Trung Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân như thế nào?


Viết để ngợi ca và vinh danh 275 chiến sĩ Mũ Nâu của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân và người bạn cùng khóa, cố Trung Tá Lê Văn Ngôn. Xin nguyện cầu hương linh của anh ngàn thu yên nghỉ! Anh chính là một biểu tượng của Tống Lê Chân, là niềm hănh diện của cựu sinh viên sĩ quan khóa 21 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam-Đà Lạt.

Nh́n lại toàn cuộc chiến mùa Hè của năm 1972, từ Dakto-Tân Cảnh xuống tới An Lộc-B́nh Long rồi ra tận Quảng Trị kiêu hùng, Trung Tá Lê Văn Ngôn đă nổi lên như một người hùng. Anh sinh năm 1941 tại thị xă Vĩnh Long, trong một gia đ́nh nho giáo, cha và người anh cả của Ngôn đều chọn nghề dạy học và rất được sự kính trọng của phụ huynh lẫn học sinh trong vùng.

Như bao thanh niên khác cùng thế hệ, Ngôn đành phải xếp bút nghiên, giă từ giảng đường đại học, nơi mà tuổi trẻ luôn miệt mài đầu tư cho tương lai tươi sáng của ḿnh. V́ anh ư thức được bổn phận và trách nhiệm của người trai trong thời quốc biến, cho nên, cuối năm 1964, anh t́nh nguyện gia nhập khóa 21 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam, như là một sự dấn thân để phục vụ lúc tổ quốc lúc đang cần.

Vào thời điểm ấy, Cộng Sản đă có những toan tính lọc lừa, ngang tàng xua quân vào để mở rộng cuộc chiến xâm lược miền Nam. Những trận đánh lớn đă thường xuyên xảy ra trên khắp bốn vùng chiến thuật và đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự tham chiến ồ ạt của Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam vào năm 1965.

Lê Văn Ngôn tốt nghiệp ngày 26 Tháng Mười Một, 1966, với cấp bậc thiếu úy hiện dịch và anh chọn Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt để phục vụ. Do nhu cầu phát triển của Quân Lực, vài năm sau đó, binh chủng này bị giải tán và được sát nhập vào Biệt Động Quân. Ngôn được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ huy trưởng trại Lực Lượng Đặc Biệt Biên Pḥng Tống Lê Chân vào năm 1972, rồi đơn vị này được cải danh thành Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân và Ngôn trở thành vị tiểu đoàn trưởng.

Nói về căn cứ Tống Lê Chân, nơi này là vùng đất của hai xă Minh Đức và Minh Tâm thuộc tỉnh B́nh Long, là một trại biên pḥng, nằm cách biên giới Việt-Miên 13 km về phía Nam và cách thị xă An Lộc 15 km về hướng Đông Bắc, nghĩa là hết tầm yểm trợ của đại bác 155 ly. Nguyên thủy, cứ điểm ấy mang một tên địa phương là Tonlé Tchombé, sau đó, chỉ huy trưởng đầu tiên của trại này là Thiếu Tá Đặng Hưng Long đă đổi thành Tống Lê Chân. Trại được bao quanh với tám lớp hàng rào kẽm gai, cộng thêm với hệ thống ḿn bẫy dầy đặc, tự nó đă rất vững vàng trong việc pḥng thủ, cũng đă góp phần đẩy lui nhiều cuộc tấn công điên cuồng của giặc Cộng. Ngự trị trên một ngọn đồi yên ngựa, cao khoảng 50 mét, nh́n xuống hai ḍng suối nhỏ là Takon và Neron và có một phi trường nằm trên ngọn đồi thấp của dăy yên ngựa này mà vận tải cơ C.123 có thể đáp được.

Tống Lê Chân bị tấn công kể từ ngày 10 Tháng Năm, 1972. Vào thời điểm khốc liệt ấy, những dàn pḥng không dày đặc của địch thực sự đă kiểm soát được ṿm trời của căn cứ, gây không ít trở ngại cho Không Quân VNCH khi phải thực hiện các phi vụ tiếp tế và yểm trợ.

Giống như t́nh trạng tại An Lộc, trong những ngày đầu bị vây hăm, mọi tiếp tế lương thực và đạn dược đều được thực hiện bằng cách thả dù. Nhưng hầu như chỉ một nửa rơi vào ṿng pḥng thủ của ta và phần c̣n lại th́ rớt xuống vùng của địch. Thế mà Tống Lê Chân vẫn đứng lừng lững, dũng cảm và hiên ngang với nhiệm vụ chận đứng mọi sự chuyển quân của Việt Cộng từ Cambodia xuống phía Nam, cứ điểm này chính là một vị trí chiến lược, trở thành một tiền đồn trọng yếu trong việc pḥng thủ Sài G̣n.

Tống Lê Chân được lực lượng Hoa Kỳ thành lập, họ xây dựng một hệ thống giao thông hào chằng chịt, rất thích ứng với chiến thuật pḥng thủ. Từ hệ thống có sẵn này, Ngôn ra lệnh cho binh sĩ đào ra những ngách nhỏ, kích thước vừa đủ trú ẩn cho mỗi cá nhân, vừa dùng để quan sát địch, vừa tránh pháo, lại vừa chiến đấu rất hữu hiệu.

Thật vậy, Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân và Ngôn đă cùng chung nhịp thở với Tống Lê Chân trong 510 ngày bị vây hăm, họ phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn. Họ phải tiết kiệm từng viên đạn và thậm chí ngay cả từng hớp nước uống! Với hơn 20 lần bị tấn công, bảy lần bị đánh đặc công, 233 lần với khoảng hơn 14,500 đạn pháo đủ loại đă dội vào căn cứ. Tống Lê Chân hiển nhiên đă trở thành một trận chiến dai dẳng nhất.

Trong suốt thời gian đó, Việt Cộng đă rót vô số bom đạn đủ loại, nướng không biết bao nhiêu con thiêu thân cuồng tín vào mặt trận này. Đây là một băi chiến trường mà ban ngày cũng như ban đêm, đều bị choáng ngợp do mùi nồng nặc và khét lẹt của thuốc súng. Nhưng bọn chúng cũng thất bại trước toan tính san bằng cứ điểm và đă không đè bẹp được tinh thần chiến đấu kiên cường của những dũng sĩ Mũ Nâu. Do đó, song song với việc tấn công hỏa lực, hằng ngày chúng đă phát động chiến dịch chiêu dụ bằng cách dùng loa kêu gọi ră ngủ hay đầu hàng. Hẳn nhiên, đă có phần tác động đến tinh thần chiến đấu của binh sĩ và gây ra không ít khó khăn cho sự chỉ huy của Ngôn. Và & “Ngôn cũng vô hiệu hóa chiến dịch ấy bằng nghệ thuật chỉ huy và bằng sự can đảm của chính bản thân ḿnh.”

Vài hàng dưới đây, tôi muốn đưa lên vài trận đánh đă diễn ra qua nhiều cuộc chiến khác nhau để chúng ta dễ dàng làm một sự so sánh và từ đó chúng ta có thể hănh diện mà vinh danh sức chịu đựng, tinh thần chiến đấu kiên cường của những người lính trận miền Nam nói chung và của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân nói riêng.

Hồi thời Đệ Nhị Thế Chiến, Quân Đức Quốc Xă rất hùng mạnh lúc bấy giờ, đă tấn công thành phố Stalingrad kể từ ngày 17 Tháng Bảy, 1942, nhưng đến ngày 2 Tháng Hai, 1943, phải rút lui trong thảm bại. Tính ra th́ sự chịu đựng của binh lính Nga cũng chưa đến sáu tháng.

Cũng vào thời kỳ này, quân đội Nhật tấn công cứ điểm Bataan ở Phi Luật Tân do lực lượng Hoa Kỳ và Phi Luật Tân trấn giữ vào Tháng Mười Hai, 1941, và đến ngày 24 Tháng Bảy, 1942, Tướng Douglas MacArthur phải ra lệnh rút lui.

Quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung Âu Châu trấn giữ Tobruk tại North Africa, đương đầu với cuộc bao vây của liên quân Đức-Ư, do Tướng Erwin Rommel chỉ huy. Trong trận này, quân đội Anh cũng chỉ cầm cự được từ ngày 11 Tháng Tư, 1941, đến ngày 27 Tháng Mười Một, 1941, rồi bị thất thủ, nghĩa là chỉ khoảng 240 ngày.

C̣n tại Việt Nam, quân Cộng Sản tấn công và bao vây quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ vào ngày 13 Tháng Ba, 1954, cho đến ngày 7 Tháng Năm, 1954, th́ Pháp thua trận, có nghĩa là chỉ giữ được cứ điểm này trong ṿng 57 ngày.

Cận kề bên Tống Lê Chân trong mùa đỏ lửa,với ư đồ muốn biến An Lộc thành b́nh địa, Cộng quân cũng chỉ có khả năng bao vây thị xă này được 110 ngày, để sau cùng phải gánh chịu một sự tổn thất rất nặng nề, v́ rằng cả ba sư đoàn, đó là Sư Đoàn 5, 7 và 9 của địch đều bị tổn thất rất nặng và phải rút qua bên kia biên giới Việt-Miên.

Chúng ta rất hănh diện về tinh thần hào hùng của các chiến hữu mũ nâu, Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân đă anh dũng chiến đấu trong những điều kiện vô cùng nghiệt ngă và đơn độc. Thật vậy, những chiến sĩ này và Lê Văn Ngôn đă lập nên một kỳ công về ḷng can đảm và sức đựng! Ngôn, vị trung tá trẻ (29 tuổi) của QLVNCH, dường như đă cột chặt tên anh và rực sáng lên cùng với địa danh này. Trong nỗi gian nguy được tính theo từng giây phút, trong cận kề cái chết, vị chỉ huy trẻ ấy đă mưu lược, dũng cảm và âm thầm lèo lái đơn vị, luôn luôn sát cánh với thuộc cấp để giữ vững tinh thần, giữ lửa chiến đấu cho nhau, cùng nhau gh́ chặt tay súng trước một chiến trường vô cùng khốc liệt!

Đúng vậy, một cuộc chiến đấu thật oanh liệt của các chiến sĩ mũ nâu, trong một hoàn cảnh bất cân xứng về tương quan lực lượng đối đầu giữa hai bên! Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân với 275 người đă cùng nhau vượt lên trên giới hạn tột cùng của sự gian nguy bằng chính tinh thần trách nhiệm, danh dự và ư chí chiến đấu của mỗi người lính VNCH.

Lê Văn Ngôn và Tống Lê Chân trở thành một biểu tượng, đă ḥa nhập với nhau như bóng với h́nh, tạo nên một thành tích lẫy lừng, tô đậm thêm trang sử, mà vốn dĩ đă quá lẫy lừng của binh chủng Biệt Động Quân nói riêng về ḷng can đảm, sức chịu đựng và tinh thần kỷ luật trong chiến đấu.

Được biết, sau khi Trung Tướng Phạm Quốc Thuần về thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Minh ngày 29 Tháng Mười, 1973, vị tân Tư Lệnh Quân III đă đệ tŕnh lên Bộ Tổng Tham Mưu một kế hoạch gồm hai giải pháp cho trại Tống Lê Chân:

-Nếu tiếp tục duy tŕ căn cứ trọng yếu này th́ phải khai thông một con đường từ thị xă An Lộc đến Tống Lê Chân để đưa một đơn vị khác vào thay cho Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân.

-Hoặc là bỏ cứ điểm đó và Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân âm thầm rút khỏi căn cứ, rồi t́m cách bắt tay với các đơn vị bạn.

Vào khoảng đầu năm 1974, Bộ Tổng Tham Mưu không c̣n bất cứ một lực lượng tổng trừ bị nào nằm tại Thủ Đô để thực hiện kế hoạch thứ nhất, cho nên Tướng Thuần đă cho phép Trung Tá Ngôn tùy nghi quyết định.

Với một khoảng thời gian quá dài mà đêm ngày luôn trực diện với địch, hẳn đă vượt ra ngoài sức chịu đựng của người lính. Cuối cùng, Ngôn cũng đành phải ngậm ngùi để lại Tống Lê Chân phía sau lưng và toàn bộ đơn vị rút khỏi căn cứ vào đêm 11 Tháng Tư, 1974. Ngôn đă đưa Tiểu Đoàn về đến thị xă An Lộc vào ngày 16 Tháng Tư với chỉ c̣n vỏn vẹn 196 chiến binh, đặc biệt là có đến hai phi công chính và hai phi công phụ trong số này.

Tất cả các tử sĩ đều được chôn cất ngay tại cột cờ chính của căn cứ. Cũng ghi nhận thêm là đă có một chiếc Chinook, hai chiếc trực thăng UH1, một chiếc khu trục và một chiếc quan sát L.19 bị bắn rớt và phải nằm lại tại chiến trường này.

Một thời gian sau đó, Ngôn được điều động theo học Khóa 2/74 Bộ Binh cao cấp tại Long Thành. Tốt nghiệp, Ngôn được thuyên chuyển về Sư Đoàn 5 Bộ Binh.

Vào một buổi trưa nắng gắt của Tháng Ba, 1975, khi Trung Đoàn 8 thay thế nhiệm vụ, Tiểu Đoàn của tôi rời vùng hành quân ở phía Bắc Bầu Bàng, nằm giữa Lai Khê và Bến Cát.

Trên đường trở về hậu cứ, tôi phải di chuyển qua căn cứ tiền phương của Trung Đoàn 8, nơi đây là Bộ Chỉ Huy nhẹ của Ngôn. Ghé vào đó để thăm một người bạn mà kể từ khi rời trường Mẹ (Trường Vơ Bị Đà Lạt), đây chính là lần hôị ngộ đầu tiên với Ngôn.

Ngôn đứng đón tôi ở ngoài hầm chỉ huy, Thiếu Tá Đổng Duy Hùng, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 3/9, phải đứng nghiêm chỉnh chào Trung Tá Lê Văn Ngôn, trung đoàn phó Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5, theo đúng quân kỷ. Sau đó, cả hai chúng tôi nhanh chóng quay về với t́nh bằng hữu, trong ṿng 30 phút cùng nhau hàn huyên, ngôn ngữ trao đổi chỉ là “mày tao” rất thân thiết, rất tự nhiên của những người cùng một khóa tại Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam. Chúng tôi ôn lại những kỷ niệm của một thời thật đẹp khi c̣n là Sinh Viên Sĩ Quan với quá nhiều hoài băo. Thế mà măi cho đến ngày mất nước, hai chúng tôi vẫn không được may mắn để gặp lại nhau cho lần kế tiếp.

Vài sự kiện được ghi nhận quanh chiến sự diễn ra trong thời điểm Tống Lê Chân đỏ lửa:

-Lúc bấy giờ, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III có ư định rút bỏ 4 căn cứ: Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân và Bù Gia Mập. Khi lệnh này truyền đến, Ngôn đă khẳng khái xin được ở lại chiến đấu và nói rằng Biệt Động Quân chưa được đánh địch mà sao lại phải rút lui! Tiếc quá, đừng nên rút. Câu hỏi tiếp theo là liệu có giữ nổi không? Bằng mọi giá, tôi và tất cả binh sĩ đều t́nh nguyện ở lại với căn cứ này. Đó là câu trả lời cương quyết của nguời chỉ huy và căn cứ đă đứng vững như là lời hứa, mà người chỉ huy th́ rất trẻ so với tuổi lính của anh.

-Có một phi vụ từ phi trường Biên Ḥa bay vào tiếp tế cho Tống Lê Chân. Phi vụ này có nhiệm vụ mang quà tưởng thưởng của quân dân miền Nam, lương thực đạn dược và cặp lon trung tá cho Ngôn. Đặc biệt hơn nữa, người bay phi vụ này là bạn cùng khoá với Ngôn, Thiếu Tá Phi Công Trần Gia Bảo (Khóa 21 Đà Lạt). Đây là một nghĩa cử rất anh hùng, bởi v́ Bảo rất cảm thông, muốn chia sẻ phần nào đó về sức chịu đựng phi thường và mang những nhu cầu cần thiết đến cho đơn vị bạn. Do đó, Bảo đă bất chấp mọi hiểm nguy đang ŕnh rập và tự t́nh nguyện thực hiện chuyến bay. Được biết phi vụ này hầu như bay bằng kỹ thuật phi cụ và gồm hai chiếc Lôi Điểu: Lôi Điểu 1 do Bảo điều khiển đáp trước, Lôi Điểu 2 phải bay ṿng chờ Bảo rời Landing Zone mới nhào xuống. Nhưng chẳng may, chiếc này bị va chạm làm cho hai người bị thương. V́ có yếu tố bất ngờ và lại bay không đèn, nên chỉ ghi nhận được những tiếng súng bắn cầu âu của địch mà chẳng hề hấn ǵ đến phi cơ.

-K21 Biệt Động Quân Lê Văn Ngôn ngày đêm tử thủ Tống Lê Chân giữa trùng điệp giặc Bắc, K21 Không Quân Trần Gia Bảo liều ḿnh bay vào lửa tiếp đạn cho Ngôn diệt quân thù.

-Kẻ thù muốn giết Ngôn ngay từ ngày khởi đầu của cuộc vây hăm, nhưng thực tế chứng minh rằng họ đă thất bại. Sau biến cố đau thương của cả dân tộc vào Tháng Tư Đen, cùng với những sĩ quan khác, Ngôn cũng bị tống vào địa ngục của trần gian này và thêm một lần nữa để họ trả thù.

Ngôn bị đọa đày cho đến hơi tàn lực kiệt! Trong khung trời ảm đạm của một ngày mùa Đông buốt giá vào cuối năm 1977, tại trại 1, Liên Trại 1, Đoàn 776 thuộc vùng Yên Bái và sau hơn hai tháng chịu đựng từ căn bệnh ung thư gan quái ác kia, thế mà Ngôn chỉ được điều trị bằng thuốc “thần dược trị bá bệnh xuyên tâm liên.”

Vào ngày 19 Tháng Giêng, 1978, Ngôn đă vĩnh biệt cơi đời từ nơi ngục tù Yên Bái ấy, lạnh lùng, âm thầm đi vào ḷng đất mẹ, chẳng có một chiến hữu tiễn đưa, không có môt nén nhang để sưởi ấm Hương Linh!

Ngôn đă chết thật rồi, tức tưởi, đau thương và hẩm hiu đến tột cùng! Khóa 21 luôn hănh diện về Ngôn và chúng tôi đă dành nhiều phút im lặng trong những lúc hội ngộ để mặc niệm và nguyện cầu Vong Linh của anh được ngàn đời yên nghỉ!

Rồi qua những năm dài sau đó, măi đến ngày 8 Tháng Ba, 1996, chị quả phụ Lê Văn Ngôn cùng hai người con đă lặn lội đến tận Yên Bái để mang xương cốt của người chồng yêu quí về lại nơi chôn nhau cắt rốn, để được ấm áp bên mộ cha, mộ mẹ, bên mộ ông bà, tổ tiên! Vợ chồng của Ngôn đă hội ngộ trong một hoàn cảnh như thế đó! Quả là xé ḷng qua cái thảm trạng tử biệt sinh ly này! Trên đường ôm cốt chồng trở về, một bất hạnh khác lại ập xuống gia đ́nh của chị, đứa con út bị một tai nạn ngay tại Hà Nội và hiện đang sống vất vưởng với mảnh đời tàn phế!

Thương thay cho thân phận của những ai đă trót làm vợ của người lính VNCH, nhất là trong một thời loạn ly, lại phải sống tại một xă hội mà bọn quỷ đỏ đă có cả một chính sách, chủ trương để gieo rắc và cổ vơ cho sự hận thù. Sự bất hạnh đâu có dừng lại tại đó!

Được biết người chị ruột của Ngôn đă làm đơn bảo lănh cho vợ con của Ngôn theo chương tŕnh H.O. Nhưng khi được phái đoàn Mỹ phỏng vấn tại Sài G̣n, th́ gia đ́nh này bị từ chối chỉ v́ có sự khác biệt về ngày khai tử qua lời khai giữa người chị và vợ của Ngôn. Quả thật tội nghiệp, đúng là họa vô đơn chí!

Sau Tháng Tư Đen, ngày tang tóc của cả một dân tộc, số phận của quư chị cũng đă gắn liền với thảm họa ấy, cũng đau thương, cũng nổi trôi, cũng bềnh bồng và cũng lắm thăng trầm như vận nước của của chúng ta.

Đổng Duy Hùng
Khóa 21 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam

 


VĂN CHƯƠNG

2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Những bài viết của Bất Khuất


C̣n nhớ không em?  
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường  
Đêm trắng  
Nước mắt trong cơn mưa  
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS


I’ll be home for Christmas  
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10  
Vợ hiền
Dạy con  
Lễ hội sinh nhật  
Chọn lựa  
BS Đặng Tuấn Long  
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca kinh hoà binh  
Môt thoáng ngậm ngùi  
Đường về không xa
Năm mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục  
Vá đường
Chăn gà  
Một người làm quan  
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời

Thuyền đi đâu, về đâu?  
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm  
Mẹ cài cho con đóa hồng  
Những mùa Trung Thu  
Thầy Trân  
Tháng Tư nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă  
Trái tim Bồ Tát  
Người Hạ Sĩ Nhứt
Lá thư t́nh trong cặp
Người pháo binh già...
Thức trắng đêm nay!
Mặt trận Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép  
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào  
Làm việc cho Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973  
Người chiến sĩ không quân phục  
Tôi cưới vợ 
Buổi họp mặt vui vẻ  
Cơi bụi hồng
Chiều buồn biên giới  
Mùa đi tù!  
Nếu có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước tôi  
Người Mẹ thời chiến 
Má tui  
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại 
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku 
C̣n thương rau đắng …  
Ngày lễ Mẹ 
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4 
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn  
Người về có nhớ thương binh?  
Từ những trang thơ 
Tự tử đi anh em! Tao không đầu hàng!  
Chuyện trên QL 20  
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH

Mùa xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta  
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống  
Bỗng dưng anh tới  
Để nhớ một thời...  
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến  
Trong nỗi khốn cùng   
Giờ phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về  
Phụng Dực, trận đánh để đời  
Buổi họp mặt vui vẻ  
Trạm cuối cuộc đời
Nhớ nhà  
Khép lại núi rừng  
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"  
Nhức nhối con tim  
Trái tim cao cả  
Hạt tình hồi sinh  
Hai con khỉ già 
T́m chốn thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt  
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt  
Đại gia ở Mỹ  
Chỉ c̣n nỗi nhớ  
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một cuôc chơi
Sự ra đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác và Hèn Hạ!  
Phi vụ "Ong Chúa" 14-4653 cuối cùng

Một cái Tết khó quên  
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân như thế nào?  
Vơ Ân và tôi  
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt  
Hạnh Phúc… Rơi  
Bông Mồng Gà  
Rồi người lính có về không?  
Tạ ơn Thiên Chúa !  
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít ướt
Những chuyện ngày xưa
Chân dung người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm cũ
Ơn đời chứa chan  
Câu truyện t́nh trong quân ngũ  
Trong lâu đài kỷ niệm  
Người nữ tù và giải Nobel  
Đùa của tạo hoá  
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH  
Con c̣n nợ ba
Cái bằng... lái xế !  
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân  
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường  
Con búp bê của mẹ 
Sự c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô Giáo Ngụy Người Huế  
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ  
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt biển...  
Huế, tôi và Mậu Thân  
Hương  
1 đồng giấy, 7 đồng phở  
Vui buồn với UH1  
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt  
Khoe chữ  
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....  
Truyện hai h́nh ảnh một đời người  
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi  
Nén hương ḷng cho một người vừa đền xong nợ nước  
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông  
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh  
Quê hương của tôi  
Chim trời bạt gió 
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Nó và biến thiên cuộc đời

Có những mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Các ngày tết ở VN trong năm 
Nói chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất 
Những người lính Dù bị lăng quên 
Gói trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....  
Người đưa thư  
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi
Chọn tuổi xông nhà đầu năm