Duy Kỳ c̣n cái tên khác là Lê Duy Khiêm, cháu
đích tôn của Lê Hiển Tông. Vua Lê Hiển Tông qua đời, truyền ngôi lại
cho Duy Kỳ. Kỳ lấy niên hiệu là Chiêu Thống.
Sau đó, để củng cố ngôi vị của gịng họ Lê, Chiêu Thống sai Lê Quưnh
và Nguyễn Quốc Đống đưa thái hậu và con trai ḿnh qua cửa ải Thủy
Khẩu, sang tận Long Châu, để chầu chực Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ
Nghị và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh, mà cầu viện nhà Thanh.
Cương mục, tức Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, kể lại:
“Thái hậu đưa nguyên tử (con trai Chiêu Thống) đến yết kiến ở
trong sân, gào khóc xin cứu viện. Bọn Sĩ Nghị tâu với vua Thanh
rằng: tự hoàng nhà Lê đương phải bôn ba; đối với đại nghĩa, ta nên
cứu viện. Vả lại, sau khi khôi phục nhà Lê, ta nhân đó, đặt lính thú
để đóng giữ. Thế là vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lấy
được An Nam, thật là làm một chuyến mà được hai lợi”
Vua Măn Thanh thuận cho ngay. Thế là Sĩ Nghị bèn điều động quân lính
của bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quư Châu, kéo sang
nước Nam dưới danh nghĩa là pḥ giúp nhà Lê. Bọn quần thần Lê Quưnh,
Nguyễn Quốc Đống chạy ngựa về trước, tâu lại với Chiêu Thống. Thống
được tin rất hân hoan, bèn vội vă sai Tham tri chính sự Lê Duy Đản
và Hàn lâm hiệu thảo Trần Danh Án đi đường tắt lên nghinh đón đón
quân Măn Thanh mà đưa vào nước. Nhờ quân binh của Lê Chiêu Thống dẫn
đường và nội ứng, hai mươi chín vạn quân của Tôn Sĩ Nghị ồ ạt tiến
vào chiếm Thăng Long. Nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam
quốc vương. Kể từ đây, Chiêu Thống hoàn toàn lệ thuộc, phải thần
phục nhà Thanh. Dù ngồi ở ngôi vua, Chiêu Thống thực sự chỉ là bù
nh́n của quân Thanh. Mọi điều, mọi việc, các thứ từ trong ra ngoài,
sinh mệnh dân tộc cùng đất nước, đều trong tay Sĩ Nghị.
Cương mục viết tiếp về Lê Chiêu Thống:
“Nhà vua chủ yếu chỉ dựa vào người Thanh. Khi chia ban quan chức,
nhà vua chỉ trao cho các bầy tôi đi theo hộ giá và theo hầu ở hành
tại, c̣n cựu thần và hào kiệt đều không được bổ dùng. Các bầy tôi
tay sai cũng không ai nói đến việc ra quân để phục thù mà c̣n truy
lùng bắt bớ những ai chống đối giặc Tàu. Trong kinh và ngoài các
trấn, thảy đều chán nản và rời rạc. Cái cơ thành hay bại chỉ một mực
tùy theo người Thanh mà thôi. Thế là việc nước không thể xoay xở
được nữa”
Lại thêm, An Nam Nhất Thống Chí cũng có lưu truyền rằng:
“Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có
ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu
th́ viết là Càn Long, việc ǵ cũng do viên Tổng đốc, có khác ǵ phụ
thuộc vào Măn Thanh?”. Lại có hôm, vua tới yết kiến, Nghị không buồn
tiếp, chỉ cho người đứng ở dưới linh các truyền bảo: “Hôm nay không
có việc quân, việc nước ǵ. Hăy về cung đi!”. Đối với quân lính, th́
y lại dung túng cho chúng mặc sức làm điều phi pháp, hăm hại với
lương dân. Vua Lê tuy biết sự tệ hại ấy, nhưng đă trót mời rước quân
Thanh sang, chỉ sợ v́ việc đó mà làm mếch ḷng chúng, nên không dám
nói ǵ, mà ngược lại c̣n bảo vệ cho quân Thanh.”
May cho vận nước, đầu năm Kỷ Dậu 1789, Bắc-B́nh-Vương Nguyễn-Huệ đem
quân đánh tan quân Thanh, giành lại độc lập cho nước Đại Việt.
Thống cùng bầy tôi chạy theo tàn quân Măn Thanh, rồi chết bỏ xác ở
đất giặc: Yên Kinh. Thế nhưng, “Trăm năm bia đá cũng ṃn - ngàn
năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ ”; “Lê Chiêu Thống ” đă đời đời
kiếp kiếp đồng nghĩa với: “buôn dân-bán nước ”. Chiêu-Thống
Lê-Duy-Kỳ đă trở thành một cái tên làm vua mà buôn dân bán nước,
chưa từng có trong lịch sử Việt Nam thời ấy.
Trong bối cảnh bạo quyền hèn với giặc ác với dân, rước giặc Tàu vào
dày xéo đất nước, Trương Đ́nh Phương có kể câu chuyện đi buôn qua
“Lá Gan Người Phương Nam” như sau:
“Giặc phương Bắc rần rật kéo vào kinh thành Thăng Long. Quan và
dân rủ nhau chạy loạn.
Năm hôm trước khi mới nghe tin giặc c̣n cách kinh thành hai trăm dặm
Hoàng Thượng và hoàng thân quốc thích đă lặng lẽ rời đến một nơi an
toàn.
Trần Tiết, gă bán thịt lợn. Nghe tin giặc sắp tràn tới, vợ gă giục
gă:
-Chàng muốn chết hay sao mà c̣n mổ lợn để bán, có lo soạn sửa mà
chạy đi không?
Trần Tiết cười:
-Hiền thê hăy đem các con về bên quê nội Phú Thọ đi, hy vọng với sự
phù hộ của các vua Hùng, nàng và các con sẽ b́nh an. Riêng ta, ta
không đi đâu cả.
Khuyên nhủ măi, chồng vẫn khăng khăng không chịu đi, vợ Tiết lắc đầu
ngao ngán cùng con cái gạt lệ phân ly.
Chiều đó, hai mươi chín vạn quân phương Bắc chiếm cứ kinh thành. Bấy
giờ kinh thành chẳng khác ǵ ngôi mộ hoang lớn, không một bóng
người, ngay cả gà chó cũng không có nửa con.
Trần Tiết gánh thịt lợn dạo qua dạo lại trước cổng kinh thành rao:
-Ai thịt lợn đây, ba mươi đồng một kư.
Tên tướng giặc ra lệnh cho quân lính gọi gă bán thịt lợn vào. Trần
Tiết nghênh ngang đi giữa hàng vạn quân lính giặc, mặt không chút
run sợ, vào đến nơi nh́n thấy tướng giặc đang ngồi chệm chễ trên
ghế, Tiết hỏi:
-Ngài định mua thịt tôi chăng? Thịt tôi chỉ bán cho người dân Đại
Việt, c̣n với người phương Bắc tôi không bán.
Tướng giặc trố mắt nh́n Tiết bật cười:
-A ha! Tên này khá! Ba mươi năm ta tung hoành năm bắc, trải qua trăm
ngàn trận đánh, san bằng hàng ngàn thành tŕ, đi đến đâu kẻ nào hễ
nghe tên ta là sợ vỡ mật, đứng trước ta kẻ nào cũng phải uốn gối
khom lưng, chỉ duy nhất nhà ngươi đứng đó c̣n dám ăn nói xấc xược
như thế.
Trần Tiết cười ha hả:
- Ngài không phải phụ mẫu tôi, không phải đức vua của Đại Việt v́ cớ
ǵ tôi phải khom lưng trước ngài? Ngài đem quân dày xéo non sông bờ
cơi Đại Việt tôi hận không thể lột da uống máu của ngài, hà cớ ǵ
tôi phải sợ ngài?
Tướng giặc nghe những lời đó, bất giác mắt long ṣng sọc, da mặt
giần giật, đập mạnh tay xuống bàn, thét lớn:
-Hảo hảo, có chút chí khí. Ta rất thích những tên ngang tàng không
sợ chết như ngươi.
Rồi hắn dịu giọng:
- Nếu ngươi muốn, đầu quân cho ta, ta sẽ cho ngươi một chức vị xứng
đáng trong quân của ta.
Trần Tiết trợn trừng hai mắt nh́n thẳng vào mặt tướng giặc hỏi lớn:
- Thưa ngài, kẻ nhận giặc làm cha có đáng băm vằm chăng?
Tướng giặc đanh giọng:
- Giết!
Trần Tiết tiếp:
- Kẻ luồn trôn liếm gót ngoại bang, quay mặt với sự sống c̣n của dân
tộc, hưởng vinh hoa phú quư trên xương máu đồng bào có đáng cho muôn
ngựa phanh thây không?
Tướng giặc thét:
- Chém!
Trần Tiết tiếp:
- Bất cứ kẻ nào v́ lợi ích bản thân mà phản bội dân tộc, làm tay sai
cho ngoại bang đều không xứng làm con người, đáng bị muôn dân nguyền
rủa, trời không dung đất không tha. Thế th́ tại sao ngài lại xúi tôi
sa vào con đường tội lỗi ấy?
Tướng giặc lông mày dựng ngược cười khoái trá:
- Thú vị, thú vị ha ha, không ngờ đất nước man di mọi rợ này c̣n có
món sản vật lạ kỳ như nhà ngươi. Ta cứ tưởng bọn người phương nam
tên nào tên nấy lá gan chỉ bé tư tẹo bằng cái móng tay của ta .
Trần Tiết lớn giọng bảo:
- Xin ngài cho tôi mượn một thanh trủy thủ có được chăng?
Tướng giặc rút thanh trủy thủ bên hông trao cho Trần Tiết nói:
- Đây là thanh trủy thủ trí bảo hoàng thượng ban tặng cho ta, chém
sắt như chém bùn.
Trần Tiết đưa một tay cầm lấy, rút ra, ánh sáng từ ngọn trủy thủ làm
Tiết lóa mắt, Tiết chậc lưỡi:
- Đồ tốt, đồ tốt.
Tiết thở dài một cái, nh́n lên chính điện, nơi đặt ngai vàng của vua
nước Việt, bất giác sa lệ. Tiết nói trong mơ màng:
- Các ngài chỉ biết một mà không biết hai, người dân Đại Việt chúng
tôi lá gan không hề nhỏ mà c̣n lớn hơn gấp nhiều lần lá gan người
phương Bắc các ngài, chỉ có điều vua quan tham sống sợ chết, làm cho
ư chí người dân cũng theo đó mà tiêu tán. Than ôi, quan thế ấy, vua
thế ấy, non sông gấm vóc này c̣n chi, c̣n chi.
Dứt lời Tiết quay trủy thủ đâm thẳng vào bụng. Tướng giặc a lên một
tiếng, đánh rơi tách trà vừa cầm lên tay. Thanh trủy thủ sắc lẹm,
khứa một đường trên bụng Tiết.
Tiết đưa tay c̣n lại thọc vào bụng moi từng phần nội tạng ra ngoài,
thều thào nói:
- Đấy ngài thấy chưa, ruột chúng tôi cũng có khác ǵ của các ngài
đều là con người cả thôi…
Móc đến lá gan Tiết đă sắp tàn hơi, gượng mà thốt lên:
- Lá gan người Đại Việt là thế này đây thưa ngài…ngài hăy nh́n cho
kỹ và nhớ lấy… Một ngàn năm bị các ngài đô hộ, dân tộc này vẫn quật
cường đứng dậy đạp lên đầu các ngài… Bây giờ các ngài chiếm được Đại
Việt, nhưng rồi chúng tôi sẽ dành lại…
Dứt lời Tiết gục xuống.
Tướng giặc vào sinh ra tử bao phen chưa lần nào run sợ nhưng hôm nay
trước cảnh t́nh ấy, chả rét mà run. Hắn quỳ xuống vái xác Trần Tiết
mà rằng:
-Ta lạy ngươi không phải v́ ta sợ ngươi mà ta đau tiếc cho một tuấn
kiệt không gặp thời. Nếu người phương Nam ai cũng như ngươi th́
chúng ta làm sao lấy được Đại Việt một cách đơn giản thế này.
….”
Ấy là chuyện đời xưa!
Ngày nay, lịch sử tái diễn!
Máu dân Việt chan ḥa nơi các hải đảo Hoàng Sa, Trường sa, Gác Ma,….
trên cả những chiếc tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam ngoài Biển
Đông; cũng bởi bọn giặc Tàu. Thế mà, nhà nước cộng sản lại hèn hạ,
luôn miệng bao che và tung hô bọn Tàu cộng phương Bắc bằng các thứ
ngôn từ gian manh xảo quyệt như “tàu lạ”, “nước ngoài”, "Đời đời
nhớ ơn Trung Quốc", "Sơn thủy tương liên, lư tưởng tương thông,
văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan”, “16 chữ vàng - 4 tốt"…
Ngày nay, khi đảng cộng sản mưu đồ buôn cả giang sơn cho Tàu cộng
với cái bộ luật khốn nạn gọi là “Đặc Khu”, th́ biết bao người yêu
nước đă can trường cho bọn giặc tàu cộng và bè lũ nhà nước cộng sản
thấy rơ “Lá Gan Người Phương Nam”. Họ chấp nhận đổ máu, chịu tù đày,
can trường đối đầu với lực lượng đàn áp man rợ của bạo quyền cộng
sản. Từ Sài G̣n đến Hà Nội, các cuộc biểu t́nh đă diễn ra khắp mọi
tỉnh thành trên đất nước Việt Nam. Đồng bào trong nước đă vượt qua
nỗi sợ hăi gông cùm đàn áp của bạo quyền, xuống đường để vạch trần
tội buôn dân bán nước của đảng cộng sản. Hàng chục ngàn đồng bào từ
khắp mọi nơi đổ về Sài G̣n. Dân chúng kéo tới càng ngày càng đông.
Người Sài G̣n hát vang vang trong nước mắt những bài hát đang bị cấm
đoán: Việt Nam Tôi Đâu, Triệu Con Tim, Trả Lại Cho Dân vang vọng
khắp ṿng xoay Lăng Cha Cả. Đồng bào đă thét gào trong câm hờn: “
Đả đảo “bán đất” cho Tàu Cộng ”, ” Đả đảo Luật An Ninh Mạng,
Luật Bịt Miệng dân ”…
Tách! Bập! Bập!
Tách! Bập! Bập! Bùng!
Tuổi trẻ Việt Nam tay vỗ, tay nhịp vào các hộp giấy thô sơ, cất cao
tiếng hát. Tiếng hát không chuyên nghiệp, tràn ngập căm hờn. Nhịp
đập bập bùng theo nhạc, theo lửa uất hận bừng cháy trong tim:
“Chúng đi buôn, buôn tước buôn quyền
Chúng đi buôn, cho nước đảo điên
Chúng đi buôn, buôn núi buôn non
Buôn tủi hờn, buôn cả giang sơn
Chúng đi buôn, buôn sắc, buôn sầu
Chúng đi buôn nước mắt ḷng đau
Chúng đi buôn thân xác xanh xao
Buôn đời ḿnh, buôn cả thâm sâu
Chúng đi buôn, buôn bến, buôn bờ
Chúng đi buôn ánh mắt trẻ thơ
Chúng đi buôn tiếng khóc đơn sơ
Cho đời càng gian khổ cam go
Chúng ăn vuông, ăn méo ăn tṛn
Chúng ăn to, ăn bé cỏn con
Chúng ăn trên, ăn dưới ăn ngang
Cho mặc người ai thở ai than
Chúng đi buôn giấy phép văn bằng
Chúng đi buôn công lư với ḷng nhân
Chúng đi buôn, buôn nghĩa, buôn danh
Buôn sự thật, buôn cả lương tâm
Chúng ăn chơi xương máu đồng loại
Chúng chơi vui trên kiếp nghèo đói
Chúng chơi sang, chơi xấu, chơi oai
Chơi như đời không c̣n ngày mai
Chúng đi buôn, chia chác sang giầu
Chúng đi buôn, lừa dối gạt nhau
Chúng đi buôn cho mắt thêm sâu
Nỗi khổ này sẽ c̣n bao lâu…”
Qua “Chúng Đi Buôn”, nhạc sĩ Phan văn Hưng ghi đậm nét nỗi đau của
cả dân tộc. Lời nhạc vang động đến ḷng người. Tiếng hát hôm nay là
tiếng gào thét phẫn nộ, tiếng kêu than của phận người lây lất sống
trong một xă hội chủ nghĩa suy đồi mọi mặt, một chế độ gọi là cộng
sản đă thối nát đến tận cùng, một “nhà nước” buôn dân bán nước.
Tiếng hát, tiếng rên siết khổ đau của lương dân trong gông cùm, của
bạo quyền cộng sản bất nhân.
“Rồi một mai em lên non cao
Trông về xa núi rác ngập sầu
Nhưng thành phố chen chúc bụi nâu
Nơi kiếp người tranh thủ miếng đau
Và ḷng em sẽ trong xôn xao
Tim thật chân vỡ lên nghẹn ngào
Kẻ cùng khốn trong kiếp khổ lao
Cũng chính là những người đồng bào.”
Buôn dân bán nước là trọng tội!
Đừng khinh thường ḷng dân kiên quyết!
Hăy quay đầu lại, về với Nhân dân, trước khi muộn màng như cái tên
Chiêu-Thống Lê-Duy-Kỳ đă bị “Lưu xú vạn vạn niên”!
Bùi Đức Tính
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi