Tư Mă Thiên là tác giả bộ Sử kư danh tiếng, được gọi là Thái Sử Công Thư, có nghĩa là sách của quan Thái sử; với bộ sử đó, ông được tôn là Sử Thiên, một trong mười vị được tôn thánh trong lịch sử Trung Hoa. Do ông làm chức Thái Sử Lệnh đời nhà Hán, nên gọi Thái Sử Công.
Thái Sử Công Thư, là bộ Sử kư do Tư Mă Thiên viết từ năm 109 đến năm 91 trước Công nguyên, ghi lại lịch sử nước Tàu trong hơn 2500 năm, từ thời Hoàng Đế đến đời Hán Vũ Đế. Đây là văn bản lịch sử Trung hoa có hệ thống đầu tiên, làm nền tảng cho sử sách, văn chương của nước Tàu sau này.
Trong Thái Sử Công Thư, Tư Mă Thiên có ghi chép rằng:
Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lư Tư tấu tŕnh:
- Xin ban lệnh đốt hủy tất cả sử sách không phải do triều đại nhà Tần ghi chép. Trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư,… tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư th́ chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay th́ giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Lệnh truyền trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành.
Lư Tư lo sợ giới trí thức tinh thông lư luận, giảng dạy qua sách vở, dễ dàng dựa vào mà phê phán và khích động quần chúng chống lại thiên triều; chi bằng ra lệnh cấm phát biểu, để thống nhất chính kiến và tư tưởng là chỉ phục vụ cho nhà Tần mà thôi.
Tần Thủy Hoàng y tấu mà ban ngay chiếu chỉ.
Qua đó, tất cả những sách vở, triết lư, thi ca,
kinh điển từ thời Chư tử Bách gia, đều bị đốt sạch. Những nho sinh
dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành h́nh, chôn sống.
Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chết
chém ngang lưng.
Từ lâu rồi, Trung Hoa không c̣n Tần Thủy Hoàng, nhưng c̣n có đảng
cộng sản cai trị, c̣n tiếp tục bị đốt sách!
Đảng cộng sản Trung Hoa khởi động Cách mạng Văn hóa vào ngày 22 tháng 8 năm 1966, c̣n gọi là “phá tứ cựu”: quét sạch tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, thói quen cũ của giai cấp bóc lột. Theo đó, Hồng Vệ binh Bắc Kinh tổ chức các cuộc đốt sách rất là quy mô. Khắp nơi trên đất Tàu, hàng “núi sách” to nhỏ đă được mang về chất đống để tiêu hủy.
Gần đây, để chuẩn bị thống trị trọn vẹn lănh thổ
Hong Kong, vào năm 2047, cộng sản Tàu cần khống chế tư tưởng người
dân trước, nhất là giới trí thức Hong Kong. Thời nay, Trung cộng
không thể ŕnh rang công khai tḥ cánh tay sang Hong Kong để đốt
sách như 53 năm trước đây, nên đă âm thầm tóm bắt trọn 5 nhà xuất
bản tại Hong Kong. Chỉ trong khoảng vài ngày cuối tháng Mười, năm
2014; Lui Bo, Gui Minhai, Lui Por, Cheung Chi-ping và Lam Wing-kee
lần lượt bị mất tích. Họ bị Trung cộng bắt cóc về giam tại Tàu, v́
đă phát hành và chuyển sang Tàu các loại sách về chính trị bị cấm
lưu hành trên Trung Hoa lục địa. Trong đó có quyển hồi kư tựa đề “
My Memories” của Chang Kuo-tao; một tướng lĩnh và là người đồng sáng
lập đảng cộng sản Tàu, sau đó bỏ đảng và cùng gia đ́nh tị nạn tại
Toronto, Canada, năm 1968.
Việt Nam ḿnh thường tự hào là quốc gia có đến ngàn năm văn hiến,
nhưng sách vở của người xưa truyền lại th́ rất ít. Nguyên nhân chính
là v́ bị đô hộ bởi giặc Tàu đến cả ngàn năm; quân nhà Minh bên Tàu
đă ra lệnh hủy hết sách vở, ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta
để dễ bề cai trị.
Lại thêm, chính người Việt ḿnh đốt sách của ḿnh!
Tại miền Bắc, từ năm 1954, ngay sau khi cưởng chiếm Hà Nội, nhà nước cộng sản Việt Nam ra lệnh tịch thu và đốt tất cả các loại sách báo đă in ra từ trước 1954, đồng thời khắc khe kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng. Sau đó, khi chiếm trọn miền Nam, đảng lại ban hành chiến dịch đốt sách tại miền Nam vào năm 1975.
Qua tập “Hồi Kư của Một Người Hà Nội”, tác giả Nguyễn Văn Luận ghi lại đoạn đời sau cùng của một học sinh và sự kiện đốt sách năm 1954 khi nhà nước cộng sản khởi đầu cai trị miền Bắc:
“… Gia đ́nh lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hăng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải pḥng ùn ùn với hành lư để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn …
Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nh́n tôi :
- Đề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!
Tôi bàng hoàng v́ thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: “đấu tranh”, “cảnh giác”, “căm thù” và …” tiêu diệt giai cấp”! (Thứ ngôn ngữ mới này ghi trong ngoặc kép.)
Hà Nội im ĺm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành…
Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi t́m thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đă đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”.
Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải
để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi
“phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!”
Họ truy lùng… đốt sách!
Tôi đă phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quư, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là … “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê b́nh, kiểm thảo…cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học.
Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa
đày v́ “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”,
“lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Đây là chính sách dồn ép thanh niên
Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám
Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, …đi tù!…”
Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30-4-1975, việc đốt
sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy - Phản
động. Tự câu khẩu hiệu trong chiến dịch đă nêu rơ 2 mục đích: trước
hết về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế
độ và kế đến là về văn hóa, xóa bỏ h́nh thức được coi là “đồi trụy
theo h́nh thức tư bản”.
Tờ báo tên là Sài G̣n Giải phóng phát hành ngày 25-5-1975 có đăng bài viết về “khí thế ra quân” mở màn cho chiến dịch “vô cùng sôi nổi” này:
“Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài G̣n, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hóa ngoại lai đồi trụy mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễn hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay.
Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, đồng bào và các tiệm sách đă tự nguyện đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lư cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài G̣n 3 đă tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi trụy phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”.
Trong Hồi Kư Nguyễn Hiến Lê – tập III, tác giả có kể lại chuyện đốt sách của nhà cầm quyền cộng sản tại miền Nam như sau:
“Năm 1975. Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là ra lệnh: Hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy!
Kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyển Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kỳ loại ǵ; sách Việt th́ cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. (…)
Lần thứ nh́ năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba hủy”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, c̣n bao nhiêu phải hủy hết, v́ nếu không phải là loại phản động (một hủy), th́ cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy th́ cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ c̣n giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lư…
Một luật sư tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà, chủ ư cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới mắt công an.
Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quí, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho Sở Thông tin Văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không th́ ông sẽ chết theo sách.
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông Tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông Tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo:
- Hủy hết, hủy hết!
…”
Sau khi chiếm được miền Nam, một trong những việc làm cấp thiết của nhà cầm quyền cộng sản là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài G̣n như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong, cấm lưu hành và đem đốt bỏ.
Đốt sách được đề cao là chánh sách “bài trừ văn hóa đồi trụy”!
Trong tập Hồi Kư Viết Trên “Gát Bút”, nhà văn Nguyễn Thụy Long có ghi lại chuyện “đốt sách” thật đau ḷng tại miền Nam:
“Tôi gặp vợ chồng anh nhà báo Nguyễn Khắc Giảng bày bán sách cũ ở trên đường Tự Do. Trong đó có cả những cuốn sách của tôi của Duyên Anh, Hoàng Hải Thủy và rất nhiều loại khác của nhiều tác giả. Những sách báo đó đều xuất bản ở miền Nam trước năm 1975. Tất cả đều bị coi là có tội. Tác giả của nó đương nhiên có tội nhiều hơn. Cả miền Nam nói chung, thành phố nói riêng vắng bóng dần những mặt quen: văn nghệ sĩ, sĩ quan quân đội Cộng ḥa. Họ đi học tập cải tạo hết ráo!
Chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy, phản động nổ ra ở Sài G̣n. Hàng vạn vạn cuốn sách bị thiêu đốt. Sách báo trong nhà tư nhân bị lôi ra hỏa thiêu. Trong các cửa hàng kinh doanh sách báo bị thu gom tất cả, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp, cả con người những cá nhân. Các em nhỏ đeo băng đỏ thi hành công tác một cách vô tư mẫn cán. Phản ứng của người bị tội tất nhiên phải có.
Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng c̣n hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay c̣n đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô t́nh! Cả chủ tiệm cũng mạng vong.”
Năm 1823, Heinrich Heine, văn hào người Đức, có viết:
"Dort wo man Bücher verbrennt, verbrennt man auch am Ende Menschen" (Where books are burned, in the end, people will also be burned.)
Một thế kỷ sau, năm 1933, sinh viên học sinh Đức vâng lệnh Nazi, phát động chiến dịch toàn quốc tịch thu và đốt sách. Thiêu hủy tất cả những tư tưởng trái nghịch với chủ nghĩa Nazi. Và rồi, sau cùng, kẻ ra lệnh đốt sách cũng đă đốt cả con người. Sáu triệu người, hầu hết là người Do Thái, đă bị đốt cháy trong các ḷ thiêu người. The Holocaust!
Chủ trương “Đốt sách, Chôn nho” của Tần Thủy Hoàng là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn c̣n ghi nhớ. Không riêng ǵ dân tộc Hán mà cả nhân loại đều lên án.
Thế nhưng, mới năm trước đây, báo mang tên Trí Thức VN, ngày 14 tháng 4, đă bênh vực cho thủ đoạn đốt sách giết người của bạo quyền, với bài viết có tựa đề là “Đốt sách chôn Nho: Nỗi oan ngh́n năm của Tần Thủy Hoàng”.
Ôi! “Đỉnh cao trí tuệ”…!
Thật ra, sâu tận trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lư Tư và tất cả các bạo quyền chủ trương “đốt sách” như đảng Nazi của Đức Quốc Xả, các đảng cộng sản Nga, Tàu, và Việt Nam đều biết rất là rơ rằng:
Đốt sách không thể nào thiêu hủy được tất cả tư
tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách “khó đốt” nhất lại nằm
trong tinh thần con người!
BK Tính 323
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi