Khi được tin anh bạn đồng tù “cải tạo” năm xưa
vừa qua đời ở Việt Nam, tôi thật sự đau ḷng và hối tiếc cho anh.
Phải chi anh cùng tôi sang định cư ở đất Mỹ này, có lẽ anh c̣n sống
lâu hơn! Tôi c̣n nhớ lần cuối gặp anh trên cầu chữ Y vào buổi chiều
một năm trước ngày tôi lên đường đi tỵ nạn ở Hoa kỳ. Lúc ấy tôi đang
g̣ lưng đạp chiếc xe cũ kỹ lên dốc cầu, bỗng thấy một thanh niên
cưỡi chiếc xe gắn máy hiệu Honda mới toanh, ngoắt tay gọi tên tôi và
ra dấu ngừng lại. Chúng tôi tựa vào thành cầu thân mật tṛ chuyện.
Anh ta hỏi tôi:
-Nghe nói anh sắp đi Mỹ theo diện H.O. phải không? Tôi nh́n anh vui
vẻ đáp: -Vâng, phái đoàn Mỹ phỏng vấn đồng ư cho đi rồi. Chỉ c̣n chờ
khám sức khỏe là xong. Anh cũng làm xong thủ tục đi tỵ nạn ở Mỹ rồi
chứ? Anh quay mặt nh́n gịng nước chảy dưới cầu, trả lời giọng không
vui: - -Không, tôi không đi. Anh nghĩ sang Mỹ mà làm ǵ? Đất nước
Việt Nam hết chiến tranh, thanh b́nh trở lại rồi. Sang bên xứ lạ,
làm ǵ mà sống? Nhất là tạm cư ở một xứ tư bản, ḿnh sẽ bị kỳ thị,
bóc lột… sống sao nổi! Tôi nh́n khuôn mặt mập mạp của anh mà ngao
ngán lắc đầu. Mười năm trước, anh nằm sát bên tôi ở trại tù “cải
tạo” Thanh Cẩm, Thanh Hoá. Người bạn đồng cảnh với tôi vốn hiền
lành, nhút nhát, bỗng một hôm xuất hiện trong buổi văn nghệ của
trại, với khăn rằn quấn cổ, với chiếc mũ tai bèo, với những bài vọng
cổ sặc mùi “cách mạng”! Tôi tưởng anh muốn lấy ḷng cán bộ trại để
được về sớm…. Nhưng kết quả anh vẫn không được ưu đăi ǵ, mà trái
lại, ngày càng ốm o gầy ṃn v́ đói mà vẫn phải cố gắng “tập tuồng”
những bài cải lương “ca ngợi giải phóng”!
Năm năm sau, anh được về cùng đợt với chúng tôi. Trong những ngày
mới được phóng thích, anh ta được nhận vào làm ở Cửa hàng thực phẩm
Vissan Sài g̣n. Chỉ một thời gian ngắn, anh phương phi béo tốt hẳn
lên. Hôm nay, nghe người bạn từng ở tù v́ “tội ngụy quân ngụy quyền”
lại thốt ra những lời chê bai xứ Mỹ, yêu cái đất nước Việt Nam hiện
tại an b́nh, tốt đẹp này, đă từ chối không đi tỵ nạn ở Hoa kỳ, th́
tôi thật sự ngao ngán…
Tôi nh́n anh, lên tiếng sau một lúc cố nén bực tức: -Bạn ạ! Chắc anh
chưa quên những năm tháng đói khổ trong trại “cải tạo” Thanh Cẩm.
Chắc anh chưa quên cảm giác thèm thịt, dẫu một miếng thịt chuột mà
hôm ấy chúng ta cùng chia nhau…Nhưng về đây anh có may mắn được cho
vào làm việc ở một nơi sản xuất thịt heo như công ty Vissan. C̣n tôi
vẫn c̣ng lưng đạp xe đi làm thư kư cho các cơ sở sản xuất tư nhân,
lương không đủ sống, thịt không được mua dễ dàng như anh… Hôm nay
anh hỏi tôi “sang Mỹ làm ǵ?”, tôi xin trả lời: “Tôi sang Mỹ để có
thịt mà ăn! Ăn cho bơ những ngày đói khát trong trại tù. Ăn cho bơ
cảm giác thèm thịt triền miên trong thời gian ấy”…
Nói xong những lời châm biếm mỉa mai với người bạn cựu tù đă chóng
thay ḷng đổi dạ , tôi chán nản đạp xe ra về, chẳng để ư phản ứng
của anh bạn thân, người đă từng chia với tôi từng miếng rau, củ sắn;
từng miếng thịt chuột mà tôi may mắn chộp được trong pḥng giam mườ́
lăm năm trước.
*****
Tôi vốn sợ chuột, mặc dù tôi tuổi măo, cầm tinh con mèo! Trong đời,
tôi chưa bao giờ làm việc cũng như sinh sống ở miền Tây Nam Bộ, nơi
người ta bán thịt chuột, ca ngợi món thịt chuột! Tôi cũng chưa bao
giờ nếm qua món thịt đặc biệt đó! Cho đến khi ra Bắc, tôi lại thêm
oán ghét con vật hay đục khoét, vụng trộm này! Trong trại, chế độ ăn
uống rất hà khắc. Ba ngày mới có một chén cơm, kỳ dư phải ăn bắp -
hạt cứng như đá; khoai lang - bé tí như đuôi chuột; khoai ḿ công
nghiệp - vừa đắng vừa hôi. Mà những thứ lương thực ấy lại quá ít để
bù lại năng lượng đă mất v́ lao động quá cực nhọc… Một buổi tối, tôi
được anh bạn có thân nhân tiếp tế, tặng cho một củ khoai. Tôi chưa
dám ăn và đem treo trên đ́nh màn. Lúc sắp ngủ, tôi cảm thấy đói
bụng, bèn nh́n củ khoai mà phân vân tự hỏi: “Ăn hay không ăn? Nếu ăn
th́ ngày mai đi lao động với chiếc bụng trống rỗng, phải chống gậy
mới đi nổi . Nếu không ăn th́ ngay bây giờ cơn đói hành hạ cái bao
tử chịu sao thấu? ” Đói, mệt khiến tôi ngủ thiếp đi. Nửa đêm tỉnh
dậy, nh́n lên đ́nh màn, th́ than ôi! củ khoai biến mất. Tôi nghĩ
ngay đến chú chuột thường chờ đến đêm lẻn vào t́m đồ tiếp tế trong
pḥng giam.
Một đêm đông giá rét, anh em trong pḥng giam co ro nằm sát bên
nhau, chờ giấc ngủ đến với nhiều mộng mị…Bỗng nhiên tôi nghe tiếng
kêu vui mừng của một anh bạn cùng pḥng: “Con chuột!”. Các bạn trong
pḥng ngồi bật dậy, phóng tới bắt con chuột. Chú chuột luống cuống
giữa đám người reo ḥ vây quanh. Tôi nghĩ ngay đến thủ phạm ăn cắp
củ khoai treo đ́nh màn đêm nọ, tức quá, bèn nhào tới chụp lấy chú
chuột. Tôi đắc thắng đưa cao để
khoe món chiến lợi phẩm vừa thu hoạch. Các bạn tiu nghỉu trở vào chỗ
nằm, ép bụng chờ giấc ngủ. Anh bạn nằm kế bên tôi chạy đến với nắm
giấy báo trong tay:
-Con chuột này mập mạp, ăn ngon lắm đó! Sẵn có giấy đây, ḿnh vô nhà
cầu thui lên… Không ăn bỏ phí của trời!
Vừa muốn trả thù thủ phạm đánh cắp củ khoai lang đêm nọ và vừa quá
đói bụng, tôi đồng ư ngay “giải pháp hợp lư “ của anh bạn đồng cảnh
! Trước khi ra tay, tôi “th́ thầm” với chú chuột:
-Ta với mi vốn không có mối thù “truyền kiếp” nào cả. Nhưng hôm nay
ta buộc ḷng phải hoá kiếp cho mi. Chẳng qua cũng v́ cơn đói ray rức
ta quá đó thôi! Trước khi sang thế giới bên kia, mi đừng oán trách
ta nhé!
Sau đó, tôi bóp chết chú chuột, lột da, vất bỏ bộ đồ ḷng, đốt giấy
thui chú chuột nhỏ bé đáng thương kia! Sau đó chúng tôi chia nhau ăn
hết con chuột, cả đầu lẫn đuôi… Tôi trở lại chỗ nằm trên thềm xi
măng, trùm chiếc chăn Nam Định mỏng manh, ngủ một giấc yên lành, có
lẽ nhờ chút “protein”của chú chuột ngấm vào chiếc dạ dày lép kẹp của
tôi.
****
Lúc c̣n ở bậc trung học Việt Nam, tôi đă từng đọc truyện ngắn “Miếng
Bít tết” của Jack London. Nhân vật chính của tác phẩm là Tom King,
một vơ sĩ quyền Anh ngoại tứ tuần. V́ sinh kế, anh ta buộc ḷng phải
so găng cùng một thanh niên trẻ tuổi hơn. Và trong trận đấu quyết
liệt ấy, Tom chỉ cần một miếng bít tết để có thể đạt đến thành công.
Nhưng anh nghèo không đủ tiền mua thịt. Bị cơn đói dày ṿ, anh ta
thua cuộc trong trận đấu định mệnh ấy.
Hồi c̣n trẻ, với cuộc sống vật chất khá đầy đủ giữa thủ đô Sài g̣n
trù phú, tôi chưa có kinh nghiệm về cái ĐÓI- cái đói triệt để và
triền miên. Nhưng trong những năm bị cầm tù trong trại “cải tạo”
miền Bắc, tôi mới thấm thía cảm giác đói khi bị thiếu ăn trường kỳ!
Cho nên, theo tôi nghĩ, nếu trong trận thư hùng giữa hai tay đấu
quyền mà Jack London đă mô tả, do thiếu miếng thịt ḅ nên cơn đói
hành hạ, khiến Tom King bị gục ngă, th́ miếng thịt chuột trong đêm
tối trời lạnh lẽo trong pḥng giam trại Thanh Cẩm đă khiến tôi cảm
thấy đỡ đói… Để rồi sáng hôm sau, tôi có thể vững bước trên con
đường đi lao động trong cơn giá buốt xứ Thanh …
****
Hơn hai mươi năm sau, vào một buổi sáng đẹp trời ngồi uống cà phê
với các bạn thơ văn trong tiệm Coffee Factory ở Westminster, miền
Nam California, một anh bạn - có lẽ chưa “nếm mùi cải tạo”, đă yêu
cầu tôi kể lại những tháng năm gian khổ trong trại tù ở
Miền Bắc Việt Nam... Nghe xong vài mẩu chuyện đắng cay trong trại
Thanh Cẩm mà tôi đă trải qua, anh bạn vui miệng hỏi thêm:
-Tôi nghe nói trong trại, gặp con ǵ nhúc nhích là các anh “xơi tái”
ngay, phải không anh?
Tôi liền đáp:
-Đúng và cũng không đúng, thưa anh. Thật ra, có những con vật hôi
hám, dơ bẩn chúng tôi không bao giờ đụng đến. C̣n những con vật khác
như chuột, rắn, rết, kỳ đà, kỳ nhông, cóc, nhái…đă tóm được khi đi
lao động, chúng tôi “mần thịt” ngay…
Hôm ấy tôi đă thanh minh thêm với các bạn: sở dĩ tôi kể lại những
trường hợp phải ăn những con vật mà các anh cho là gớm ghiếc, chỉ có
mục đích duy nhất là muốn bày tỏ ư chí sống c̣n trong trại tù CS!
Bởi trong bao năm bị đói khát hành hạ, bị buộc lao động quá cực
nhọc, chúng tôi phải t́m cách “mưu sinh thoát hiểm” để không bị gục
ngă, để khỏi phải nằm lại vĩnh viễn nơi đồi lim gần trại, nơi đă
chôn bao bạn tù xấu số khác.
Tôi nhớ lại ngày được nhận giấy ra trại, được cởi bỏ bộ đồ tù cũ
nát, trút bỏ những khổ đau nhục nhằn trong bao năm qua, mặc lại bộ
quần áo của ḿnh trước khi đi “cải tạo”, tôi cảm thấy ḷng tràn ngập
yêu đời. Tôi nh́n dăy núi bên kia sông quanh năm mờ mịt; nh́n ḍng
sông Mă cuồn cuộn chảy, từng nhận ch́m bao bạn đồng tù t́m cách bơi
qua trốn trại…! Trong những năm gian khổ đó, t́nh cảm của tôi cũng
giống như của nàng Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Nguyễn Du
ngày xưa:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Nhưng hôm nay ra khỏi trại, bỗng dưng tôi thấy những núi sông ấy lại
đẹp đẽ lạ thường! Bởi tôi đă được trả tự do, ít nhất là được thoát
khỏi cái nhà tù “cải tạo” nhỏ bé trên thượng nguồn sông Mă này…C̣n
cái nhà tù XHCN đang chờ tôi ngoài xă hội kia, tôi chưa thể biết
được!
Tôi hít một hơi dài như để tận hưởng cái không khí tự do đầu tiên
sau bao năm tù đày…. Một luồng sinh khí như bừng dậy trong người
tôi; và tôi cảm thấy như ḿnh khỏe mạnh trở lại. Khi leo lên chiếc
xe Molotova để xuống nhà ga Thanh Hoá, đón chuyến xe lửa Thống Nhất
về Nam, tôi nh́n lần cuối nơi đă bị giam cầm trong bao năm qua, nơi
ḿnh suưt bỏ mạng v́ bị đói khát, hành hạ … tôi nhủ thầm: cuối cùng
ḿnh đă thắng. Thắng v́ tôi vẫn c̣n sống, trái với chủ trương của
“bên thắng cuộc” muốn chúng tôi phải chết nơi rừng thiêng nước độc .
Đó là cái chết bi thảm của kẻ bị tù đày khổ sai biệt xứ!
Một người bạn đồng môn kiêm nhà thơ nổi danh hải ngoại, sau khi nghe
tôi kể về thời kỳ ở trong trại tù Thanh Cẩm, đă gửi tặng bài “Mùa
Hội Ngộ, trong đó có những vần thơ bi hùng như sau:
….Nhưng ước vọng chưa thành, quê huơng sụp đổ Tổ quốc oan khiên,
anh nhận lănh tội tù Trong đọa đày, trong nhục tủi khôn nguôi Anh
đứng thẳng nhận đ̣n thù tứ phía …………………………………………………..
Anh đă thắng v́ Anh vẫn c̣n sống đó Để hôm nay c̣n ngẩng mặt giữa
quê người Để hôm nay c̣n hiện hữu Anh, Tôi Cùng cầu nguyện cho những
người nằm xuống…...
Phùng Minh Tiến
*****
Tôi viết những ḍng hồi ức này vào một đêm đông giá lạnh tại miền
đất tự do, nơi tôi đă tỵ nạn hơn hai mươi lăm năm rồi. Tôi đă kể lại
với các bạn đến định cư trước ở xứ sở tự do này những mẩu chuyện về
những năm tháng trong trại tù “cải tạo” mà tôi đă sống sót. Nơi đó,
chúng tôi đă cố gắng mưu sinh, chống lại cái đói triền miên khiến
nhiều anh em tù nhân phải bỏ mạng….Nạn đói năm Ất Dậu 1945 đă xảy ra
tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5
năm 1945, đă làm chết hàng triệu người . Cho đến nay đă hơn bảy mươi
năm rồi, vẫn c̣n hằng trong trí nhớ những người Việt Nam đă chứng
kiến tại các đường phố Bắc Việt. Thế th́ những cái chết âm thầm của
các tù nhân xấu số trong trại “cải tạo” nơi miền rừng núi keo cư,
không ai biết đến, kéo dài hàng chục năm, trước mắt những bạn đồng
tù như chúng tôi, làm sao tôi có thể chóng quên được?
Thế nên, thỉnh thoảng tôi phải kể lại cho những người chưa bao giờ
nếm mùi tù “cải tạo” ở Việt Nam- những người đă hỏi tôi một cách ṭ
ṃ, nghi ngờ với đôi chút diễu cợt rằng: “trong trại cải tạo gặp con
ǵ nhúch nhích là các anh xơi tái ngay phải không?”! Tôi phải kể lại
cho những người có thân nhân đi tù biết rơ, để họ tránh những câu
trách móc đau ḷng: “các anh ở trong trại đă có người lo cơm nước,
khỏi phải lo toan những khó khăn chúng tôi phải chịu đựng ở nhà. Vậy
các anh nhắc măi chuyện đói khát làm chi?...”. Tôi phải kể lại cho
con cháu sau này thấy rơ sự thâm độc của chủ nghĩa Cộng sản. Để
chúng nh́n lại lịch sử thấy rằng: trong suốt thế kỷ 20 - từ ngày
Cộng Sản nắm quyền ở Nga, ở Đông Âu, ở Việt Nam, ở Lào, ở Campucia,
ở Tàu, ở Bắc Hàn, ở Cu Ba, cho đến hôm nay- sự tàn ác của họ chẳng
khác ǵ nhau. Và nếu, cho đến nay, người ta không biết rơ có bao
nhiêu thuyền nhân bỏ mạng trên biển cả để t́m Tự Do, th́ có lẽ cũng
khó biết được có bao nhiêu tù nhân đă vĩnh viễn nằm trong ḷng đất,
bởi lao động khổ sai, bởi đói khát triền miên không biết bao năm
tháng trong các trại cải tạo khắp đất nước Việt Nam, sau ngày Cộng
sản cưỡng chiếm Miền Nam…
Hồi ức của Tam Bách ĐBT
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi