Nhà Văn Hải Ngoại - Tập 1
Lê Mộng Nguyên
“Trong Lâu Đài Kỷ Niệm”
Của Dư Thị Diễm Buồn
Chương 39
“Trong Lâu Đài Kỷ Niệm” của Dư Thị Diễm Buồn, hay là kư ức về gia
đ́nh, bạn hữu và miền Nam yêu dấu của một nhà thơ tự do.
Tôi đọc xong 302 trang sách “Trong Lâu Đài Kỷ Niêm” của Dư Thị Diễm
Buồn. (Tựa: Doăn Quốc Sỹ. H́nh b́a nhiếp ảnh Văn Vũ, tŕnh bày và kỹ
thuật Băo Linh, in ấn lần thứ nhứt tại Hoa Kỳ do Băo Linh xuất bản.
Mùa xuân năm 2003).
Mắt rướm lệ, ḷng bâng khuâng như xem cuốn phim
t́nh cảm mà khán giả đă nhiều lần xúc động qua buồn vui và hạnh phúc
mong manh của những diễn viên có biệt tài. Như Giáo sư Lê Đ́nh Cai
(Khai Thác Thị Trường số 50 tháng 4, 5 và 6 năm 2003) đă viết: Tuy
đây là tác phẩm mà tác giả gọi là truyện dài, nhưng khi đọc xong tôi
có cảm tưởng đây là tập kư sự viết về những vui buồn trên những
chặng đường đời của một cô gái miền Nam từ thời thơ ấu đến tuổi
trưởng thành, lập gia đ́nh rồi bỏ nước ra đi khi miền Nam bị nhận
ch́m trong băo lửa của làn sóng đỏ vào tháng tư đen năm1975). Ngay
DTDB cũng không giấu giếm tính cách tư truyện của TLĐKN qua lời tâm
sự kết thúc: “Ngồi ôn lại dĩ văng những chặng đường tôi đă đi qua mà
nhớ mà thương quay quắc! Quê hương tôi là một lâu đài, dù to lớn đến
cỡ nào cũng không chứa hết những kỷ niệm hơn nửa cuộc đời bên đó của
chúng tôi. Nó tồn tại măi và bất tuyệt như cuốn sách không bao giờ
có trang cuối...” Sách dầy 302 trang “Viết để tưởng nhớ về ngoại
thân, ba má và các anh chị, em. Cho bạn đời và các con tôi (trg.lll)
mặc dù chính thức tiểu sử tác giả nằm trong vỏn vẹn mấy câu: DTDB
sinh trưởng tại thị xă Cần Thơ. Cùng gia đ́nh đào thoát khỏi Việt
Nam mùa hè năm 1979 vào Hoa Kỳ đầu xuân năm 1980 và cư ngụ tại
Illinois cho đến nay. Theo dấu chân nhà đại thi hào và chính khách
Victor Hugo trong cuộc chống đối bạo tàn Napoléon.lll (x.NT số
106th. 01- bài của LMN) nàng thể nguyện chỉ trở về lại cố hương khi
nào tự do an b́nh được hồi phục trên đất nước. Cho nên lúc nhận được
thư của cháu Toàn Huy (con trưởng của anh chị Tuyết Loan) viết cho
d́ Tuyết Nhạn (DTDB) từ quốc nội “... Từ buổi ra đi đến giờ má Tư
(cháu gọi tôi bằng má Tư) chưa về thăm đất cũ và ngôi nhà hương hỏa
thuở xưa. ...Bộ má Tư không nhớ quê hương sao? Mỗi cái tích tắc của
kim đồng hồ trên thế gian nầy có biết bao nhiêu sự đời đổi thay. Năm
nay con đă ba mươi lăm tuổi, nhưng nếu gặp lại con, má Tư tưởng con
ở giữa tuổi năm mươi và sáu mươi. Cái túng quẩn, cái đói nghèo, lao
lực cùng khổ tâm dằng dặc làm cho con người như cây khô thiếu
nước...” Má Tư đă trả lời, và những ḍng chữ trong thu gói ghém lại
bằng thơ (tôi đă trích từ thơ NLNĐ. Xb năm 2001trong bài cảm tưởng
về thi tập trên trang số 88 tháng 7 năm 2001)
"... Con hỡi, xa nhà v́ lũ địch
Nhắc đến quê hương nước mắt trào
Những buổi tàn canh trên đất trích
Thầm thương vận nước chịu lao đao
Lũ giặc gây bao điều má thấy
Mậu Thân đất Huế chất chồng xương
Đồng không mông quạnh oan hồn dậy
Than khóc dài theo mấy nẻo đường
Đợi ai đốt lá thay nhang khói
Cầu cho kẻ chết được siêu sinh
Để bao người sống nh́n nhau đợi
Ánh sáng vinh quang buổi thái b́nh
Thảm cảnh quê hương con biết đó
Đô thị loạn cuồng tủi nước non
Thôn dă chất chồng bao khốn khó
Má về thăm, khi giặc không c̣n...”
(Má Sẽ Về)
Tôi vẫn c̣n nhớ măi lời nói sau (Trong chiều Tha Hương) do CLBVH
Việt Nam tổ chức ngày 3-6-2000 tại Viện Đông Nam Á- Paris (x.NT só,
th. 8- 2000 của nhà thơ DTDB bày tỏ tâm t́nh về nguồn gốc hứng cảm
của nàng: “Tôi là một người dễ cảm nhận với ngoại cảnh, nên những
bài thơ, bài văn xuôi của tôi trong những tác phẩm đă phát hành là
những trăn trở của quê hương, là t́nh người mà nó bắt nguồn từ những
bối cảnh của gia đ́nh, những người chung quanh và những kỷ niệm lúc
thiếu thời ở thôn quê mà có dịp tôi đă đi qua, đă sống...” Sau “Chân
Trời Hạnh Phúc” truyện dài đầu tay của DTDB, Bảo Linh (xuất bản vào
mùa thu năm 2001). Trong “Lâu Đài Kỷ Niệm” là một hồi kư là một bản
t́nh ca muôn thuở trong ấm êm của mến thương cha mẹ mà Tuyết Nhạn
(người kể chuyện là DTDB) với hai người chị: Tuyết Hồng (chị Hai)
Tuyết Loan (chị Ba) và hai em kế Tuyết Oanh (...hơi mập mạp, tươi
mát nhưng cô ả làm như đau ban mới mạnh, kiều nhược, cần có một
người săn sóc...”, tr 24) và út (Tuyết Nga, mặt mày sắc sảo ưa nói
trèo đèo, hổn hào với tôi và chị Tuyết Oanh (tr 24) đă sinh sống từ
dạo ấu thơ (Ngũ Long Công Chúa). Ba tôi có ḍng máu Tàu Việt, ông
nội tôi là người Trung Hoa gốc Mông Cổ, nên các anh em của ba, bác
và chú tôi cao lớn khôi vĩ, Có lẽ nhờ vóc dáng cao lớn, mặt mày sáng
sủa thanh tú nên cả năm anh em rất đắc mèo!
Ba tôi lại là người biết nhiều thứ: ông đờn măn-đô-lin giỏi, đánh bóng bàn hay, đá banh, đá cầu, chạy bộ, chạy xe đạp... Những lần thi tài ông khômg đứng nhất cũng là đứng nh́. Nhất là có “nhăn hiệu” thầy giáo, cộng thêm tánh t́nh phóng khoáng, lăng mạn nên ba tôi được các cô ở lứa tuổi ông chiếu cố tận t́nh. Tôi muốn nói ba tôi là “Đa t́nh nhân! Một người mỗi bến mỗi t́nh”. Lúc chưa thành hôn với má tôi cho đến sau có con cũng vậy! (tr.5-6).
Trong ba đứa con gái đầu: “Ba thương chị Tuyết Hồng v́ tánh t́nh đoan trang thùy mị, thương chị Tuyết Loan yêu đời liếng thắng, nói đó rồi quên đó, không ác ư với ai, không dụng tâm tích lũy hại người, dám hận, dám buồn, dám yêu! C̣n tôi th́ hay căi lư, nói thẳng không sợ ba đánh đ̣n, lại chịu lắng nghe ba tâm sự... và khuyên ba không nên làm những chuyện có lỗi với má tôi...” Cũng v́ thế mà giữa Tuyết Nhạn và người cha phóng khoáng (ô. Cao Hồng Diệp” rất tâm đầu ư hiệp, có nhiều đồng mưu (complicité) trong mọi việc vui hay buồn.
Cuộc đời t́nh ái, nỗi rung động đầu tiên trước phái nam, được DTDB tường thuật lại một cách chân thật, thi vị và trí tuệ thông minh:
Sau khi giả từ với người bạn học lúc nhỏ (anh Lê Trường Hải) bởi v́: “Anh thiách trời cao, biển rộng và cuộc đời thủy thủ. Tôi không thể làm vợ anh, để khỏi có cảm tưởng anh yêu biển cả hơn yêu vợ nhà, trong lúc đó tâm hồn tôi lại gắn bó với quê cha đất tổ (tr. 146)” Tuyết Nhạn làm quen với anh Dư Khải Minh là một giáo sư Trung học, em họ của chị Diệu Tâm là y tá đồng liêu với TN ở bệnh viện Mỹ Tho khi nàng vừa nhậm chức. Rồi Tuyết Nhạn và Khải Minh đính hôn “Ba thấy thằng Minh tánh t́nh được hơn hai ông anh rể (Trường và Toàn) của con. Người thanh niên như nó không dễ t́m đâu”
Với dự định thành hôn sau khi chàng thụ huấn quân sự trở về... Một hôm Tuyết Nhạn t́nh cờ bắt gặp “Minh đang ôm một phụ nữ lạ” Phản ứng của nàng rất quả quyết”: “Ngày mai tôi sẽ trả đồ đính hôn lại cho anh! Trên đời nầy thiếu ǵ những cô gái trẻ, đẹp, dịu dàng...anh mặc sức đi t́m họ đi, anh hăy đi mau cho khuất mắt tôi, đừng theo tôi nữa! Tôi thù anh, tôi hận anh! Anh có cái tự do của anh... Tôi với anh không c̣n ràng buộc ǵ nữa đường ai nấy đi...” (tr.251) Anh đi đường anh, tôi đường tôi!
Nhờ trung gian ḥa hợp của thân phụ, theo lời khẩn nguyện của Minh: “Nó đă về cầu cứu với ba, con nghĩ lại coi có đúng không? Làm khổ ḿnh, làm khổ người mấy hôm nay đủ rồi. Chắc con cũng không muốn nó mang cái khổ canh cánh trong ḷng trở về đơn vị phải không?) Tuyết Nhạn cuối cùng tha thứ cho Minh, “Anh làm em khổ lắm, anh có biết không?” (tr. 257).
Đi ngược về nơi sinh quán của tác giả: “Cái Bè là cỏ nội thiên đường vào thời thơ ấu của DTDB. C̣n Cần Thơ là thế giới thần tiên vào tuổi hoa niên, tuổi thanh xuân của chị. Hai địa danh ấy một miền sằn dă, một miền đô thị được chị thấp sáng và hồi sinh trên những câu thơ hoài hương phong phú h́nh ảnh và bát ngát phong vị trữ t́nh” (Hồ Trường An).
Trong khun cảnh miền Nam dưới thời Đệ Nhất Cộng
Ḥa sau thỏa hiệp Genève, kể từ năm 1956 (Hiến pháp chính thức được
ban hành) Tuyết Nhạn (người kể truyện) sống những ngày hạnh phúc quê
nhà, đất nước: “Ở quê ngoại tôi không thời nào dân chúng an cư lạc
nghiệp bằng thời nhà chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm làm Tổng Thống. Các đường
sá từ Quốc Lộ Bốn vào quận, vào làng xă xa xôi hẻo lánh được bồi đắp
theo kích thước làng xă ấn định. Cầu bắc ngang rạch nhỏ phải bằng
xi-măng và lót bằng ván gỗ cây sao dầy rất khít khao. Cầu bắc ngang
qua rạch lớn th́ phải đúc bằng xi-măng cốt sắt chắc chắn. Xe lam xe
gắn máy chạy qua được dễ dàng. Dân cư tự do xây cất nhà theo ư thích
và tài chánh của ḿnh. Nhà lợp ngói vách tường, nhà lợp tôn vách bổ
kho... ngoài ra nhà lá khang trang mọc lên như nấm. Dân chúng đi lại
từ đầu làng đến cuối thôn, qua làng khác, quận khác... thâu đêm suốt
sáng không có giới nghiêm khỏi phải xin phép tắc chi hết. Trong làng
tối thiểu phải có trường Sơ học, có trạm ư tế. Ở các quận lớn c̣n có
Trung học Đệ nhất cấp, có Chi Y Tế để lo sức khỏe cho dân... Mọi gia
đ́nh vui sống đề huề. Dân chúng lương thiện làm ăn. Chùa chiền nhà
thờ được tu bổ, xây cất thêm. Mấy ông hội đồng làng, quận làm việc
không có lương nhưng giúp đỡ dân chúng rất tận t́nh. Họ xử sự theo
thân thương trong t́nh người thôn xóm. Và gần như tôi không nghe
trộm cắp, cướp giựt, đâm chém.... Thuở ấy từ Bến Hải đến Cà Mau dăi
đất quê Nam của chúng tôi thật thanh b́nh (tr.138).
Quê ngoại tôi ở vùng xa xôi lắm
Có ruộng lúa vàng thẳng ánh c̣ bay
Trên hai bờ kinh Vĩnh Tế chạy dài
Có đào lộn hột, ô môi hoa tím
Rừng trâm bầu, Đầm Vơi bông điên điển
Mùa nước lên lé đé liếm thềm nhà
Trên vạt cau ngồi nh́n cá lội qua
Gió đồng nội, trời xanh đàn c̣ trăng
Quê nội tôi cũng ở vùng xa lắm
Mưa thật nhiều, mưa ủ dột lê thê
Hàng phượng cao ve tha thiết gọi hè
Mưa rào rạc bay long lanh trong nắng
Quê hương ơi chứa chan niềm nhung nhớ
Mỗi địa danh là một nỗi yêu thương
Ở mỗi nơi có mỗi nỗi vui buồn
Mỗi sắc thái cho tôi nhiều ư sống
Trong thi tập “Một Thoáng Hương Xưa”
Quan niệm của Tuyết Nhạn về gia đ́nh, cha mẹ và hôn nhân, t́nh yêu
và làng mạc-mặc dù xă hội bắt đầu đổi thay-một cách tổng quát vẫn
c̣n theo truyền thống, tương tự những thời đại xa xưa. Về nhận xét
nầy, tôi có viết một bài khảo cứu bằng tiếng Pháp “Le doux parfum de
la democratie du temps passé” (Nét thơm xưa: Nền dân chủ thôn Việt
Nam trong quá khứ) đăng trên báo Đối Lực (Toronto) số 59, tháng 9
năm 2002, và ṭa soạn đă tóm tắt như sau: “Trong bài nầy, tác giả
tŕnh bày nhiều về phong tục, truyền thống của nền hương thôn hầu
như tự trị ở Việt Nam ngày xưa với phương ngôn nổi tiếng “Phép vua
thua lệ làng”. Tác giả đề cập đến nhiều nhà nghiên cứu hàng đầu về
phong tục, tập quán và xă hội VN, từ các học giả Pháp như Pierre
gourou (hệ thống thứ bậc làng xă, hệ thống gia trưởng, người chu như
ông hoàng trong gia đ́nh...) đến các học giả Việt Nam như Trần Huy
Liệu (từng tham chánh theo Cộng Sản) Đào Văn Vỹ (Hôn nhân trai gái
không phải vấn đề hôn nhân giữa người đàn ông và một người đàn bà
yêu nhau, mà là một vấn đề gia tộc, nhầm đảm bảo cơ sở của cuộc sống
“Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”) Trong bài biên khảo nầy, GS Viện
Sĩ Hàn Lâm Lê Mộng Nguyên cũng đề cập đến các khía cạnh Văn Hóa, đời
sống xă hội VN. Những khái niệm truyền thống như là “Gia phả”, cái
đ́nh, thổ địa, các lễ tiết như thượng điền, hạ điền, thượng nguyên,
trung nguyên, hạ nguyên, hàn thực, đoan ngọ, trung thu, nguyên đán
v.v... Những nhà nghiên cứu liên hệ được đề cập là Đào Duy Anh, Jean
Leclerc...
Trong nhà toàn là con gái, cái ưu tư chính của cha mẹ là đứa con đầu (Tuyết Hồng) phải lấy chồng trước hết. “Ngoài nết na nhu ḿ, chị Hai tôi c̣n giỏi về bếp núc, ngoại và má tôi tạo cho chị sau nầy trở thành người vợ đảm đang. Ḍng họ bên ngoại, bên nội tôi đều thương mến chị. Năm chị học Đệ ngũ th́ ba tôi hưu trí, nên chị nghỉ học. Chị không bằng ḷng nhưng má tôi khuyên: Con gái học bao nhiêu đó cũng đủ rồi. Con đă lớn ở lại thị thành một ḿnh th́ làm sao ba má yên tâm? Con muốn học may th́ má mướn thợ về nhà dạy cho con và em Tuyết Loan để sau nầy may vá áo quần cho chồng con mặc” (Tr.15)
Đám cưới chị Hai với anh Trường quả thật linh đ́nh: Họ hàng gần xa cùng với bạn bè lân cận quen với gia đ́nh và ông bà ngoại của Tuyết Nhạn đều được mời dự lễ và tiệc tùng với những món ăn do bà ngoại là người nấu ăn ngon nổi tiếng trong làng đứng ra chỉ huy nấu nướng. V́ ba đả bảo với má từ cả tháng trước ngày hôn phối: “Trong những ngày nhóm họ và sau những ngày đưa dâu cũng vậy, bà phải để ư dọn ăn cho bà con lối xóm, họ hàng đến giúp ḿnh ăn uống đầy đủ, tươm tất. Ḿnh mới gả con đầu tiên, tốn kém bao nhiêu cũng không sao, đừng để người ta cười nói ḿnh hà tiện (tr.18). Trong một cuộc bàn về “nam nữ b́nh quyền” chị Tuyết Hồng đồng ư với má con gái phải nhường đàn ông, trong lúc chị Tuyết Loan nói nhỏ bên tai em “Phụ nữ ngày nay đều bước ra xă hội kiếm sống như đàn ông. họ phải được b́nh quyền như đàn ông chớ. Ở Ấn Độ c̣n có bà Thủ Tướng Găng-Đ. C̣n má ḿnh th́ cổ lỗ sĩ, đố ai cải hóa má nỗi” (tr39). C̣n Tuyết Nhạn ôm ấp mộng tường “mai sao viết truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, đoản văn...” (tr.29) Và nàng đă trả lời không do dự: “Nhứt định em không suy nghĩ về chuyện nam nữ b́nh quyền như chị đâu. Em viết văn bằng trái tim. Em sắt trái tim từng miếng mỏng để trải lên văn chương...” (tr.39) Mộng ấy đă trở thành sự thật ngày nay. DTDB không những là tác giả của sáu thi tập đă được nhiều người Việt hâm mộ, mà hơn nữa một Truyện dài và một hồi kư (dầy 302) “Trong Lâu Đài Kỷ Niệm” mà tôi đang đọc với tất cả ḷng kính cẩn trước một áng văn hay của nhà văn nhà thơ nữ.
Chị Ba (Tuyết Loan) là một người có nhiều ư kiến rất Âu Tây về phụ nữ tiến hóa. Nhưng sinh sống trong một gia đ́nh nho giáo (trọng chữ nghĩa), chị chấp nhận quan niệm hôn nhân của gia đ́nh. Anh Lê Hữu Toàn phải trở lại ghế nhà trường và thi đậu tú tài... Kế đó, Tuyết Loan được đính hôn với anh Toàn, sau bao nhiêu sự ngăn cấm của ba má và hai bên nội ngoại tôi. “Năm tới anh chị sẽ kết hôn” (tr.176)
Trở lại Tuyết Nhạn lúc đầu có ư định (một khi xong Đệ nhị cấp) sẽ theo học ngành Nông Lâm Súc. Nhưng thi hỏng hai lần, nàng xoay qua trường Y tá. Đậu và ra trường y tá, nàng nhậm chức tại Mỹ Tho và được làm quen ở đây với Dư Khải Minh. Lần đầu tiên mối t́nh chớm nở giữa hai người và đêm ấy: “... Tôi cứ thao thức với niềm hạnh phúc xao xuyến không biết đến tự bao giờ ở trong tim? Tôi ôn lại những lời nói mềm mỏng của Minh, mường tượng ánh mắt, nụ cười của chàng: Tất cả, tất cả sao mà âu yếm và nồng nàn khiến tôi cảm thấy da thịt ḿnh rờn rợn một cảm giác khó hiểu! Rồi tôi tự trách “thật là điên quá đi, sao ḿnh lại nghĩ tầm bậy, tầm bạ ǵ đâu không! Nhưng chèn ơi, tôi cố xô đuổi th́ nó càng cuồn cuộn đến. Cái hơi ấm khả ái của chàng dường như quen thuộc từ hồi kiếp nào lúc tôi đứng gần chàng, lúc cả hai sóng bước đi bên nhau trên đường...”(tr.155-156).
Chiến tranh giữa Quốc Gia và Cộng sản lan tràn, hai gia đ́nh quyết định làm lễ đính hôn cho Tuyết Nhạn và Khải Minh trước một tuần chàng thụ huấn quân sự và sẽ thành hôn khi trở về. Ông GS Trung học (cũng như mọi chàng trai trẻ hồi ấy) phải đi học quân sự và cuối tuần được về thăm vị hôn thê. Nhưng tôi (Tuyết Nhạn) đă giao trước với chàng, mỗi khi chàng về Mỹ Tho thăm th́ ở nhà chị Diệu Tâm, c̣n nhà tôi ở trọ th́ chàng không được ở đêm,chàng đến thăm tôi bất cứ lúc nào nhưng không được vào pḥng tôi trước ngày tân hôn” (tr.240). Có người cho Tuyết Nhạn là lạc hậu, nhưng nàng là con nhà nề nếp, phải trọng thuần phong mỹ tục (“Khi anh cưới vợ, nếu anh biết vợ tương lai của anh thất thân với người khác rồi, anh nghĩ thến nào?”) Sau ngày hôn phối của Cao Thị Tuyết Nhạn và Dư Khải Minh. Năm sau cháu gái Diễm ra đời ngày 14 tháng 9 năm 1970 trong lúc: “cuộc chiến của quê hương càng ngày càng sôi động. Người chiến binh ngày càng gian khổ hiểm nguy. Gia đ́nh hai bên chúng tôi có kẻ đă trở thành phế binh, người thành tử sĩ. Tôi vẫn làm việc ở bịnh viện như thường. Thời giờ không đủ để tôi săn sóc con, lo an nguy cho chồng, th́ có đâu mà giung giăn giung giẻ với bạn bè như lúc c̣n độc thân. Tin chồng của Thúy Hiền tử trận, tôi bàng hoàng thương sót nó vô cùng. Nó mang bầu đứa con đầu ḷng được 8 tháng. Rồi Minh về nghỉ phép trước khi đổi ra phi đoàn 118 ở Pleiku” (tr.271): Vùng cao nguyên anh đang công tác toàn là núi rừng bát ngát, mênh mông, bạt ngàn. Sáng mù sương, trưa mưa rơi, chiều giăng mây xám, tối không trăng, khuya lạnh lẽo... nhớ vợ nhớ con buồn ơi là buồn” (tr.273).
Đứa con thứ hai ra đời lấy tên là Phúc “Con gái Diễm của tôi giống Minh bao nhiêu, th́ trai Phúc giống mẹ bấy nhiêu” (tr.274). Nhưng hạnh phúc không được lâu dài: “Th́ t́nh h́nh đất nước thêm sôi động. Phước Long thất thủ, rồi Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuộc. Rồi Huế, Đà Nẳng, Nha Trang. Quân Đoàn III phải dời ra Phan Rang làm mặt trận tiền phương. Các địa điểm quân sự lần lược thất thủ theo vận tốc dây chuyền” (tr.283)
Ngày 30 tháng 4 (đen) năm 1975 quân đội “nhân dân” chiếm đóng miền Nam tự do. Sau bốn năm sống dưới chế độ bạo tàn, gia đ́nh Tuyết Nhạn, Khài Minh vượt biên ra khỏi ngục tù Cộng sản (vào giữa mùa hè năm 1979 và được định cư trên Illinois (Hoa Kỳ) đầu năm 1980.
Sau đây với hiện t́nh gia đ́nh của DTDB và Khải Minh: “Sống âm thầm hẩm húc với đàn con ở ngoại ô thành phố Chicago” Tác giả viết xong hồi kư nầy vào năm 2002. Cháu Diễm và chồng cùng là bác sĩ Y khoa. Con trai Phúc cũng ra cùng nghề với chị và anh rể. Và một bé trai ra đời nơi đất khách cũng có công ăn việc làm trước khi tốt nghiệp bằng kỹ sư năm 2002.
“Cả ba đứa con chúng tôi nói tiếng Việt rất giỏi, và ưa thích những món ăn VN do mẹ nấu... Từ trong pḥng tắm vọng ra giọng hát như ḅ rống: “Ḷng mẹ bao la như biển Thái B́nh dạt dào/ T́nh mẹ tha thiết như làn sóng đùa ngọt ngào... Ḷng tôi chan chứa yêu thương... tôi mỉm cười một ḿnh và ḍng lệ hạnh phúc chảy xuống má...” (tr.299).
Qua bản kư sự viết theo một lối hành văn không gọt dũa, nhưng rơ ràng và đầy ư nhị (Nhiều lúc hóm hỉnh) và trong bối cảnh lịch sử từ năm 1954 đến 1975 tại miền Nam tự do và từ 1975 đến 1979 dưới chế độ Cộng sản Dư Thị Diễm Buồn kể lại quăng đời ấu thơ của nàng sống trong gia đ́nh hạnh phúc với nhiều kỷ niệm đẹp và buồn đau, chất chồng trong lâu đài nước Việt Nam. Đầy thơ mộng và nhung nhớ ở chặng đường đă trải (như Một Thoáng Hương Xưa) từ tuổi dậy th́ và những rung cảm đầu tiên trước một chàng trai sau trở thành người phu quân tŕu mến.
Cách diễn tả t́nh người, t́nh đời và t́nh yêu vạn
vật toàn đượm bao hàm và ngưỡng mộ! Tác giả tự truyện nầy hiện sống
trên đất khách, quê người (cũng như phần đông những kẻ trầm luân của
tự do) với chồng con, đă thành công trong tuyệt tác “Trong Lâu Đài
Kỷ Niệm (2003)”. Dư Thị Diễm Buồn thật xứng đáng là một nhà thi văn
sĩ vẹn toàn.
(Nghệ Thuật số 112, th7 – năm 2003”
Trong sách “NHÀ VĂN HẢI NGOẠI Tập 1”
Do Nắng Mới Paris xuất bản năm 2006
Giáo Sư Viện Sĩ Hàn Lâm
Lê Mộng Nguyên
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi