
sẽ đến, giờ th́ phải chạy, kẻo đồn canh của bọn công an trên đảo
thấy được th́ chúng tôi một là sẽ vào bụng cá hai là vào Côn Đảo nằm
thiên thu .
Mưa xối xả như trút nước, làm giảm tầm quan sát của địch, V.S cho
lên ga tối đa 1500, con thuyền lao như điên giữa tiếng gió gào thét,
cánh buồm căng cứng gần muốn đứt lèo, sóng bủa tứ tung trên mạn
thuyền, tất cả đều ướt át như chuột lội nước, lạnh dói và run sợ .
Đêm đó không ai ngủ được cả, mọi người đều lo lắng và theo dơi nhiệm
vụ không ai nói với ai một tiếng nào cả . Ban chỉ huy thuyền th́ măi
miết chụm đầu vào mặt chiếc địa bàn để canh lại cho được hướng đi,
nước trong khoang thuyền được thay nhau tát ra ngoài, và rồi mưa lại
tạnh, gió bớt thổi và chung tôi đă ra khỏi vùng biển bảo tố lúc 6
giờ sáng ngày 24.10-1978 khi mặt trời đă bắt đầu mọc, báo hiệu một
ngày đẹp đẽ đang trở lại với vạn vật, chấm dứt thăm họa đă hành hạ
chúng tôi suốt 15 giờ qua ...
Từ giờ thuyền chúng tôi đă ra khỏi hải phận VN và đang ở trên hải lộ
quốc tế. Mỗi lần nhớ lại đêm bảo tố kinh hoàng trên biển , tôi vẫn
thấy sợ và càng thương ông NĐK lúc đó, cứ luôn miệng cầu nguyện
Thưọng Đế giúp đỡ cho chúng tôi qua khỏi tai họa khốc liệt kinh
hoàng..không ai trên thuyền lúc đó nghĩ rằng ḿnh c̣n sống sót với
cơn băo cấp 10,
Giờ th́ tất cả mọi người đều có quyền lên boong thuyền để thở không
khí, trời đất mênh mông, biển cả miên man, con thuyền không khác chi
chiếc lá vàng trôi giạt vô hạn định, trôi măi, trôi măi, tôi bâng
khuâng tự hỏi, đời tôi rồi mai này cũng sẽ như con thuyền này xuôi
ngược không biết đâu là bờ bến thế thôi .
Chúng tôi đang sống ngày thứ tư trên biển, gạo sắp hết, nước cũng
gần cạn và dầu chỉ c̣n độ 100 lit . Ban chỉ huy ra lệnh tiết kiệm để
sống cầm hơi nếu thuyền không t́m được bến . Trong ngày thứ tư này,
chúng tôi 3 lần thấy tàu lớn, đă làm tín hiệu S.O.S, đổi phương
hướng để xin cầu cứu, nhưng các con tàu kia đă vô t́nh bẻ lái bỏ trả
chúng tôi lại với biển nước mông mênh . Cuối cùng lúc 12 giờ khuya
đêm thứ 5 thuyền chúng tôi đă cập được vào giàn khoan dầu của Anh
Quốc (trong hải phận Mă Lai Á) thế là chúng tôi đă t́m được đất sống
.
Hỡi ôi đă 5 ngày qua, sống lầm lũi giữa biển khơi mịt mù mây nước,
hôm nay mắt lại được nh́n thấy những ngọn đèn biểu hiện của cuộc
sống . Đèn bốn hướng, đèn mông mênh, cả một vùng trời trước mặt toàn
đèn, chúng tôi muốn thét to lên để tỏ sự sung sướng của những con
người về từ đất chết, ai cũng vui cười hồ hởi . Làm sao diễn tả cho
hết từ tâm của những người làm việc trên chiếc tày dầu Anh Quốc mang
số EG 8721 mà chúng tôi đă gặp . Họ đă tiếp tế cho chúng tôi đầy đủ
nào dầu, nước ngọt, gạo, thuốc lá, bánh ngọt, sữa v.v..đồng thời cho
chúng tôi hướng sắp đến và khuyên nên đi Tân Gia Ba đừng đi Mă Lai Á
. Chúng tôi rời chiếc tàu trên mà không khỏi ngậm ngùi và cám ơn
đấng tối cao đă dành mọi ưu ái cho chúng tôi trên chuyến đi này.
Những ngày sau cùng không c̣n ǵ trở ngại, đồ tiếp tế đă có, anh em
lại được chia sớt để ăn uống, biển cũng rất lặng, ban đêm trăng sáng
vằng vặt cộng sự thoải mái cho mọi người và rồi đúng 3 giờ sáng ngày
26-10-1978 thuyền chúng tôi bỏ neo tại bờ biển làng Merang thuộc
bang Trengganu, Mă Lai Á . Sau đó chúng tôi được thuyền đánh cá Mă
Lai Á hướng dẫn vào vàm sông Mérang, được phép lên bờ nghỉ ngơi, lập
thủ tục, giao thuyền và vật dụng cho cơ quan chánh quyền địa phương
để rồi đúng 7 giờ tối cùng ngày, một chiếc xe đến chở tất cả mọi
người về thị trấn Trengganu, nhập vào cộng đồng những người tị nạn
đă đến từ những nơi khác để ngày 27-10-78 xuống tàu đến tạm cư tại
đảo Pulau Bidong . Thuyền chúng tôi chính thức mang số 100 tại trại
này.
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2018
MƯỜNG GIANG
Trại Tỵ Nạn Pulau - Bidong
Pulau Bidong là tên của một trong những ḥn đảo của Mă Lai Á, vùng
đất khô cằn đầy núi non hiểm trở được cấu tạo bằng nhiều lớp san hô
. Nằm cách bờ bể bang Trengganu độ vài chục hải lư . Nếu không có
vấn đề người tỵ nạn Việt Nam, có lẽ chả ai biết đến tên nó . Nhưng
từ tháng 7 năm 1978, Pulau Bidong trở nên sáng giá, khi chính phủ Mă
Lai Á chấp thuận cho Cao Ủy tỵ nạn LHQ đưọc thiết lập tại đây, một
trung tâm tạm cư người Việt trốn chạy chế độ CS bằng thuyền . Kể từ
đó Pulau Bidong d8ưọc coi như là một trong những cổng thiên đàng của
người Việt TNCS, cho nên có lúc dân số trên đảo gần 50.000 người.
Đặc biệt chính phủ Mă Lai Á đối xữ rất nhân hậu với người Việt..
Pulau Bidong gồm 2 đảo nhưng đồng bào chỉ ở Bắc đảo mà thôi. Bắc đảo
có diện tích chừng vài km2, không trù phú và màu mỡ như các hải đảo
đông dân cư của VN . Ba phần tư diện tích đảo là núi tuy không cao
lắm nhưng dầy đặc rừng cây, phần đất c̣n lại, lại bị những nhánh núi
nhỏ ngăn thành từng vũng đồi thấp, lên xuống . Đảo h́nh như hạt mận,
hai mặt đối diện với bờ bể Trengganu th́ lơm vào, tạo thành một vịnh
nhỏ, nước sâu, tàu bè đỗ rất tốt . Phía sau lồi và núi đá ăn trệ
xuống sát bờ nước nên không ai bén mảng đến . Đó đây trên đảo là
những rặng dừa cao vút, xanh thẳm mang đầy trái và những khi gió
lớn, mưa to dễ rớt gây tai nạn chết người, ngỗn ngang trong phần đất
bằng phẳng c̣n sót lại là giếng nước ngọt, chứng tỏ nơi này đă có
người đến ở trước dân tỵ nạn . Biển xanh bọc chung quanh đảo, trong
vắt im lặng và là con đường sống duy nhất của mọi người với thế giới
văn minh bên ngoài .
Trại được tổ chức trong một thời gian kỷ lục nhờ những bàn tay tài
ba và vén khéo của mọi người . Thêm vào đó là sự nhẫn nại, kiên tŕ
can đảm của dân tộc VN và óc chỉ huy sáng suốt của Ban điều hành
trại .
Khi tôi đến đảo vào cuối tháng 10-1978, thi trại được phân chia
thành 6 khu riêng biệt, mỗi khu có một Ban hành chánh Khu lo liệu .
Ban Điều Hành Trại với nhiệm vụ tổng quát, về phương diện pháp lư .
Đại diện cho toàn thể đồng bào tiếp xúc với chính quyền Mă Lai, Phủ
Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, các phái đoàn ngoại quốc, lo lương thực cho mọi
người sống trong khi tạm cư, lo những an ủi tinh thần để đời bớt tủi
và làm gạch nối để mọi người không phân biệt Hoa-Việt bắt tay nhau .
Trao gởi t́nh thương khi bắt đầu làm lại cuộc đời .
Phụ giúp cho Ban Điều Hành có các Khối và Ban .
-Khối thông dịch và hành chánh lo thủ tục cho đồng bào ra Phái Đoàn
để đi định cư ở các đệ tam quốc gia .
-Khối thông tin văn hóa phụ trách việc nhận gởi thư và quà cáp của
đồng bào đi và đến, thường xuyên tổ chức văn nghệ với các thành phần
ca nghệ sĩ một thời vàng son của Sài G̣n, trong những chương tŕnh
mang nặng tính chất dân tộc, khích động ḷng yêu nước, t́nh đoàn kết
của mọi người trên đảo . Khối thông tin là ḍng suối ngọt, là tiếng
chim ríu rít là khúc đàn tuyệt diệu muôn dây, luôn luôn đem ấm áp,
hy vọng và t́nh thương về cho mọi người . Khối thông tin cũng đă tổ
chức rất nhiều lớp học sinh ngữ Anh-Pháp giúp mọi người thu thập một
số vốn ngoại ngữ để bước chân đến xứ người
-Khối y tế, xă hội bận rộn nhất trong việc trị liệu, cấp cứu, sinh
đẻ cho những người trên đảo . Với phương tiện eo hẹp và thuốc men
rất ít nhưng các vị Bác Sĩ từ tâm, các anh chị em Y Tá, Khán Hộ đă
hết ḷng nên cứu giúp rất nhiều người nhất là trẻ em và ông bà cụ .
Ban xă hội phân phối những tặng phẩm nhân đạo, Ban vệ sinh làm sạch
đường, sạch phố, tạo một bộ mặt mới cho các khu vực và băi biển .
-Khối Nội Vụ chuyên trách t́nh h́nh nội bộ, không áp dụng chính sách
công an, cảnh sát ở đây nhưng t́nh trạng kỷ luật ở đây luôn luôn
được duy tŕ, hầu như không có vấn đề trộm cắp, họa hoằng lắm mới
xảy ra nhưng chỉ là ăn cắp vặt . Ở đây không có Bum, Bar, không ai
nghĩ đến chuyện ôm nhau nhảy đầm, ăn uống say sưa . Thỉnh thoảng mới
nghe một vài thằng điên nhắc đến vấn đề này .
-Khối tiếp liệu đồ sộ nhất với hai kho chứa hàng mút mắt, thay đổi
liên miên, bị mang lắm tai tiếng v́ cái gọi là Hợp Tác Xă Mua Bán .
Khối này nhận lănh và phân phối supply cho đồng bào, với một nhân số
hiện diện trên đảo gần 40.000 người, với sự thay đổi đi đến, khối
này đă phải đau khổ trong mỗi lần phát thực phẩm hầu như liên tục .
-Khối xây cất có công to lớn nhất trong việc xây dựng, chỉnh trang
Trại . Thật vậy, với hai bàn tay trắng, không có máy móc chỉ được
Phủ Cao Ủy tiếp tế cho một số vật liệu nặng như Gỗ, Tole, Ximent,
các vị kỹ sư, cán sự đă biến ḥn đảo khô cằn rừng núi này thành một
khu vực dân cư khang trang . Những dăy nhà tole la liệt ở mọi nơi
dành làm nơi tạm cư trú tập thể cho đồng bào . Những cơ sở công cộng
như trường học, nơi đón tiếp các phái đoàn báo chi dến thăm viếng,
nơi làm việc thường xuyên của ác quốc gia dệ tam, sạch sẻ, ngăn nắp,
sàn đóng bằng gỗ dày có đủ bàn ghế, pḥng ốc tạo sự thoải mái cho
những người đến làm việc nhân đạo ở đây . Một cổng chào kiến trúc
kiểu tây phương mái cong cũng bằng tole, cây trông bề thế, lịch sự
và đẹp mắt làm cảm t́nh ngay cho những người mới đến . Những dăy nhà
chờ đợi với mái lợp bằng bạt xanh, với những dăy ghế dài cho mọi
người tạm nghỉ chờ dến phiên ḿnh vào gặp phái đoàn quyết định số
phận ḿnh . Rồi nhà thương, bệnh xá, kho thuốc, kho hàng, trại tạm
trú cho người mới đến, trường học, giếng nước, mương rănh, nhà vệ
sinh v.v.. Tất cả đều do bàn tay sáng tạo của khối này . Nhưng nổi
tiếng nhất và đáng ghi nhớ là chiếc cầu nổi dă chiến dài hơn 100m
được bắt từ bờ biển ra đến chỗ đậu của các tàu từ xa đến, được tạo
bằng mồ hôi, trí óc của người Việt Nam . Nơi đón những người mới
đến, tiễn những kẻ ra đi, nơi hẹn ḥ của trai thanh gái lịch . Một
máy phát điện cũng được biến chế từ chiếc máy kéo, thiết kế một hệ
thống điện đem anh sáng lại các nơi công cộng và làm việc tăng thêm
sự khang trang của đảo
Ngoài ra c̣n phải kể đến những công tŕnh của các vị đại diện tôn
giáo trên đảo . Chung trên một vùng đồi thơ mộng nh́n được khắp bốn
bề là sự chung sống ḥa b́nh của ngôi giáo đường Thiên Chúa Giáo
sừng sững uy nghi với cây thánh giá cao vút trên đỉnh, không lúc nào
ngớt những tiếng ca của Đoàn Thánh Sinh, con cháu Chúa, nơi gặp gỡ
của bà con trong ngày chúa nhật và các ngày lễ . Kế cận là khu Giáo
Hội Tin Lành mà lối kiến trúc cũng không kém phần hoa mỹ, nơi này
cũng thêm phần đậm đà v́ sự thiết tha quan tâm đến phương diện xă
hội, đạo đức của vị mục sư chủ tŕ . Sau cùng là ngôi chùa thờ Đức
Phật từ bi được xây dựng với nhiều tiền của, nơi tu dưỡng của các bà
mẹ già mệt mỏi sau thời gian vượt biển, nơi sám hối của những ông
chồng bỏ con vợ ra đi v́ mạng sống, nơi tiêu giải tất cả mọi phiền
lụy, lo lắng oán thù của thế nhân, nơi tôn kính đáng ghi nhớ
C̣n nhà cửa của đồng bào th́ thiên h́nh vạn trạng, nhưng được xây
cất rất trật tự và đúng theo đồ h́nh của một đô thị tân tiến . Đến
Pulau Bidong, nếu chiêm ngưỡng cảnh sắc ở đây bằng con mắt của nhà
danh họa Picaso th́ Pulau Bidong thật là thẩm mỹ .
-Đói không làm càn
-No không tự măn
-Giỏi chẳng kiêu căng
-Và đau khổ không gục đầu, bó gối .
Đó chính là sự cao quư nhất, một vết son đậm mà tất cả đồng bào khi
rời trại Pulau Bidong đều hănh diện mang theo
Về sinh hoạt thường nhật của trại cũng tấp nập và hứng thú . Một khu
chợ trời nằm kế cận đồn cảnh sát Mă Lai nhưng vẫn được cho duy tŕ,
chứng tỏ giá trị lương thiện của nó đối với chủ nhân ông của vùng
này . Chợ bán đủ các thứ dành cho đời sống con người, từ nhu yếu
phẩm như bột, đường, gạo, mắm, cá, thịt v.v… đến những món hàng xa
xỉ không cần thiết : Vàng, đồng hồ, máy hát, tiền trao cháo múc . Ai
cần th́ đến, không thích th́ đi . Nh́n quang cảnh tấp nập của ngôi
chợ tôi bỗng nhớ tới Sài G̣n chi lạ, nhớ khu Lê Lợi vào những chiều
thứ bảy, chúa nhật, nam thanh nữ tú chen chúc xuôi ngược vui vẻ làm
sao .
Kế cận đó lại có những cửa hàng giải khát, ăn uống đủ món cũng được
rao bằng thổ sản trên đảo, biên chế từ các món hàng supply nhưng ăn
cũng thơm ngon không tệ . Và có lẽ thích thú nhất là được vào các
quán cà phê có nhạc thu thanh và nhạc sống để thả hồn theo ly cà phê
đang nghi ngút khói, sống lại thuở thanh b́nh của quê hương mến yêu
ngàn đời, qua các bản t́nh ca dân tộc bất diệt, để biết chắc rằng dù
ḿnh đang ở đâu, lúc nào cũng như lúc nào đều mong đợi một ngày trở
lại quê hương .
Cuối cùng là sự hiện hữu của những người ngoại quốc với cộng đồng VN
trên đảo . Quả là những tâm hồn nhân đạo đáng suy kính . Tất cả đến
đây không vụ lợi mà chỉ v́ sự thù ghét cộng sản bạo tàn nên đă cảm
thông với hoàn cảnh người tị nạn . Có nh́n được sự làm việc tận tâm
của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, của phái đoàn Mỹ-Úc suốt đêm ngày, không
kể mưa gió thời gian, cố gắng thật hết ḷng để rút ngắn sự mong chờ,
thiếu thốn của những người đang sống ở đây để Họ mau ra đi, có thấy
chính quyền Mă Lai cũng đă điên đầu trong sự tiếp tế thực phẩm nước
uống cho dân trên đảo trong khi chính dân của Họ cũng đang thiếu
thốn, có nh́n những người bạn Mă Lai làm việc ở đây, chúng ta mới
đau xót để nhận rằng cộng sản chính là trâu chó mất lương tri nên đă
giết hại và đầy đọa dân chúng của ḿnh .
Tôi đă bầu bạn với Pulau 147 ngày, đă cùng Hắn chia sẻ ngàn muôn
buồn vui, tủi cực, nên nay dù cách xa muôn trùng tôi vẫn không bao
giờ quên được những ngày tháng qua, quên được t́nh người thắm thiết
của đồng bào chung đảo, công sức của các vị lănh đạo và ḷng nhân ái
vô biên của các phái đoàn ngoại quốc đă quan tâm đến sự đau khổ của
nhân dân Việt Nam giữa tai kiếp do cộng sản Hà Nội đang khát máu gây
ra .
Honoluu 25-4-1979
Mường Giang.
Những Cảm Nghĩ Rời Trên Hải Đảo Pulau Bidong
Tôi đă đi rất nhiều trong suốt 12 năm đời quân ngũ. Tôi đă sống qua
những núi đồi chập chùng của miền Trung khô cằn sỏi đá. Huế đô cổ
kính thơ mông nhưng buồn muôn thuở với ḍng sông Hương êm ả ngược
xuôi . Núi Ngự B́nh nằm trơ gan cùng tuế nguyệt . Điện Bàn nhí nhô
qua âm thanh cứng ngắt và khét nghẹt của mùi thuốc rê Cẩm Lệ . Châu
Ổ, Sa Huỳnh, Phù Cát cát vàng nóng bỏng chạy đua với biển cả trông
chừng mút mắt . Và miền cao nguyên muôn trùng địa danh hào hùng bất
khuất mà tôi không làm sao nhớ xiết . Tôi cũng đă băng qua những
rừng cao su ngun ngút của miền Đông đất đỏ, trữ t́nh, dấu ái nhưng
không thiếu chi những bẫy rập giết người của giặc thù với B́nh Long,
Đồng Xoài, Lộc Ninh, Sông Bé, của Củ Chi, Trảng Bàng, Quán Chim,
B́nh Giă . Nhưng những bước chân phiêu bạt đó đâu làm tôi phải bận
tâm cho lắm và nếu thân không ngă ở sa trường th́ dù ở đầu sông góc
núi, cuối băi trên gành nơi nào cũng là Việt Nam quê hương muôn đời
của tôi, cho nên thế nào tôi cũng phải quay về .
Nhưng hỡi ôi ! Hôm nay trên muôn dặm rủi may đi t́m đất sống . Lần
đầu tiên tôi phải bắt buộc rời xa quê hương, tôi đă thực sự chối bỏ
mọi ân t́nh để dấn thân vào con đường mịt mù cát bụi . Tự dưng tôi
bỗng thấy bồi hồi và chua xót .
Tôi đến hải đảo Pulau Bidong vào một sáng mùa đông buồn hiu quạnh
trên một con thuyền xa lạ và một cuộc hải tŕnh không lư thú . Chúng
tôi 34 người Việt Nam vừa mất nước, tan nhà, như những tên tội đồ im
lặng đi vào đất người với hành trang mang theo từ đất Mẹ . Đó là
những di chúc cuối cùng, vói dặn kẻ ra đi phải mau trở về với niềm
vui cho quê hương . Ngày nào giặc c̣n là ngày đó chúng ta c̣n phải
liều thân tranh đấu . Ôi hai tiếng đấu tranh làm cho hồn tôi thêm
nghẹn ngào tức tưởi . Bao nhiêu người đă bao nhiêu năm khổ đau cùng
với quê hương quyết một ḷng tranh đấu nhưng cuối cùng phải trốn
chạy để tháng năm sống vất vưởng ở quê người .
Tôi buồn bă rời con tàu Mă Lai để bước chân lên hoang đảo như thầm
nghẹn hiểu rằng, tôi đă vĩnh viễn rời xa biển, chẳng c̣n hy vọng để
trở về nguồn . Ôi nh́n màu nước biển xanh thẩm, trong mát với hương
vị mặn nồng đă khiến cho tôi thèm nhớ quê hương
Tôi đă sinh ra ở Phan Thiết, bao nhiêu năm sống c̣n nhờ biển cả nấng
nuôi và nay cũng từ Phan Thiết ra biển cả t́m sinh lộ . Tôi đă thực
sự rơi nước mắt, sỏi đá gai nhọn và cát biển đă làm cho tôi hồi tỉnh
. Tôi đă thành một tên Do Thái từ đây.
. Pulau Bidong cái tên Mă Lai hoang dă đă làm cho tôi thêm cảm xúc .
Tại sao nơi đây không phải là Ḥn Rái, Ḥn Rơm, Ly Sơn, Phú quư ?
Trơ mắt nh́n cảnh mới mà thêm ngại ngùng . Trước mặt tôi đảo Bidong
lạnh lùng như một bóng ma với bao nhiêu dị kỳ, bí mật, xa xa bên
trong là ngọn núi xanh thăm thẳm, đó đây rải rác những bóng dừa cao
vút, ngạo nghễ reo vang với tiếng sóng bể nhấp nhô gào thét y như
bóng dáng đen đúa của những người Cảnh Sát Mă Lai với khẩu súng cầm
tay, xí xô trước đám dân Việt rét run v́ ướt át và tủi hận . Ôi đời
lưu vong là thế đó
Chợt tôi thấy hoa mắt, một h́nh ảnh đẹp nhất trong muôn ngàn h́nh
ảnh đă theo tôi qua bảy ngày khổ đau đi t́m đất Hứa . Đó là h́nh ảnh
của những người Việt Nam thân yêu của tôi, từ trung tâm đảo ào ào
như thác đổ, vội vă chạy đến bao quanh chúng tôi để han hỏi, vui
mừng, cầu chúc và chia sẻ bớt những giọt lệ tủi sầu đă lăn trên má
của đám người từ đất chết trở về . Đó là kỷ niệm đầu tiên mà tôi ghi
được . Tôi sẽ mang theo trên khắp các nẻo đường xa xứ từ đây để hiểu
rằng dù một thực tại có phũ phàng cay đắng . Tôi vẫn c̣n được hưởng
trọn vẹn t́nh cảm của đồng bào của quê Mẹ Việt Nam .
ĐÊM ĐẦU TIÊN NHỚ MẸ
Có lẽ các em sẽ rất ngạc nhiên khi đọc qua những ḍng chữ này để rồi
tự hỏi : “Tại sai tác giả phải chờ đến đây mới “Nhớ Mẹ” c̣n những
giây phút về trước th́ sao ? Xin trả lời rằng : “Tôi không biết ǵ
trong khoảng thời gian trốn chạy đầy đắng cay khổ đau trên biển cả,
sự vất vả cùng tận đă thật sự bóp chết con tim rồi .
Tôi đâu có ngờ tôi phải bỏ quê hương để trốn chạy một cách âm thầm
tức tưởi như thế này . Bởi thế, lúc ra đi tôi đâu có nghe được lời
mẹ dăn ḍ, khuyên bảo . Buổi tạ từ, tôi cũng không nh́n được mẹ già
một lần sau cuối, để gói trọn h́nh ảnh mẹ già vào hành trang dành
cho cuộc viễn hành vô hạn định . Ôi, tôi là đứa con đầy tội lỗi, tôi
đă ích kỷ v́ cuộc sống riêng tư mà không đoái hoài ǵ đến đời của
Mẹ, một người mẹ mà suốt đời tôi tôn thờ yêu kính . Tôi c̣n nhớ thuở
lên 18 tuổi, lần đầu tiên bước chân vào thế giới thi ca, tôi đă cùng
nàng thơ bé bỏng của tôi ca tụng mẹ hiền với những thanh âm đầy tha
thiết . Những điệp khúc đó nay đă 20 năm qua vẫn c̣n là những điệu
ca réo rắt trong tâm hồn tôi .
-“Mẹ hiền ơi, con yêu mẹ muôn đời
T́nh của mẹ là t́nh yêu bất diệt
Con yêu mẹ cũng như yêu nước Việt
Mẹ là nguồn suối ngọt giữa hồn con
Để rồi hôm nay tôi viết tiêp :
Mẹ hiện về trong cuộc sống cô đơn
Cho con những nụ cười trên đất khách
Cho con hơi thở ấm yên, trong sạch
Cho con tấm gương soi sáng muôn đời
Mẹ hiền ơi, t́nh của mẹ tuyệt vời
Con đă viết nhưng không sao viết hết
Đẹp hơn ánh trăng rằm xanh biếc
Đẹp hơn đôi mắt của giai nhân
Con nguyện cầu mẹ măi sống b́nh an
Để hướng tay chèo về cố quốc
C̣n có Mẹ con không hề ngừng bước
Mẹ là bến cuối của đời tôi
Ba mươi bảy tuổi rồi, thế mà tôi vẫn xem như ḿnh c̣n bé bỏng như
thuở nào, giữa khung trời cô quạnh, tiếng một bé nhỏ nào khóc gọi mẹ
trong đêm, đă khiến cho tôi bồi hồi xúc động . Tôi đă thét gào trong
bóng tối để gọi to hai tiếng Mẹ ơi ! Tôi khóc v́ mẹ tôi nay đă già
rồi, như bóng đèn sóng lụn . Tôi khóc v́ ḿnh sẽ không c̣n dịp nào
nữa để được ṿi vĩnh mẹ già, để được nâng niu tŕu mến và để được mẹ
già chia sẻ nguồn hạnh phúc gia đ́nh
Rồi đây trên bước đường phiêu bạt, tôi chỉ là một con chim nhỏ lạc
đàn, sống trơ trọi không nơi nương tựa, muốn c̣n thương nhớ mẹ chỉ
c̣n biết hẹn trong những giấc mơ . Tôi sẽ gói trọn những h́nh ảnh
thân yêu tôn kính của Mẹ tôi để muôn đời làm ngọn hải đăng soi sáng
bước đường tương lai . Mẹ là tấm gương muôn đời cho tôi gạn lọc cuộc
đời trong đục . Mẹ là bến về mà tôi chọn làm đường đến của thời gian
.
Hỡi những ai may mắn có Mẹ bên ḿnh, hăy cho tôi san sẻ chút t́nh
mẫu tử, hăy cho tôi một lần gọi tạm hai tiếng mẹ ơi, hăy mượn người
mẹ già của bạn lau giùm tôi những ḍng lệ khổ sầu mà tôi chợt trào
ra khóe mắt . Hăy giúp tôi một lần sau chót, khi tâm hồn chưa ổn
định với thời gian, khi h́nh ảnh của mẹ tôi chưa xóa mờ, khi tôi chỉ
là đứa con đang bơ vơ đi t́m Mẹ .
Honolulu tháng 4-1979
Mường Giang
Qua Những Nẽo Đường Pulau Bidong
Ngày 27-10-1978, chúng tôi đưọc tàu Mă Lai chở từ Trengganu đến
PulauBidong, 34 thành viên tàu PTM1109 đưọc tiếp nhận vào trại tạm
cư với số thứ tự tàu 100. Chúng tôi đưọc phân phối một nhà tiền chế
tại khu F sát chân núi. Do quá xa và bất tiện, nên gia đ́nh ông S và
L tự làm lều cạnh kho tiếp liệu thuộc khu A để ở, tôi cũng theo họ
v́ chỉ có một ḿnh. Nói them khi chúng tôi đến, Bidong chỉ có 3
chiếc tàu của B́nh Thuận, một chiếc giả cào Nùng và một tàu quốc
doanh đều ở Phan Rí và một tàu đi bán chính thức của Phan Thiết mang
số 65. Tất cả người trên ba tàu trên chưa có ai d8ưọc gọi ra phái
đoàn, mặc dù họ tới Mă Lai rất lâu.
Trong thời gian chờ đợi và cũng cần kiếm một chỗ ngũ an toàn ban đêm
tránh mưa gió nơi hội trường,nên, bọn tôi t́nh nguyện vào làm Ban Xă
Hội của Trại Bidong. Công tác chính là “chôn người chết trên đảo”.
Tôi đưọc đề cử là chủ hảng “Tô Bia”, hai ông S và L chuyên đóng quan
tài, bốn anh em c̣n lại làm phu khuân vác và đào huyệt..Nhờ vậy mà
bọn tôi đưọc phân phối một vài bô quần áo cũ, thay bộ quần áo trận
vá tram mănh đă theo chúng tôi từ quê hương nghèo khổ cơ cực tới
đây..
Công tác bắt đầu vào một buổi sáng mùa đông lạnh lẽo, bên ngoài trời
đang lất phất mưa bay, đem them sự lạnh buốt vào tâm hồn người viễn
xứ,
Nhưng đời đă thế th́ thôi hăy cứ theo đời mà sống cho vui. Trong lúc
quanh ta c̣n triệu triệu người khác c̣n bất hạnh và đau hận gấp ta
vạn lần. ..Nghĩ như vậy nên anh em trong hảng cố gắng giúp đồng bào
hoạn nạn, mặc dù cả bọn đều sợ lây các bệnh truyền nhiễm, khi phải
tiếp xúc với tử thu.
Từ khi bước chân vào đời, giă từ tuổi mộng, rời bỏ mái trường yêu
với những ngày hoa bướm. Tôi đă dăi dầu với gió mưa, dấn thân vào
những nẻo đường chết, hằng giờ, hằng ngày và liên tiếp chẳng bao giờ
ngớt đối diện với tử thần. Nh́n bạn chết v́ súng đạn của kẻ thù,
nh́n kẻ thù ngă gục v́ đạn súng của ta rồi mềm ḷng khi nh́n lại,
nh́n qua, ôi cũng chỉ là da vàng, mũi tẹt..cũng vốn ḍng máu Lạc
Hồng bất khuất,nay v́ ai bôi mặt giết nhau . .
Rồi hôm nay lại có những cái chết giữa quê người, chết lềnh bềnh
trên biển cả v́ giông băo thất thường, v́ đói khát sau bao ngày trôi
giạt, v́ viên đạn bạo tàn luôn theo dơi . Lại có những cái chết ngay
trên bờ đất hứa, chết khi đă nh́n thấy bờ tự do, chết thật là tức
tưởi .
Đó thân phận của dân tộc chúng tôi như thế, viết bao nhiêu cũng
không hết tủi hờn, càng viết lại càng buồn hơn, càng gượng vui lại
càng thêm trống rỗng ‘
Chúng tôi bảy thằng khố rách, đă một thời ngang dọc vẫy vùng, nay sa
cơ thất thế, ôm mộng vỡ trong tim, chôn hào khí qua tháng ngày sống
lang thang trên hải đảo . Mắt ngu ngơ giữa cảnh lạ xa, mặt hốc hác
v́ supply quá ít, nay bước vào bệnh viện lănh nhiệm vụ chôn người .
. Tôi đă chôn người nhiều rồi, chôn xác bạn trên chiến trường vội
vă, chôn xác thù giữa chiến địa quạnh hiu . Rồi trong các trại cải
tạo, giữa khu Kinh Tế Mới, tôi đă dự phần lo việc chung thân cho bao
nhiêu người bằng hai bàn tay, bằng vài thanh tre mục, một chiếc hố
đen, một con người bất hạnh, tất cả chỉ là cát bụi . “Sinh là kư mà
tử là qui” . Thế gian là không không tất cả, nhưng chôn người tuy
chẳng khó mà đứng nh́n xác chết lạnh tanh trong cảnh ly biệt thống
khổ của đời phù sinh, giữa biển nước mắt, nghe giọng nỉ non của thân
bằng quyến thuộc kẻ xấu số, để dửng dưng là một việc vô cùng khó xử
. Khóc ư ? Tôi không c̣n nước mắt, cười ư, tôi đă héo con tim, vậy
th́ dửng dưng làm tên ngu ngơ mất trí sao nghe chán năn đủ điều .
“Chợt thấy cay xè trên chót môi
Rờ tay mới biết lệ ḿnh rơi
Con người sinh tử là qui kư
Th́ có ǵ đâu phải ngậm ngùi ?
Ghi lại đây những kỷ niệm vui buồn trên hải đảo để nhớ lại những
ngày phiêu bạt vất vưởng ở Bidong . Và làm sao quên đưọc chiều 30
Tết, trước đêm giao thừa 1978, bọn tôi vẫn c̣n phải đi chôn xác
người..
NGÀY MAI TÔI RỜI HẢI ĐẢO
Tôi đến Bidong với hai bàn tay trắng ngoài một bộ đồ trận cũ rách
che thân. Trong ḿnh không mang theo bất cứ một thứ giấy tờ ǵ của
xă nghĩa cấp kể cả tờ xuất trại năm 1977. Do đó khi tŕnh diện ban
hành chánh trại Bidong để lập thủ tục ra phái đoàn, tôi khai ǵ họ
cũng không tin, cuối cùng phải ghi nghề đánh cá.
Ngày 5-1-1979, phái đoàn Úc đến làm việc kêu tôi phỏng vấn, không
ngờ họ nhận.Tiếp theo là ngày 10-1 phái đoàn Mỹ cũng gọi tôi . C̣n
nhớ hôm đó tại hội trường, tôi đến tŕnh diện ông trưởng phái đoàn
Mỹ. Người này sau khi xem hồ sơ của tôi rồi để xuống bàn suy nghĩ
chuyện ǵ đó. Chợt ông hỏi tôi bằng tiếng Việt “ Anh có đi lính VNCH
không, có lần nào phuc vụ tại TK B́nh Thuận không, nếu có năm nào,
lúc đó ai là Tỉnh trưởng ?”
Nghe ông hỏi tôi thấy cũng lạ v́ trong hồ sơ rơ ràng ghi tôi làm
nghề đánh cá mà. Tuy nhiên tôi cũng thành thật trả lời “ Tôi là một
cựu sĩ quan cũng là một cựu Tham Sự Hành Chánh của VNCH. Tôi từng
phục vụ tại Sư Đoàn 18BB, BCH5TV và Ty Cưu Chiến Binh B́nh Thuận với
chức vụ Phó Ty. Tỉnh Trưởng lúc đó là Cựu Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa cho
tới ngày 19-4-1975 B́nh Thuận thất thủ. “ Nghe tôi trả lời, ông cười
và hỏi them “Anh cố nhớ Tôi là ai không ?”. Qua câu hỏi trên, tôi
mới dám nh́n thẳng ông và chợt nhớ và trả lời “Ông là vị cố vấn
trưởng của tỉnh BT, làm việc bên Corp, phải không thưa ông ?.
Lúc đó ông mới xếp hồ sơ và bảo tôi “Mỹ nhận anh nhưng anh phải từ
chối phái đoàn Úc trước”. Tôi dạ và cám ơn .
Và đúng như lời ông hứa “ ngày 13-3-1979 tôi đưọc gọi đi định cư tại
Hoa Kỳ. Cũng từ đó, tôi mới dám viết thư liên lạc về gia đ́nh, dù
không biết vợ con ra sao từ khi tôi rời khu KTM. Nhưng mặc kệ, ǵ ǵ
th́ cũng phải báo tin ḿnh c̣n sống với Mẹ, Em cùng các con, để mọi
người t́m lại những thâm t́nh mà thời gian qua tôi đă tạm cắt đứt v́
sự khe khắt cay nghiệt của đệ nhị quốc gia tôi đang tạm cư”
Thế là mai này tôi được phép rời đảo để dấn thân vào một phương trời
xa lạ biền biệt như đám chim Việt năm nào đă rồi cội nguồn để đi
lánh giặc . Tôi không ao ước ǵ cả, bởi cuộc đời đối với tôi, giờ
c̣n ǵ mà mơ ước ? Tôi chỉ là con người cô độc từ thể xác đến linh
hồn, tôi sung sướng hay khổ đau cũng chỉ riêng tôi hứng chịu ! C̣n
gia đ́nh tôi hiện nay đang sống đói rách thảm thê . Tôi sung sướng
bản thân để đọa đày cho những người ở lại, tôi hănh diện được sinh
tồn để cho gia đ́nh càng lúc càng đi vào cơi hủy diệt và tôi viết
cho ḿnh với đau khổ th́ những người thân nếu đọc được lại rơi nước
mắt . Ôi đời sao cứ măi đuổi xô tôi thế, không lúc nào buông tha cho
tôi được sống an lành dù chỉ một phút giây để cô đơn hưởng chút âm
thừa của hạnh phúc gia đ́nh c̣n sót lại trong bước đường tha phương
Tôi chẳng biết làm ǵ để giết thời giờ khi nằm chờ đợi phương tiện
rời đảo . Bạn bè th́ tôi đă từ giă hết cả rồi . Tôi cũng đă đi thăm
từng nơi, từng chỗ trên hải đảo, nơi đă cho tôi dung thân gần 5
tháng, tuy khô cằn sỏi đá nhưng thấm đượm t́nh thâm v́ cũng chính
nơi này tôi đă cùng đồng bào chia sẻ tất cả những cay đắng ngọt bùi
và ư thức được rơ ràng về dân tộc, quốc gia, về nỗi nhục nhă của
những người mất nước, sống cảnh lưu vong, hèn hạ hơn loài cây cỏ,
chui rúc như kiếp kư sinh trùng, tháng ngày cứ măi đưa hai bàn tay
để nhận lănh supply sống, mà không ngớt vuốt mặt cho nước mắt đừng
rơi . Ôi Pulau Bidong chính là một khúc ca trường hận . Tôi quỳ đây
để chiêm ngưỡng nó mà không ngớt hoan hô .
Nhưng dù sao hoang đảo cũng đă cho tôi lắm kỷ niệm . Tôi làm sao
quên được ngày 27-10-1978, bước chân lên đảo với tấm thân tàn tạ,
đau khổ ngỡ ngàng trong cảnh xa lạ, tủi hổ v́ đời xua đuổi và điên
cuồng nhung nhớ về cố lư . Rồi tháng ngày lại qua như thoi đưa, ngày
không đợi chờ người và người cũng chẳng cần ngày . Nên tôi ao ước
được mau đi định cư th́ tôi cũng thầm xót xa khi nh́n lại mái tóc
xanh mỗi ngày thêm bạc . Ôi đúng như lời Đặng Dung đă viết :
-“Nợ nước chưa xong, đầu đă bạc
Mài gươm dưới nguyệt đă bao lần …"
Tôi đă làm ǵ để sống ở đây khi chỉ có 2 bàn tay trắng, giữa lúc mọi
người cứ măi xum xoe là lượt, thật tội nghiệp cho những thằng nghèo
hèn . Bởi thế khi viết đến đây, tôi không khỏi chua xót khi những
người c̣n ở lại cùng một cảnh ngộ như tôi, sống đói rách cô đơn và
luôn luôn bị thiệt tḥi . Bởi c̣n một số người đời đă đến đây dù đă
trải qua bao nhiêu ngày chung sống nhục nhă với cộng sản, vẫn chưa
bỏ được những thói hèn tật rởm đáng thương cho họ thật .
Thôi cũng đành một lần nữa ra đi, tạm chia tay những người bạn thân
yêu thuở nào . Cầu chúc tất cả đồng bào c̣n ở lại sớm được lên đường
đến chân trời mới để lập lại cuộc đời với đầy đủ cỏ lạ hoa thơm đang
chờ chực . Chúc hải đảo muôn năm bền chặt với thời gian để ngạo nghễ
khoe ḿnh trên biển nước .
-“Chúc các em nhỏ an b́nh
-Chúc những bà mẹ già khỏe mạnh
-Chúc đồng bào trăm phần may mắn
-Mong đất trời yên lặng
-Mong hải đảo luôn luôn xinh đẹp
-Để cầu liên lạc giữa Pulau Bidong với trần gian
-Người mới được nhập trại, kẻ ở mau ra đi và tất cả tàu PTM1109 đều
được may mắn đi Hoa Kỳ .
Honolulu tháng 4-1979
Mường Giang
Đường Về Nước Mỹ
Chúng tôi đến Merang vào lúc 16 H chiều ngày 19-3-1979. Thú thật tôi
cũng không ngờ được là giây phút cuối cùng rời xa Pulau Bidong, nơi
đă cưu mang tôi 140 ngày, nơi tôi biết thế nào là sự tủi cực khổ đau
của đời lưu vong mất nước, kiếp ăn nhờ ở đậu..tuy nhiên tôi vẫn
không nén đưọc nỗi xúc động và lưu luyến thật sự khi chia ly.
12 giờ trưa bước chân vào đồn cảnh sát Mă Lai để khám xét hành lư và
lập thủ tục xuất trại. Sau đó qua công “La Sanh Môn” để bước chân
xuống chiếc PRC4 rời đảo . Ôi c̣n ǵ cảm động cho bằng giây phút này
? Nh́n đồng bào đang đứng trên bờ vẫy gọi, cầu chúc, trao gởi, mới
thấy thắm thía biết bao về t́nh dân tộc, nh́n những cặp mắt thiết
tha dường như muốn rơi lệ của những người c̣n ở lại, mới đau ḷng
trong cảnh chia ly . Tôi tiếc cho ḿnh không phải là một gă tài hoa
để sống cảnh sinh t́nh, viết ngay những vần thơ diễm tuyệ gởi đến
cho đồng bào, cho ta, để ghi lại tất cả những kỷ niệm của ngày xa
đảo, để được đọc lại những buồn vui, đau khổ, trên bước đường viễn
xứ .
-“Thôi ḿnh biết nói ǵ đây ?
Khi buồn thương đă chất đầy trong tim
Mai này như một cánh chim
Trời thênh thang rộng biết t́m nơi đâu ?
Lũng, đèo buốt giá mưa ngâu
Biên cương nay đến, giang đầu mai qua
Rừng Sim non sẽ chín già
Tuổi hoa theo bóng ác tà lên non
Như đời trấn thủ lưu đồn
Bỏ công ngày tháng sách đèn đam mê
Nhưng thôi, dù có vương vấn, bịn rịn hay buồn đau th́ tôi cũng đă xa
Pulau rồi . Tôi đang đến trạm đầu tiên trên đường tiến về cổng thiên
đường của nước Mỹ : Merang .
Đây là một trong những địa danh trên đất Mă Lai Á, nhưng cái tên này
hầu như đă gắng liền trong tâm khảm của đồng bào tị nạn ở miền West
Malaysia. Nó là một địa điểm tiếp liệu từ Trengganu xuôi về Kuala
Lumpur . Nói rơ ra, Merang là nơi mà đồng bào tị nạn ở các trại
Pulau Bidong, Besar và các trại giáp biên giới Thái Mă, đều phải đến
đây nghỉ chân 1 vài ngày rồi lên đường về thủ đô lập thủ tục và
chiếu khán để đi định cư ở đệ tam quốc gia .
Merang làm cho tôi cảm t́nh ngay, không phải nó với đầy đủ tiện
nghi, không phải nó cho tôi tự do tối thiểu, mà v́ Merang quá quen
thuộc và gần gũi với tâm hồn tôi . Thật vậy, Merang giống Cam Ranh,
cũng nằm ngay trên bờ biển Thái B́nh Dương, chập chùng quanh quẩn là
những núi đồi cao vút . Merang cũng nằm trên trục lộ chính . Merang
cũng có những rặng dừa xanh thẳng tắp, điệp điệp mộng mơ . Nhưng
chính Merang là nơi mà tôi lại sắp được gặp gỡ những người thân từ
các nơi trẩy về .
Đêm nay tôi được ngủ lại Merang để mai lên đường dấn thân vào cơi
gió bụi phù hoa làm lại cuộc đời mới, cuộc đời mà tôi biết chắc chắn
sẽ là những nấm mộ đen che kín tâm hồn tôi, cuộc đời của một kẻ thất
chí tan nhà . Nghỉ, nhớ và viết để tôi càng thêm ngậm ngùi .
Nằm yên lắng nghe những chiếc lá bên ngoài đang x́ xào, nghe sóng vỗ
bập bềnh, tâm hồn cũng lao xao, ray rứt, giữa đêm đen khi nghe tiếng
con chim lạc lơng cất tiếng kêu thảm thiết, có khác chi cảnh ngộ của
tôi giữa cuộc đời phù phiếm sắp dấn thân vào . Tôi cũng chỉ là một
con én đang nhỏ hồn trong đợi những trận gió xuân ấm áp để xuôi về
cơi trời Nam .
Th́ ra cũng chỉ là những câu hỏi được lập đi lập lại, những chặn
buồn trong điệp khúc của bản nhạc sầu vong quốc, khóe mắt tương tư
của người mang mối t́nh lỡ với sự dày ṿ và hối hận của một tâm hồn
đang gục chết, đang đi vào những lối quanh bế tắc, vây kín tơ nhện
giăng lối về . Đi là sự nhớ thương triền miên cùng tận đă dành cho
kiếp lưu đầy . Ôi rồi tôi sẽ phải làm ǵ cho tôi, cho gia đ́nh, quê
hương trong những ngày sắp tới .
Merang quả là nơi lư tưởng,nó không giống Bidong một điểm nào .
Chúng tôi được tự do ra vào cửa từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, ăn uống
mua sắm tự do nếu có tiền và các phương tiện tối thiểu dành cho một
đời sống như nước, cơm, chỗ ngủ, chỗ tắm và giải trí đều có sẵn hơi
thừa thải
Bởi thế tôi không thể quên nổi Merang dù đă xa ĺa nó . Tôi sẽ nhớ
lại những địa danh xa lạ cùng những người bạn Mă Lai trong cơn vui
buồn . Tôi thầm cầu nguyện được trở lại quê hương Việt Nam để cùng
non nước vui hưởng lại hạnh phúc như thuở thanh b́nh .
KUALA LUMPUR NHỮNG NGÀY DÀI CHỜ ĐỢI
8 giờ 30 sáng ngày 21-3-1979, chúng tôi đến trại tiếp liên Cheras ở
ngoại ô thủ đô Kuala Lumpur của Mă Lai Á, sau một đêm dài trằn trọc,
lao chao và mất ngủ trên xe bus.
Tôi không biết phải dùng danh từ ǵ để gọi cho đúng cảnh tượng mà từ
đằng xa tôi đă thấy từ trong ṿng rào kẽm gai với lố nhố những đầu,
mặt, tay đang vẫy gọi cùng với những thanh âm le lói . Tất cả, tất
cả dành cho người mới đến .
Tôi đă bước vào cổng trại Cheras, đi vào ngôi thánh đường trống rỗng
đức tin, chỉ có người và người mà thôi . Vói nh́n chung quanh, trại
được bao vây bằng những hàng rào kẽm gai cao vút, có lính gác nghiêm
mật . Bên trong đen kịt những người chen chúc sống trên một diện
tích vài trăm m2, tấp nập quanh rào, phía trước, bên hông, đằng sau
là những đống rác to xù, chen chân với phân người, muỗi bọ và những
người tị nạn từ khắp các nẻo đường Mă Lai Á đổ xô về đây để đợi chờ
lên đường đi định cư.
Đời thật nản chi lạ, ở đâu trên đất Mă Lai này, cũng bằng thứ ấy
thật giống nhau, được bày sẵn để dành cho người tị nạn . Tôi lại một
lần nữa gia nhập vào cộng đồng của những tâm hồn lạc lơng để tham dự
một cuộc hành xác, để đợi chờ một lần cuối cùng, mai xách gói ra đi,
bỏ Mă Lai Á, bỏ ngôi giáo đường không, bỏ bạn bè và tất cả.
Hỡi ơi, suốt thời gian tạm trú ở đây với sự bảo trợ của Hội Hồng
Thập Tự Quốc Tế dành cho người tị nạn VN t ại Mă Lai, hầu như không
c̣n ǵ nữa để tôi phải nhắc đến . .
Tôi đă gặp lại những khuôn mặt quen thuộc ở nơi này. Tất cả đă méo
mó, mệt mỏi, nên khi họ gặp tôi, họ đă ra dấu thánh giá như nhờ bề
trên ban phước lành cho tôi sớm được ra đi, v́ c̣n ở lại nơi này là
từng phút qua, cổ lại mang vào một ṿng khoen khổ ải . Những cảm
nghĩ cứ dến với tôi liên tiếp và dồn dập, làm cho tôi không biết
phải xếp đặt thế nào để viết . Ôi cớ sao sự vất vả và tủi hổ cứ liên
tiếp đến với người tị nạn chúng tôi ? Tại sao người ta không cho
chúng tôi một ngày ổn định, để chuẩn bị tư thế bước vào một cuộc
sống mới .
Thôi tôi đă hiểu rồi, số phận của người tị nạn là thế .Tôi chờ đợi
một chuyến ra đi cuối cùng, tôi sống càng lúc càng thu hẹp lại như
những ṿng kẽm quanh nhà thờ cũng cứ măi thu hẹp lại, mắt trơ tráo
đứng nh́n những người thân yêu lần lượt ra cổng, giă từ ḿnh . Họ
cũng ra đi nhưng chẳng biết đi về đâu . Cũng như tôi sẽ chẳng biết
là ở lại bao lâu nữa !
Rồi mai bước chân ra khỏi cổng trại, cách xa vĩnh viễn Cheras để rồi
càng xa thêm Việt Nam, tôi tự hỏi ḿnh lại đến bao giờ mới được quay
về cố huong để cùng non nước, gia đ́nh, bạn bè nối lại ṿng tay lớn
.
Ghi vào đây một vài ḍng trong nỗi buồn ở Cheras .
Honolulu
4-1979
MG
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi