Tiên Sha - Lê Luyến
(Tặng bạn tôi, Biệt kích Nguyễn Thanh Châu)
"Phong trần xuôi một bước lưu lạc
Đầu xanh theo một chuyến Xuân tàn"
Tản Đà
I
Sống ở xứ người buồn nên cuối tuần anh em thường
tụ họp uống trà tán gẫu; Ôi thôi đủ thứ chuyện trên trời dưới đất,
toàn thiên hạ sự. Nhưng lần nào cũng vậy, chu du khắp năm châu bốn
bể rồi sau rốt họ cũng trở về với câu chuyện của mảnh đất quê hương
h́nh chữ S xa xôi ngàn dặm.
Lớp trẻ ngạc nhiên khi nghe người lớn luôn nhắc đến đề tài chiến
tranh và ngục tù cũ rích mà không bao giờ biết chán. Họ nói với chút
ngậm ngùi cay đắng; Có kẻ ủ ê thở dài nhưng cũng có người bộc phát
ḷng căm ghét và khinh miệt. Làm sao giải thích cho lớp trẻ hiểu
rằng đó là hoài niệm, là sự t́m kiếm quá khứ, là vốn liếng cuộc đời
của cả một cuộc bể dâu tang thương mà thời đó những người trong cuộc
bị cuốn hút, có khi không c̣n nhận ra được ngay cả chính bản thân
ḿnh. Làm sao cho lớp người trẻ biết rằng sau những năm tháng tăm
tối của định mệnh, sau thời gian đăng đẳng đầy rẫy tai ương gai góc,
những con người ngày xưa may mắn c̣n sống sót, quây quần cố nhóm lên
đóm lửa tưởng chừng đă bị vùi lấp, ch́m khuất trong băo giông quên
lăng. Hiện tại họ đă già, vết thương bom đạn đục khoét làm bạc nhược
thân xác. Cái đầu th́ cằn cỗi lăo hóa thiếu chất xám, họ chấp nhận
làm bất cứ công việc ǵ để giải quyết cấp thời chuyện cơm áo qua
ngày. Quá khứ đối với họ như món đồ cổ trân quư dẫu rằng có bị sứt
mẻ, méo mó v́ thời gian tàn nhẫn nhưng vẫn luôn được săm soi, nh́n
ngắm bằng tấc dạ bồi hồi lẫn xót xa. Họ nâng niu trau chuốt như t́m
kiếm đời ḿnh ở trong đó, như để gạn lọc chuyện đúng sai, phải trái
cuộc đời.
Chúng ta hăy lắng nghe lời tâm sự của một người lính già c̣n sống
sót sau cuộc chiến...
II
Anh người miền Trung. Tuổi mới năm mươi mà thoạt
nh́n cứ tưởng đă ngoài sáu chục. Anh vào lính rất sớm, sau khi tốt
nghiệp trung học phổ thông.
Anh bảo là không thể b́nh thản tiếp tục con đường học vấn khi chiến
tranh bùng phát như ngọn lửa táp ngang mày, khi bạn bè lần lượt lên
đường và xă hội miền Nam như bị nén chặt trong không khí bức bối, lo
sợ với những cuộc xuống đường biểu t́nh của bọn tả khuynh đội lốt
tôn giáo, của bọn hoạt đầu chính trị đang xâu xé, tranh dành quyền
lực. Tuổi trẻ sống với nhiều thắc thỏm, ưu tư, hoài nghi và đau khổ.
Chiến tranh, bạo loạn và suy đồi đă đưa họ đến cùng cực chán nản.
Anh gia nhập quân đội, tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan thông dịch, anh
t́nh nguyện về đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Một năm hành quân
b́nh an khắp mặt trận vùng I chiến thuật. Năm sau - 1967, anh xin
chuyển về binh chủng Biệt Kích Lôi Hổ.
Người lính trẻ đầu đội beret đỏ, vai áo mang phù hiệu cọp trắng và
cánh dù đó tên là Nguyễn thanh Châu, vỏn vẹn chỉ nhảy được ba chuyến
công tác th́ kết thúc cuộc đời binh nghiệp. Trong lần hành quân hiểm
nghèo tại vùng biên giới Hạ Lào cùng với ba chiến binh VN và hai
lính Mỹ, anh không may sa vào tay giặc. Cuộc đọ sức quá chênh lệch
giữa các tay súng trong cuộc chơi sinh tử và tất nhiên phần thua sẽ
thuộc về phe nào có tay súng ít hơn. Địch đông gấp nhiều lần, do vậy
số phần những người lính cảm tử lẻ loi đă được an bày. Hai người
lính Mỹ và một quân nhân truyền tin VN bị bắn hạ ngay từ loạt đạn
đầu tiên. Toán ba người c̣n lại vất bỏ ba lô tháo chạy về phía rừng
sâu biên giới.
Sau nhiều ngày chiến đấu cam go đơn độc, đói khát và căng thẳng,
cuối cùng kiệt sức họ bị bắt. Người sĩ quan trưởng toán không chịu
khai ra mật lệnh truyền tin bị địch xử bắn ngay tại chỗ. C̣n lại anh
và một người bạn bị trói dong về nơi chạm súng lúc ban đầu, chỗ có
xác hai quân nhân Mỹ và người lính truyền tin VN. Đến nơi họ phát
hoảng khi nh́n thấy h́nh hài các bạn bị xé banh tan nát nhầy nhụa
đầy máu, ruột gan tim phổi bị tha đi mất, cái đầu bị liếm gần như
trọc lóc, chỉ c̣n lơ thơ vài mảng tóc dính bết vào xương sọ. Ba
người lính xấu số đă bị hùm beo móc ruột tan nát. Số phận không cho
họ được tiếp tục làm “cọp sấm sét” ngược lại bị “cọp ăn thịt” đúng
nghĩa. Thân xác họ bị rỉa rói tàn nhẫn bởi thú dữ, kên kên ở trên
rừng chết chẳng toàn thây. Riêng Châu th́ may mắn hơn. Sau ba tháng
mỏi ṃn không tin tức, cha mẹ anh được lănh tiền tử tuất và đành lấy
ngày ra đi công tác làm ngày kỵ cơm anh hàng năm. Không ai biết là
Châu vẫn c̣n sống lây lất trên trần gian để trả nợ thua trận.
IIIj
17 năm sau
Năm 1985, trên đường phố quen thuộc của thành phố Đà Nẵng bỗng xuất
hiện một quán nhậu b́nh dân. Thực khách đa số là dân mánh mung, chợ
trời. Đứng tên đăng kư ngôi quán là một bà già ngoài diện tuổi lao
động, đủ điều kiện hợp pháp để nhà cầm quyền Cộng sản cấp giấy phép
mở quán, nhưng thật tế chủ nhân điều hành lại chính là đôi vợ chồng
trung niên, con trai của bà lăo. Vợ là người đảm đang, nấu ăn giỏi,
tính t́nh ḥa ái. Chồng là mẫu đàn ông lịch lăm, tháo vát, vừa ở tù
về.
Công an địa phương quản lư người chặt chẻ, nhất là thành phần chế độ
cũ. Vô phương làm ăn, túng cùng bạn bè bày kế để cho bà già đăng kư
tên chủ quán, c̣n vợ chồng anh là người giúp việc kiếm cơm. Dần dà
khi vỡ lẽ ra th́ chuyện đă rồi nên cũng phải làm ngơ bỏ qua.
Quán nhờ món nhậu ngon, giá b́nh dân, chủ yếu lấy công làm lời nên
chẳng bao lâu khách đến viếng mỗi ngày một đông. Gia đ́nh chủ quán
năm người, vợ đứng bếp có cô con gái lớn phụ giúp. Chồng lo tiếp
khách, bán bia rượu, ghi sổ, thu tiền. Đứa con trai cả và bé út 13
tuổi chạy bàn phục vụ. Những hôm đông khách quá, người ta thấy có
vài dân nhậu tự động bỏ bàn đứng dậy, giúp cha con chủ quán một tay
như người trong nhà. Cũng có hôm quán ồn ào v́ có kẻ say sưa quậy
phá hay muốn nhậu chạy làng, th́ lập tức xuất hiện ngay vài tay
giang hồ tứ chiếng, kịp thời giải quyết ổn thỏa mọi việc. Trước sau,
người chủ quán vẫn giữ thái độ bàng quang của kẻ ngoại cuộc, thản
nhiên đứng nh́n như chẳng hề mảy may dính dáng đến ḿnh.
Riêng mấy tay anh chị nầy th́ dân giang hồ Đà Nẵng không ai là không
biết đến. Ngày trước họ đă một thời lừng lẫy như Phước Mèo nổi danh
giỏi vơ, với cây dao “tàng chiêu quái đao” đă từng đụng độ lính Đại
Hàn có đai đen Taekwondo; hay Hoàng Rouleau, trắng trẻo đẹp trai
giống thư sinh nhưng quay súng và bắn nhanh như phim cao bồi Django,
đă có lần thử súng với tài xế Mỹ lái xe ẩu đụng người bỏ chạy. Một
Đề “đầu bạc” gan to bằng trời, một thân một ḿnh tung hoành nhiều
năm ở thành phố lớn miền Trung nầy. Ngoài ra c̣n có Khiếu râu, Sang
què, hai sĩ quan BĐQ độc thân, thường ngâm nga thơ phú mỗi khi tửu
hứng. Sau 75, họ bị nhốt tại địa phương v́ bị thương tật và các trại
tù chứa đầy người quá. Các anh làm đủ nghề, chạy áp-phe, buôn bán.
Riêng Đề “đầu bạc” th́ hành nghề xe ôm, nhưng không chở người, chở
hàng mà chỉ chuyên chở những thứ lậu thuế, quốc cấm.
Những người bạn nầy tuy mang tiếng giang hồ nhưng họ sống như những
“hảo hớn thảo dă Lương sơn Bạc” đầy khát vọng công lư, phóng khoáng
và nhất mực thủy chung với bạn. Thời gian người chủ quán c̣n ở trong
tù, thỉnh thoảng họ xúm nhau giúp gạo, giúp củi cho vợ bạn nuôi con
chờ chồng. Những lúc gia đ́nh bạn gặp cơn khốn đốn đều có mặt họ bên
cạnh. Ngày bạn ra tù, họ rủ đến vầy cuộc nhậu, chén tạc chén thù,
say túy lúy càn khôn suốt một ngày. Biết hoàn cảnh bạn khó khăn, họ
gợi ư giúp mở quán nhậu rồi phân công người mua xốp về làm thùng
đựng nước đá, người giúp gỗ đóng bàn ghế, sau đó dẫn bạn đến giới
thiệu các đề-pô bia, rượu, thuốc lá mua trả gối đầu với giá đặc
biệt. Sau cùng họ góp tiền lại cho bạn mượn vốn làm ăn. Vợ người chủ
quán nh́n họ bằng ánh mắt cảm động, biết ơn. Riêng với họ chẳng bao
giờ nhọc ḷng bận tâm. Họ làm nghĩa cử giúp bạn một cách thản nhiên
như uống một ly rượu, hút một điếu thuốc.
IV
Một buổi sáng mùa hè năm 1986, trong ngôi quán bất đắc dĩ được cải
biến từ căn nhà ở nằm trên đường Huỳnh thúc Kháng, một người đàn ông
cao gầy, đội nón lá rách toe vành, mặc chiếc áo bạc màu sờn vai đẫm
ướt mồ hôi, có những quầng muối trắng loang lổ c̣n in lại trên lưng
- Người đi bán củi dạo. Thấy chủ quán bước ra, ông khẻ chào. Bà vợ
chủ quán nói:
- Củi ông nầy bán đượm lửa mà giá lại rẻ hơn mấy mối trước. Anh vào
lấy tiền trả giúp em. Khi người chủ quán trở ra ngồi đếm tiền trả
ông bán củi mà trong ḷng anh cứ ngờ ngợ, h́nh như quen thuộc với
ông nầy lắm. Khuôn mặt xương xương, cái miệng hay cười toét, vầng
trán rộng hơi vồ đầy vẻ bướng bỉnh với mái tóc lờm xờm biếng chải,
muối nhiều hơn tiêu... Tất cả dường như gần gũi lắm nhưng người chủ
quán cố nhớ măi vẫn không ra. Chợt nghĩ ra được một điều. Chủ quán
bước đến chổ quầy hàng, vói tay lấy chai rượu và hai chiếc ly nhỏ.
Anh rót mời người bán củi và nói:
- Rượu gạo 100%, uống không bị nhức đầu. Anh dùng thử một ly nhé.
Đón ly rượu, ông bán củi không khách sáo chiêu thử một ngụm. Cái
miệng bỗng nở toét ra vẻ khoái trá. Người chủ rót thêm và gợi
chuyện:
- Anh ở đâu? Sao ít thấy qua lại đường nầy.
- Tôi ở Nại Hiên. Mới hành nghề bán củi dạo, kiếm cơm qua ngày.
Giọng nói dửng dưng, khuôn mặt b́nh thản, ông tiếp tục uống rượu đốt
thuốc. Chủ quán lại nói tiếp:
- Tôi cũng có vài người bạn nhà ở Nại Hiên, trước đây học cùng
trường Tây Hồ.
- Tôi cũng học Tây Hồ. Bạn anh tên chi?
- Tên Châu... Nhưng đă chết lâu rồi.
- Tôi cũng tên Châu, Nguyễn thanh Châu.
Chủ quán mở to mắt nh́n chăm chăm người đàn ông ngồi đối diện, miệng
hỏi dồn dập:
- Châu “Lôi Hổ”?
Khuôn mặt ông bán củi chợt thoáng buồn:
- Hổ lôi th́ có, chứ làm ǵ c̣n hổ sấm sét nữa.
Người chủ quán xô ghế đứng bật dậy, dang hai tay chụp vào vai ông
bán củi lay mạnh, giọng thảng thốt, ướt sũng xúc động:
- Đúng là Châu, Châu điên đây rồi. Mi c̣n sống hả? Tau là Luyến,
Luyến lồi đây.
Nghe tiếng la lớn, vợ người chủ quán bỏ bếp chạy vội lên nhà trên.
Đôi bạn ngày xưa đang ôm choàng nhau cảm động, thổn thức trước cặp
mắt ngơ ngác của bà.
* * *
Chín giờ sáng hôm sau. Trong ngôi quán bất đắc dĩ đă diễn ra một
khung cảnh t́nh nghĩa, ấm cúng. Bảy người đàn ông trung niên thuộc
đủ mọi thành phần buôn bán, làm thuê, mánh mung hay mới ra tù, ngồi
quây quần quanh chiếu nhậu, bên những chai rượu, chai bia và một mâm
thức nhắm thịnh soạn do chính tay bà chủ nấu ra để chồng chiêu đăi
người bạn thưở xưa, mang bản án 17 năm lưu đày mà cứ ngỡ đă chết mất
xác từ lâu. Họ là những tay giang hồ anh em thường xuyên có mặt ở
quán nầy như: Phước mèo, Đề đầu bạc, Hoàng rouleau, Sang què, Khiếu
râu. Trong ngày hội trùng phùng, họ nâng ly với tấm ḷng dạt dào nỗi
nhớ niềm thương của những kẻ may mắn c̣n sống sót sau chiến tranh và
tù ngục.
Rượu đầy rồi cạn, men thấm dần, họ thúc hối người bạn Biệt kích vào
chuyện. Ánh mắt mênh mang, một thoáng buồn suy tư, chậm răi nhả
những ṿng khói thuốc mờ nhạt, Châu bắt đầu câu chuyện 17 năm về
trước ...
V
Trên cơi đời nầy ngoài tôi ra, chắc chắn không c̣n ai biết câu
chuyện định mệnh năm xưa. Sẽ không bao giờ có ai nhớ đến cái tên Mỹ
Missouri của toán chúng tôi.
Sau trận chạm súng bất ngờ, ba bị cọp ăn, một tử h́nh, toán sáu
người chúng tôi chỉ c̣n sống sót lại hai đứa. Tôi và Lô viết Cầu bị
bắt trói quặt cánh khuỷu, rời khỏi vùng tử địa có bốn xác chiến hữu
chết không toàn thây. Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi phải gồng ḿnh
chịu cái nóng ngột ngạt, khô cháy của gió Lào ban ngày và cái rét
kinh khủng, buốt xương của núi rừng Trường Sơn ban đêm. Cuộc hành
tŕnh về nơi lưu đày tưởng chừng bất tận. Ban đầu c̣n khỏe, ư nghĩ
đào thoát cứ lởn vởn trong suốt đoạn đường đi qua. Dần dà bị đói
khát, gian khổ, bệnh tật hành hạ, cái chết không c̣n là nỗi ám ảnh
ghê gớm nữa. Tôi nghĩ, đôi khi cái chết đ̣i hỏi phải có ư nghĩa,
nhưng trong t́nh thế hiện tại th́ cái chết chẳng c̣n nghĩa lư ǵ nữa
khi phải sống với hoàn cảnh nhục nhă, tồi tệ như thế nầy. Có thể cái
chết sẽ làm chúng tôi bớt đau khổ hơn là sống hèn, sống nhục. Nhưng
kẻ địch không để chúng tôi có cơ hội. Hiếm lắm chúng mới bắt được
một người lính quốc gia chứ đừng nói chi là thứ Biệt Kích đặc biệt.
Do vậy không những chúng canh pḥng nghiêm ngặt ngày đêm, mà c̣n tỏ
thái độ thù hằn căm ghét đến thậm tệ nữa là khác.
Một tháng sau chúng tôi đến Quảng B́nh, vùng đất khô cằn sỏi đá của
địa đầu “Xă hội chủ nghĩa”. Tôi thấy người dân ở đây cũng thiếu
thốn, khổ cực như người tù, chỉ khác là họ không bị trói thúc ké như
chúng tôi. Kế tiếp, xe bộ đội chở hai đứa về Thanh Liệt, Thanh Tŕ,
Hà Đông. Ngày xưa, nơi đây đă một thời nổi tiếng bánh cuốn Thanh Tŕ
và bài thơ “Áo lụa Hà Đông” được Ngô thụy Miên phổ thành nhạc, đă
thâm nhập sâu sắc vào ḷng mọi người và ḍng văn học nước nhà. Tất
cả những ấn tượng đẹp đẽ của xứ sở nhiều giai thoại nầy bỗng chốc
tiêu tan trong ḷng người tù binh trẻ khi nh́n thấy hàng chữ “Xà lim
Bộ Công an” đập vào mắt. Đó là khởi đầu của năm tháng lưu đày kinh
hoàng, là thời gian của cùm gông đọa đày, là triền miên trong đói
rét nhục h́nh.
Từ đó, cuộc đời hai đứa tôi hầu như có mặt cùng khắp ở các địa ngục
trần gian như: Nhà tù Vỉnh Quang, Tân Lập, Hồng Thắng, Thanh Phong.
Những nơi đi qua, tôi đă thấy hàng ngàn bộ xương c̣n thở, c̣n đi,
đứng, nằm, ngồi, ăn uống. Những thây ma biết cử động, những cái bóng
im ĺm mỗi ngày một gày g̣ tiêu hao, từ thể xác đến tâm hồn. Cứ thế
cho đến một lúc, những kẻ bất hạnh bỗng biến mất vĩnh viễn trên cơi
đời. Họ ra đi lặng lẽ cũng như họ đă sống cuộc đời lặng lẽ. Tất cả
b́nh thường, tự nhiên từ cái chết đến cả sự mơ ước một ngày được trả
tự do, dần dần rồi cũng dửng dưng, b́nh thản chẳng hề bận tâm suy
nghĩ.
Ngày tháng tù, những người lính chúng tôi xem nhau như anh em một
nhà, không cho phép ai nghĩ điều ǵ khác ngoài t́nh đồng đội, thương
yêu, đùm bọc, giúp đỡ, bảo vệ nhau để sinh tồn. Nếu địch muốn chúng
tôi chết th́ phải cố mà sống. Nếu họ muốn chúng tôi sống hèn th́
phải bảo ban, nhắc nhở nhau sống cho dũng cảm, hiên ngang để xứng
đáng với tinh thần bất khuất của người lính từng xem nhẹ sinh tử và
thấu đáo lẽ sống chết vô thường. Những khi chập chờn nửa mê, nửa
tỉnh, phiêu hốt trôi nỗi trong các pḥng biệt giam khủng khiếp của
nhà tù, chúng tôi đă kiên tŕ vận dụng nghị lực để chế ngự bất hạnh,
cố tập trung suy nghĩ, mài giũa ư chí bằng hùng khí và lư tưởng. Đó
là phương pháp tự rèn để tồn tại. Chính nhờ vậy nên đă nuôi dưỡng
mạng sống cho hàng chục chiến hữu chịu cùm gông suốt hai mươi năm,
hăm lăm năm như Quách Rạng, Nguyễn văn Hợp, Hà văn Chấp, Lê văn
Tụng, Đinh Anh, Bùi văn Tư... được tồn sinh để có ngày trở về. Phải
chăng đó là phép lạ nhiệm màu, là sự phấn đấu bền bỉ kiên cường của
những con người yêu chuộng lẽ sống thiêng liêng.
Sự độc ác, dối trá và ngu xuẩn của kẻ thù chỉ có thể làm nung nấu
ḷng người tù càng sống khí phách, quật cường hơn nữa với năm tháng
lưu đày vô hạn định.
Bọn cán bộ làm sao hiểu được điều đó. Đầu óc chúng rỗng tuếch, đần
độn như h́nh nhân Rôbô th́ làm sao có thể cải hóa được những con
người thừa nhiệt huyết, dũng cảm và cứng đầu, dẫu rằng chúng có thể
dày xéo cả tinh thần lẫn thể xác chúng tôi. Người Cộng sản ngây thơ
cứ nghĩ rằng khi đă hành hạ người ta bằng đủ thứ nhục h́nh là đă
khuất phục được. Họ nhầm lẫn khi thấy chúng tôi im lặng. Họ đâu biết
rằng những điều nói ra với chúng tôi chỉ là nước đổ lá môn, có khi
c̣n bị ép-phê ngược lại là đằng khác. Điển h́nh như câu chuyện ngốc
nghếch sau đây:
“Năm 1973, Cục quản lư Trung ương Hà Nội đến trại. Buổi chiều, lúc
xếp hàng điểm danh vào pḥng, chợt thấy một người từ Ban chỉ huy đi
xuống, vừa đi vừa nghe phát thanh từ chiếc radio nhỏ mang trên vai.
Cán bộ trực trại ngẩn mặt nh́n ra vẻ ngưỡng mộ lắm rồi quay sang
chúng tôi, anh ta vênh váo nói: chỉ cán bộ cao cấp cách mạng mới có
được tiêu chuẩn ưu đăi những thứ quư hiếm như 3Đ đó, chứ ngụy các
anh th́ cả đời cũng không có được. Thoạt nghe qua chúng tôi ngẩn ngơ
không hiểu, nhưng khi được tên cán bộ giải thích th́ mới bật ngửa
ra, không nhịn được phải phát cười rộ lên. Th́ ra 3Đ đó là: đạp,
đồng, đài. Thời điểm đó, xe đạp, đồng hồ và radio là niềm mơ ước to
lớn của cán bộ và nhân dân miền Bắc, trong khi đối với miền Nam th́
những thứ đó thật quá tầm thường, nhỏ nhoi làm sao”.
C̣n khối chuyện ngu dốt của bọn cai tù làm chúng tôi khinh bỉ và nực
cười đến chảy nước mắt. Cứ thế chúng tôi lần lữa cố sống, kéo lê
chuỗi năm tháng đoạn trường để chờ đợi một ngày vận nước, mệnh đời
thay đổi.
Thế nhưng, ngày tang thương tháng Tư năm bảy lăm đă bóp chết tất cả
mọi niềm tin mà chúng tôi ôm ấp, nuôi dưỡng hàng chục năm qua. Ngày
miền Nam thất thủ đă nổ ra như một quả bom có sức hủy diệt mọi hy
vọng trong ḷng người bị lưu đày biệt xứ. Ngày hôm đó trời đất như
cũng đồng cảm với tù, trở nên u ám ảm đạm như ḷng người sầu thảm,
héo hắt. Câu thơ thuộc nằm ḷng của Thi hào Nguyễn Du hồi c̣n đi học
“người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, đến nay tôi mới cảm nhận được
hết ư nghĩa thâm sâu của nó. Đêm nằm thao thức, nghe tiếng thở dài
vang lên từng chập. Người bạn tù bên cạnh cũng trằn trọc, thao láo
đôi mắt, buồn bă nh́n ra dăy núi Tam Đảo chập chùng sương khói trắng
đục, câm nín chẳng thốt nửa lời. Đất trời đêm ba mươi tháng Tư nầy
sao mà ảm đạm, thê lương lạ lùng. Gió khuya trở giấc vọng về tiếng
rít gào, mây đen kịt từ đâu kéo đến che lấp cả vầng trăng hạ tuần,
mờ mờ ảo ảo, le lói những ánh ma trơi. Cảnh vật xao xác cũng giống
ḷng người đ̣i đoạn như bốn câu thơ:
"Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn ...."
Quê hương chúng ta chiến tranh ṛng ră, hết đời ông đến đời cha rồi
đến đời con cháu. Hết đánh giặc ngoài lại xâu xé với thù trong.
Người chết lên đến con số triệu. Xương cao thành núi, máu chảy tựa
sông. Nơi đâu cũng đầy rẫy tiếng kêu gào của oan hồn uổng tử.
Sau bảy lăm, kẻ thù lại có thêm cơ hội lên mặt huênh hoang, đắc chí
của kẻ vừa chiến thắng. Miền Nam thất trận, chúng tôi tắt đi tất cả
niềm hy vọng c̣n sót lại. Thêm tám năm tù nữa, tôi sống quằn quại
trong nỗi đau thua trận mới nhưng đồng thời cũng có cơ hội để kiểm
chứng thật kỹ những sai lầm của kẻ chiến thắng. Tŕnh độ dân trí và
sự ngu dốt không thể tưởng tượng nỗi của kẻ thù chính là sự sai lầm
của chế độ Xă hội chủ nghĩa miền Bắc. Thế mà đau đớn thay, kẻ bại
trận lại là chúng ta.
Cuối năm 1984 tôi được ra tù. Tất cả đều xa lạ, ngỡ ngàng. Con đường
ngày xưa vào đất địch gian nguy chẳng hẹn ngày trở lại. Con đường
hôm nay cũng chẳng khác ǵ mấy, hun hút trời mây, mịt mờ vô định. Có
khác chăng là mái tóc xanh ngày xưa bây giờ đă lốm đốm bạc mầu, thân
h́nh ốm o già cỗi. Bao nhiêu năm lê lết trong những trại tù khổ sai
không thấy mặt trời, sống với một bầy lang sói hóa thân thành bọn
cai ngục. Không sách báo, không ánh sáng văn minh, không phố phường
đô thị ... vô vàn cái không khiến con người tôi trở thành đần độn.
Hai ngày hai đêm thao thức, vài lần đổi tàu xe, tôi mới đặt chân về
tới quê nhà. Phố xá nhiệt náo xô bồ. Nhịp sống chuyển động hối hả,
bon chen khác xưa, con người th́ lạnh nhạt và xa lạ hơn. Chỉ riêng
ḍng sông Hàn vẫn thủy chung như ngày nào, êm ả hiền ḥa trôi ra cửa
biển Tiên Sa. Kỷ niệm học tṛ đầy ắp chợt hiện về. Một góc trời quê
hương, một bến sông tuổi thơ và tháng ngày vô tư ngụp lặn thỏa thích
trong ḍng sông mộng mị. Cái ngổ ngáo pha chút lăng mạn của người
lính năm xưa bỗng chốc sống lại. Tôi t́m chỗ vắng trên Bến Mía, nhảy
ùm xuống làn nước ngọt ngào t́nh quê, đắm ḿnh trong thứ hạnh phúc
vay mượn mong manh nhưng rất thật. Đầu óc vẩn vơ ư nghĩ là để gọt
rửa sạch sẽ những cát bụi bẩn thỉu của cuộc đời phong trần đă áp đặt
lên số phận tồi tệ, bất hạnh của ḿnh. Tôi muốn t́m lại cho tâm hồn
đôi chút b́nh an và hơi hướm một thoáng hạnh phúc thần tiên của
thiên đường tuổi thơ vô tư yêu đời, đầy ước mơ với trang giấy trắng
tinh khôi có hoa và bướm của thưở học tṛ.
Con đường ngắn ngang qua Cổ Viện Chàm dẫn về làng Nại Hiên nay không
c̣n nhận ra được nữa. Nhiều người đi qua, họ nh́n kẻ mặc áo tù với
vẻ hững hờ pha chút tội nghiệp. Tất cả đă đổi thay xa lạ, không c̣n
ai nhớ ra tôi nữa. Tôi bật cười chua chát. Quả thế, chuyện đời đổi
thay, có đôi khi ḿnh c̣n không nhận ra chính ḿnh nữa th́ làm sao
cuộc đời có thể dung chứa được hết thảy mọi con người trong cuộc bể
dâu.
Đêm hôm đó tôi có mặt trong ngôi từ đường của tộc Nguyễn thanh. Bên
cạnh, cha tôi đứng trầm ngâm như mặc niệm trước di ảnh tổ tiên. Mẹ
tôi th́ sụt sùi măi từ lúc tôi mới bước về. Chỉ có mỗi hai Người là
không xa lạ với tôi. Nh́n thằng con trai từ cơi chết bao nhiêu năm
bỗng hiện về, rồi nh́n tấm ảnh của tôi đặt trên bàn thờ nhang đèn
hoa trái đầy đủ, mẹ tôi cứ khóc ngon khóc lành. Bà vuốt ve, sờ nắn
tôi như ngày c̣n bé dại. Mẹ nói nh́n thấy tôi c̣n sống như nằm mộng
gặp chiêm bao. Lối xóm nghe tin ùn ùn kéo đến thăm hỏi chật nhà. Vài
thằng bạn thua trận may mắn c̣n sống sót, nay thất cơ lỡ vận đi làm
thuê làm mướn, đạp xích lô xe thồ, hùn tiền kéo tôi vào quán nhậu
b́nh dân, chén đầy chén vơi, chén mầy chén tau, cạn đến mềm môi. Vài
tuần sau tôi theo chúng nó, rồi cùng một kiếp cu li lê lết kiếm
sống, đoạn tháng qua ngày.
Châu ngửa cổ tợp một hớp rượu lớn, đặt ly không xuống chiếu rồi thở
dài. Anh trầm ngâm đốt thuốc rít vài hơi rồi tiếp tục câu chuyện
cuộc đời:
- Đă nhiều năm kẻ thù đặt ách cai trị độc tài, bạo ngược lên đầu
lương dân miền Nam.. Ngẫm cho cùng, tôi nghĩ đến nay chắc họ cũng đă
hiểu ra một điều: họ chẳng bao giờ là kẻ chiến thắng. Giờ đây họ đă
tận mắt nh́n rơ bộ mặt thật đẹp đẽ của miền Nam. Cuộc sống ấm no
tiến bộ, nhà cửa tiện nghi và xă hội văn minh khác xa những lời
tuyên truyền bịp bợm, dối trá của bọn đầu gấu cộng sản. Sự thật oái
oăm khiến họ thức tỉnh, mới biết ḿnh bị đảng lừa một cú cay độc.
Bao nhiêu năm nằm gai nếm mật chiến đấu gian khổ, đến lúc chiến
thắng mới bật ngửa ra là họ c̣n thua cả người dân nghèo miền Nam từ
vật chất lẫn tri thức và nhiều phương diện khác. Hàng ngũ lănh đạo
vô học, dốt nát nhan nhản trong các cấp đảng bộ cầm quyền làm ǵ họ
không biết.
Té ra kẻ chiến bại không phải ai khác lại chính là họ. Những người
“đồng chí lớn” đểu giả của họ cộng thêm sự bịp bợm của chế độ đă dồn
đuổi họ vào con đường phẩn nộ và đến một lúc mất hết niềm tin, họ
bắt đầu quay trở lại chống đối kịch liệt. Lần nầy th́ những con
người cách mạng, ngày xưa chỉ biết tiến lên bằng mũi súng, ngày nay
đă bị một vết nội thương trí mạng như tâm chưởng mà không hề thấy
máu chảy ra bên ngoài cơ thể. Những kẻ huênh hoang chiến thắng trong
Bắc bộ Phủ lại có thêm những kẻ thù mới, xuất phát từ trong hàng ngũ
của họ như: Trần Độ, Bùi Tín, Hoàng minh Chính, Đặng kiên Giang,
Phạm quế Dương, Nguyễn thanh Giang...
Riêng tôi, sau ngày trở về đă trở thành cái gai nhọn đáng ghét trước
mắt công an. Họ bắt lên đồn viết báo cáo, răn đe rồi tŕnh diện hàng
ngày. Mặc, tôi vẫn thản nhiên sống. Mắt luôn luôn nh́n thẳng vào họ
khi đối diện. Nhiều lần quá họ đâm nhợn, lâu dần rồi cũng lửng lơ
con cá vàng... họ lảng đi. Họ ngây thơ quá, làm sao hiểu được những
điều suy nghĩ trong cái đầu chai sạn của người tù lưu đày biệt xứ
mới trở về. Tôi không muốn trở thành địch thủ của những kẻ háo
thắng, vừa ngu xuẩn lại vừa ấu trĩ như những đứa bé chưa ráo máu
đầu, mới bước chân chập chững vào cuộc đă may mắn có sẵn chiến thắng
trong tay. Miền Nam thua trận v́ có nhiều sai lầm nhưng chắc ǵ
những kẻ chiến thắng miền Bắc đă không mắc phải sai lầm lớn hơn?
Điều bất hạnh nhất là quê hương sau cuộc chiến được xếp vào hàng
nghèo đói, lạc hậu và tham nhũng nhất thế giới. Đời sống người dân
lao động muôn vàn cơ cực nhưng vẫn không đủ ăn mặc. Trẻ con thất
học. Xă hội suy đồi. Lỗi ấy thuộc về ai? Câu hỏi xin dành lại cho
lịch sử luận tội và phán xét những người có trách nhiệm từ cả hai
phía đối nghịch. Có điều tôi biết chắc chắn rằng Việt Nam chỉ là một
canh bài được sắp sẵn trên chiếu bạc quốc tế. Chiến thắng của kẻ thù
không phải v́ thiện chiến hơn chúng ta, nhưng họ có chổ tựa vững
chắc cộng thêm sự may mắn và dă tâm tráo trở, phản bội của cả hai
khối Quốc Cộng.
Trận chiến đă tàn. Cuộc thư hùng đă kết thúc. Cho đến nay toán chúng
tôi chỉ c̣n sót lại mỗi ḿnh tôi. Lô viết Cầu rồi cũng đă chết v́ bị
sốt ác tính vào năm 1984.
Hôm nay tôi không là cái ǵ hết, đơn giản chỉ là một người lính muốn
nói lên những suy nghĩ của đời người vận nước; Chỉ là kẻ đứng chông
chênh ngoài xă hội, bên lề cuộc đời, là chứng nhân của một cuộc bể
dâu tang thương để ghi nhận thêm cho lịch sử quốc gia, dân tộc sự
chuyển ḿnh sang một trang mới với nhiều nỗi bẻ bàng, đau xót và
phiền muộn. Thời gian rồi cũng dần phôi phai đi. Tôi rồi cũng sẽ một
ngày trở về với cát bụi, nơi chốn cội nguồn, một thứ quê hương cuối
cùng trong tâm linh người sống. Nhưng, lịch sử sẽ là vỉnh viễn, là
bất tử với thời gian. Tốt, xấu, đúng, sai rồi phải có một ngày được
vạch trần hẳn hoi ra ánh sáng. Sự thật lịch sử sẽ được hoàn nguyên
và chúng ta hăy vững tin chờ đợi ngày ấy ắt đến không xa.
Với các bạn, lời tâm t́nh thân thiết của tôi là măi măi chỉ muốn làm
một người lính trọn trung, trọn nghĩa, trọn t́nh với quốc gia, dân
tộc. Và tôi dám xác quyết với các bạn rằng, tôi không có điều ǵ
phải ân hận, hối tiếc khi đă chọn làm một người lính quốc gia chân
chính như đă từng chọn trước đây.
VI
Phải đến năm 1995 gia đ́nh anh mới đặt chân được đến Mỹ. Nghe anh kể
th́ suưt chút nữa lại bị Mỹ chơi đểu, bỏ rơi thêm lần thứ hai.
Lần thứ nhất vào năm 1973 tại ḥa đàm Paris, trong điều khoản cam
kết về việc trao trả tù binh, các anh bị gạt ra khỏi danh sách v́ Mỹ
không thừa nhận BK là người được họ huấn luyện, trả lương và thực
hiện các kế hoạch hành quân trong cuộc chiến bí mật. Các anh đă sớm
bị người bạn Mỹ gian trá phản bội, trước khi hiện rơ bộ mặt trơ tráo
bán đứng miền Nam, trắng trợn bỏ rơi chiến hữu.
Hồ sơ bí mật BK nằm kín trong văn khố Ngũ giác Đài chưa hề một lần
được giải mật. Phải đợi nhiều năm sau, đến lúc chương tŕnh H.O ra
đời và những người lính Việt Nam hoạt động bí mật bên kia bức màn
sắt c̣n sống sót được thả về, lần lượt ra đi tỵ nạn và có mặt trên
đất Mỹ th́ nội vụ mới được một số người Mỹ chân chính đưa ra ánh
sáng. Tác phẩm”Secret Army, Secret War” của Segwich Tourison, cựu
nhân viên t́nh báo lục quân Mỹ được ra đời ngay vào thời điểm đó đă
phơi trần tất cả sự thật bỉ ổi của chính quyền Nixon. Đồng thời
trong dịp Đại Hội ra mắt Gia Đ́nh Biệt Kích VN tại tiểu bang Georgia
vào tháng 10 năm 1995, S. Tourison là diễn giả người Mỹ duy nhất đă
thuyết tŕnh và trả lời bằng ngôn ngữ tiếng Việt, thông suốt tất cả
các câu hỏi có liên quan đến những hoạt động vượt tuyến trong cuộc
chiến tranh ngoại lệ VN.
Cùng thời gian đó, một tập thể luật sư hùng hậu của ông John Mattes
đă phát đơn kiện chính phủ Hoa Kỳ bội tín, bỏ rơi các quân nhân
BKVN. Hội đồng lưỡng viện Hoa Kỳ quyết định giải mật các hồ sơ có
liên quan đến vấn đề nầy. Sau đó các quân nhân BKVN hiện đang sống
trên đất mỹ được mời đến điều trần tại quốc hội vào ngày 19 tháng 6
năm 1996 và tất cả sự thật dấu diếm từ lâu đă được phơi bày ra ánh
sáng. Giới truyền thông, báo chí Hoa Kỳ đồng thanh ủng hộ. Họ đưa
tin, viết bài, lên tiếng công kích sự gian trá của chính quyền Mỹ
thời đó và đ̣i hỏi chính phủ phải hoàn trả tiền lương 20 năm cho
những BK bị họ bỏ rơi. Những chiến sĩ Kinh Kha thời đại VNCH được
hồi sinh như những anh hùng. Đó chính là giá trị đích thực của ḷng
yêu nước, của sự hy sinh cao cả không hề tiếc máu xương của những
chàng trai đất Việt yêu chuộng tự do, công lư và dân chủ. Đó chính
là ḷng dũng cảm, sự cao thượng của trai trẻ VN, sẵn sàng sống cho
tha nhân và chết cho dân tộc.
Số tiền bốn mươi ngàn mỹ kim bồi thường cho một người lính BK so ra
chẳng nghĩa lư vào đâu đối với sinh mạng quư giá của con người. Cái
may mắn to lớn nhất đối với họ là c̣n sống trở về với cha mẹ, vợ
con, những người thân yêu đă hàng bao nhiêu năm mỏi mắt chờ trông.
Phần thưởng tinh thần mới chính là những cái thật sự họ cần thiết.
Bốn mươi ngàn đô la đối với họ, những người lính kiêu hùng, chỉ là
băi nước bọt nhổ vào mặt những tên điếm đàng buôn bán chiến tranh
như Nixon, Kissinger ... bắt chúng phải cúi đầu nhận tội phản bội.
Bốn mươi ngàn đô la là cái đấm thôi sơn vào những bộ mặt trơ tráo đă
một thời mật ngọt, giả nhân giả nghĩa, là sự vạch trần cho thế giới
biết rơ về bản chất gian manh của những tên hoạt đầu chính trị trên
một xứ sở dư thừa bơ sữa nhưng thiếu thốn t́nh người. Những người
lính BK đă tự hào sống xứng đáng là một con người Việt Nam chân
chính.
VII
Đến nay chiến tranh đă đi qua, thiên hạ gặp nhau, nh́n nhau, tất cả
đều b́nh thường như nhau. Duy chỉ có những người trong cuộc mới hiểu
được ḿnh. Do vậy, chẳng lấy chi làm lạ khi bầy con trẻ vẫn thường
nghe cha chú nhắc đi nhắc lại hoài chuyện ngày xưa. Chỉ những giây
phút đó họ mới thật sự sống trọn vẹn cho chính ḿnh.
Hôm nay, trên những nẻo đường luân lạc của kiếp người lưu vong, họ
xóa sổ làm lại từ đầu, bôn ba tần tảo kiếm sống. Thời gian rỗi rảnh
họ dành cho mớ hoài niệm quá khứ với nhiều vết tích đau thương c̣n
hằn sâu trên da thịt quê hương, dân tộc và chính bản thân ḿnh.
Trong ḷng họ không hề hối tiếc hay oán trách những lần ra đi sống
chết trong nguy nan cuộc đời, dù họ đă bị phản bội, dù họ đă từng
chết đi sống lại.
Trăng ở đây không sáng bằng những đêm trăng ở quê nhà. Đă bao nhiêu
lần họ nh́n thấy lại h́nh bóng của chính ḿnh. Ở đó có hạnh phúc,
thương đau ... khởi đầu từ một thời son trẻ cho đến cuối chặng đường
trăng khuất. Đời người rồi cũng đă trôi qua mau như ánh đèn, như gió
thổi, như mây bay, như chiêm bao. Tất cả đều là phù vân.
Tiên Sha - Lê Luyến
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi