Phạm
Văn Bản, SVSQ Khóa 4/70 Trường Bộ Binh Thủ Đức, thuộc Trung Đội 411,
Đại Đội 41 và Liên Đoàn 4. Măn khóa ngày 5 tháng 12 năm 1970 và đi
du học Hoa Kỳ. Tốt nghiệp phi công tại Sheppard AFB, Texas ngày 14
tháng 12 năm 1972. Về nước và phục vụ tại Phi Đoàn Thần Báo 520,
Không Đoàn 74 Chiến Thuật, Sư Đoàn 4 Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa.
Vào những tháng cuối năm 1974, phi đoàn 520 (Thần Báo) chúng tôi
nhận lệnh di chuyển về biệt đoàn 74 zulu, cùng với hai phi đoàn 526
(Satan) và 546 (Thiên Sứ) đóng quân ở phi trường Tân Sơn Nhất. Cũng
kể từ những ngày ấy, trung tâm hành quân của biệt đoàn được đặt tại
một khu trường cai nghiện cũ, Sư Đoàn 5 Không Quân. Nơi đó kế cận
với ủy ban quân sự liên hợp của Cộng Sản Hà Nội và Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam. Hàng ngày di chuyển qua lại trong căn cứ, chúng tôi,
những sĩ quan phi hành lúc nào cũng giữ tác phong quân kỷ và lịch sự
chào hỏi với nhóm Cộng quân đang đóng tại nơi đây.
Nhưng ngoài chiến trường kia chúng tôi nghiêm khắc với bản thân, chi
ly tính toán trong việc điều chỉnh từng trái bom hay đầu đạn hỏa
tiễn sao cho rót trúng địch quân. Nhiệm vụ của những người hoa tiêu
khu trục chúng tôi là yểm trợ quân bạn, đang ngày đêm miệt mài chiến
đấu bảo vệ đời sống an lành của đồng bào miền Nam Việt Nam tự do.
T́nh h́nh chiến sự lúc này cũng đang leo thang mănh liệt. Phía Cộng
quân đă mở được những trận tấn công lớn, có chiến xa T54 tháp tùng,
được trang bị hỏa lực pḥng không mạnh… nhằm ngăn chận các phi vụ
oanh kích của chúng tôi đang yểm trợ bộ binh. Với những dàn pḥng
không cao xạ của địch, khi phát hỏa làm thành một trận thiên la địa
vơng… tưởng đâu đă giúp địch quân dễ dàng tung hoành, tấn công đánh
phá các đơn vị tiền phương của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Đây là
những tiền đồn đang đóng rải rác, trải dài và trấn dọc theo biên
giới Lào Miên, ngăn chận cuộc xâm nhập của Cộng quân từ đường ṃn
“hồ chí minh” đổ qua hướng Hạ Lào.
Bởi thế, những danh xưng của Cộng quân từ các cấp lớn nhỏ, những
đoàn chiến xa T-54, những dàn cao xạ pḥng không, những địa danh mà
địch chuyển quân… th́ bất cứ người hoa tiêu nào trong biệt đoàn
chúng tôi, ai cũng phải biết và ai cũng thuộc ḷng. Chúng tôi thuộc
ḷng tọa độ địch, thuộc ḷng đơn vị địch, thuộc ḷng hỏa lực địch.
V́ chiến tranh gia tăng ác liệt, cho nên những số phi vụ hành quân
của phi đoàn cũng được tăng theo. Trung b́nh mỗi hoa tiêu thường
trực ba bốn phi xuất trong ngày, ngoại trừ bay những phi vụ cấp cứu,
bảo vệ vùng cho bạn ḿnh, đă bị lực lượng pḥng không Cộng quân bắn
rơi. Số hoa tiêu tử trận của phi đoàn Thần Báo theo thứ tự của thời
gian là Thiếu Úy Nguyễn Văn Xi, Trung Tá Huỳnh Văn Vui, Thiếu Tá
Nguyễn Minh Sơn, Thiếu Úy Phan Văn Mỹ Anh, Thiếu Úy Nguyễn Văn Cử,
Thiếu Úy Nguyễn Trường Thới…
Tôi măi sao quên được những ngày măn khóa phi hành ở Hoa Kỳ về nước,
Xi và tôi lại được Bộ Tư Lệnh bổ nhiệm về phục vụ Phi Đoàn 520,
Không Đoàn 74 Chiến Thuật, Sư Đoàn 4 Không Quân, và trở thành cặp
bài trùng đơn vị kể từ ngày ấy. Sau khi tŕnh diện đơn vị, Xi rủ tôi
về Sài G̣n, vào Salon Cự Phú lấy ra hai chiếc Vespa mới toanh. Chúng
tôi chạy về đơn vị, rồi giao xe cho nhóm bảo tŕ phi cơ, để sơn lại
xe theo màu ngụy trang của A-37, gắn huy hiệu phi đoàn và khắc nổi
tên ḿnh trên xe, trông oai phong lẫm liệt.
Hai cây súng P-38 của chúng tôi, cũng được mang đi mạ bạc và đánh xi
bóng lưỡng, báng súng gỗ th́ tháo bỏ đi, và thay vào loại báng làm
bằng nhôm phi cơ, có khắc h́nh long phụng và tên tuổi. Đạn th́ được
đánh bóng, gài vào bao đai da với những loại đặc biệt và hiếm qúy
như đạn chài, đạn ch́, đạn bi, đạn lửa, đạn xuyên phá… mà chúng tôi
“ngoại giao” với cảnh sát tỉnh Phong Dinh mới có. Tài tử cao bồi
Texas cũng đâu sánh bằng!
Hằng ngày, Xi và tôi tranh nhau đánh giặc mỗi khi có phi vụ ra ngoài
tiền tuyến, ai phá sớm mục tiêu th́ thắng. Hằng chiều, chúng tôi về
hậu phương lănh giải bằng một chầu ở quán Nhớ Đời quận B́nh Thủy,
một cảnh tuyệt đẹp nơi miền sóng nước tây đô. Sở dĩ chúng tôi thường
chọn nhà hàng này, v́ đặc sản hấp dẫn như trong thi ca, “Sống trên
đời ăn miếng dồi chó, xuống âm phủ biết có hay không.” Cho nên, mỗi
khi nhận được lệnh hành quân, là cả hai chúng tôi phải tranh nhau,
chạy vào pḥng dù lấy nón áo súng đạn, khoác vội lên người, leo xe
phóng ra phi đạo. Câu châm ngôn dùng trong quyết định thành bại hàng
ngày của chúng tôi, là mở máy sớm, cất cánh sớm, đánh giặc sớm… Nếu
ai bay trễ, đến lúc mục tiêu khi đă bị đánh tan tành, th́ đương
nhiên người ấy thua cuộc và tự giác bỏ tiền bao nhậu, không thể chối
căi!
Tuổi xuân đôi mươi của chúng tôi lững lờ, trôi theo thời gian hoạt
động tác chiến của đơn vị, tới một ngày định mệnh, vô t́nh tọa độ
hành quân đó lại là quê hương sinh trưởng của Xi – quận Mỏ Cày tỉnh
Kiến Ḥa. Lúc ra phi đạo mở máy, Xi liên lạc gọi tôi, “Tao đi trước,
về xem cái nôi ra sao!”
Xi tiến đánh mục tiêu trước tôi, đang khi tôi làm ṿng chờ, ngoài
vùng hỏa tuyến. Tôi chăm chú nh́n bom Xi vừa thả, c̣n đang rơi lơ
lửng, và vừa lúc Xi kéo tàu lấy lại cao độ, th́ đột nhiên một loạt
hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 từ bờ Sầm Giang bắn lên. Trông đầu đạn đỏ lừ
và đang chạy theo đuôi phản lực tàu Xi, tôi vội gọi Xi bắn ra trái
sáng, để phá hủy loại hỏa tiễn tầm nhiệt này. Nhưng định mệnh đă an
bài cho Xi, bởi rằng vệt dài khói trắng ác nghiệt kia đă theo kịp
tàu Xi tạo thành một khối lửa như ngọn đuốc thắp sáng rực trời, rồi
nổ tung như xác pháo trên bầu trời xanh bao la, bàng bạc điểm vài
áng mây.
H́nh của Pḥng Điện Ảnh SĐ4/KQ: A37 và Phạm
Văn Bản bị bắn găy cánh đă đáp khẩn cấp, an ṭan tại phi trường Trà
Nóc vào một buổi sáng của năm 1974
Tôi nức nở khóc, và gọi Xi đến khan cả giọng: “Thần Báo 12 nhẩy dù”…
không tiếng trả lời! “Thần Báo 12, đây 22 nghe rơ, trả lời!” Lời
điện đàm lần cuối của tôi, trong tiếng nấc nghẹn ngào với ḍng lệ
tuôn trào. Cũng trong ngày Xi tử trận, ông Nguyễn Văn Công, thân phụ
của Xi kể lại cho tôi nghe sau này, rằng hôm ấy ông cũng đang ngồi
trên chiếc máy cày, cày thửa ruộng bên bờ Sầm Giang, là phần đất ông
chia cho gia đ́nh Xi ngày đó. Chính ông cũng thấy tiếng nổ chát chúa
vang lên trên nền trời, chiếc phản lực cơ A-37 đă thành khối lửa, nổ
tan rồi lao xuống ḍng sông… Trời! Không ngờ, người phi công xấu số
kia, lại là con ông! Một trưởng nam yêu qúy nhất của gia đ́nh và gia
tộc.
Mới ngày nào cặp bài trùng Xi và tôi, học cùng lớp cùng trường, cùng
bằng tốt nghiệp trường sĩ quan bộ binh Thủ Đức và cùng về tŕnh diện
binh chủng Không Quân. Chúng tôi cùng học sinh ngữ, cùng sống trong
“thành phố lều: tent city” với bao kỷ niệm buồn vui đời quân ngũ…
rồi cùng hợp ca trên đài truyền h́nh Sài G̣n, chào tạm biệt quê
hương trước khi lên đường, cùng đi du học Hoa Kỳ. Đặc biệt trong
khóa học phi hành của chúng tôi, chỉ có Xi và tôi là hai người đă có
gia đ́nh vợ con, c̣n lại toàn là độc thân… nên chúng tôi hiểu nhau
và cảm thông cho nhau nhiều hơn.
Ngày về Sư Đoàn 4 Không Quân ở căn cứ Trà Nóc, th́ Xi yêu cầu tôi,
phải lấy hai căn nhà chung nhau trong khu Hoàng Hoa 3, để dễ dàng
chạy thông thương qua lại… Tới hôm nay, giờ đây phi vụ định mệnh làm
cho chúng tôi âm dương cách biệt! Sau giờ phút t́m kiếm Xi, nhưng
bặt tăm dấu tích v́ không thấy dù mở. Cuối cùng, tôi cũng đành phải
bay hợp đoàn với phi tuần trưởng Thiếu Tá Bùi Văn Minh, làm ṿng
chào vĩnh biệt người bạn về Trời! Về với Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông
Núi! Tôi cô đơn trở về đơn vị mà ḷng buồn vời vợi, buồn mất bạn,
buồn tợ như chim bằng găy cánh! Và từ buổi ấy tôi sống thầm lặng
trong đơn vị và bặt tiếng cười, như ngày nao với Xi.
Năm sau, ngày 26 tháng 01 năm 1975, th́ định mệnh lại đến với nghiệp
phi hành của tôi. Ngay từ sáng sớm hôm ấy sau phiên họp thường nhật
phi đoàn vừa dứt, th́ điện thoại đỏ của bàn sĩ quan trực reo vang,
lệnh hành quân của phi vụ Thần Báo 01 ban ra, gồm có phi tuần trưởng
Thiếu Tá Mai Văn Hiền danh hiệu Thần Báo 11 và tôi, phi tuần viên
danh xưng Thần Báo 12.
Cũng như thường nhật, vừa nghe lệnh là chúng tôi tới bàn sĩ quan
trực, lật sổ ghi nhận tọa độ, lập phi tŕnh, lấy điều kiện thời tiết
và t́nh h́nh địch bạn, rồi vào pḥng dù lấy nón áo súng đạn, làm
hành trang lên đường ra trận đánh giặc. Nhưng hôm nay, nh́n qua mục
tiêu Thiếu Tá Hiền – đương kiêm sĩ quan đặc trách hành quân của phi
đoàn – ân cần dặn tôi: “Bản à, xuống đánh cẩn thận, pḥng không mạnh
lắm đó!” Tôi nh́n anh, cái nh́n cảm phục biết ơn, rồi trả lời anh
bằng cái gật đầu.
Anh Hiền cũng biết v́ kể từ ngày Xi chết, tôi thường trầm tư và có
những phi xuất bay thấp săn địch liều mạng! Bởi thế, anh thường nhắc
tôi bay bổng cẩn thận, mỗi khi có chuyến đi đánh giặc chung, anh
thường bắt tôi phải giữ cao độ cao hơn. Có lần, tôi bị hỏa tiễn tầm
nhiệt rượt đuổi, anh Hiền gọi tôi bắn trái sáng, và anh đếm cho tôi
nghe để bắn: “one thousand one, one thousand two, one thousand
three! Hack,” tôi đă bóp c̣ sau tiếng “hack,” hạ gục loại đầu đạn
SA-7 ác nghiệt kia. Thông thường, mỗi khi chúng tôi tiến đánh mục
tiêu, th́ địch quân lại thường nhắm bắn phi cơ số 2, đang khi ṿng
bom thả đầu của phi cơ số 1 vừa rơi khiến chúng c̣n đang bàng hoàng
t́m nơi ẩn náu, bởi thế chúng chưa kịp bắn phi cơ số 1.
Sáng nay, phi tŕnh nửa giờ cất cánh của chúng đang tôi nhắm hướng
Tây Ninh, và b́nh phi ở cao độ 15 ngàn bộ, tức bay cao hơn đỉnh núi
khoảng 5 ngàn… Bỗng nghe phi cơ quan sát điện đàm và hướng dẫn chúng
tôi vào đánh tại một mục tiêu, chân núi Bà Đen. Từ trời cao chúng
tôi thấy khói màu bốc lên tại khu Điền Long, và quan sát viên cho
biết tăng T-54 của Cộng quân đang tiến lại từ hướng nhà máy đường
mái ngói đỏ phía bắc khoảng 100 bộ.
Chúng tôi vừa định được tọa độ và mục tiêu địch, để làm ṿng đánh
bom, th́ ít phút sau pḥng không của địch đă rải lên trời nổ bung ra
như nấm. Phi cơ số 1 vừa thả bom, nh́n theo mục tiêu của anh Hiền
vừa đánh, tôi nhận ra đoàn tăng T-54 xạ kích xong là chúng nấp vào
một bụi cây ven rừng. Nhưng vị trí ẩn náu của chúng đă bị tôi khám
phá ra, và ṿng bom phi cơ số 2 phải đánh trúng mục tiêu, khiến
chiếc tăng được nhận làm của lễ toàn thiêu.
Thời gian phục vụ Thần Báo chẳng mấy chốc mà đă hai năm kỷ niệm ngày
về của tôi, mười năm kỷ niệm ngày thành lập phi đoàn được tổ chức
trọng thể tại câu lạc bộ Mây Bốn Phương. Tôi đă có hàng ngàn giờ bay
trên phiếu phi hành, có hàng trăm phi vụ oanh kích trên vùng trời
địch đóng, không riêng lănh thổ Việt Nam mà c̣n không tạc trên những
bầu trời Hạ Lào, Cao Miên với bao hiểm nguy vào sinh ra tử… nào là
đột phá đường ṃn Hồ Chí Minh, tấn công Cục R, san bằng địa đạo Củ
Chi hay thủ đô Lộc Ninh... là những địa danh mà Cộng quân tưởng là
an toàn bí mật. Nhưng đồng thời, sau hai phi xuất bay sáng trong
ngày hôm ấy, một trận ở Điền Long núi Bà Đen và một trận ở Long Tần
núi Mây Tào, th́ phi vụ thứ ba tôi đă bị bắn rơi và trọng thương
trong trận Klong Khot, là trận đánh ngăn chận đường tiến quân của
Công Trường số 9 miền Bắc, đang xâm nhập vào miền Nam qua ngơ Hạ Lào
và Cao Miên.
Một lần nữa, anh Hiền và tôi lại cùng thực hiện phi vụ thứ ba trong
ngày. Đúng lúc 3 giờ chiều hôm ấy, tôi vừa đánh xong ṿng bom thứ
hai vừa dội xuống Klong Khot, trong lúc tăng tốc để lấy lại cao độ,
th́ tôi bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 bắn trúng máy cánh trái, tàu nổ
tung tôi trúng thương. Sau khi tỉnh lại th́ thấy tàu quay cuồng, tôi
cố dựt lại cần lái, nhưng đă bất khiển dụng nên phải nhảy dù.
Rồi thời gian làm tôi bất tỉnh, sau khi hai trái hỏa tiễn của ghế
bay trong pḥng lái phụt nổ, ném tôi vào không gian bao lâu để cho
dù mở th́ tôi hoàn toàn không biết. Nhưng không khí lành lạnh làm
tôi hồi phục th́ thấy ḿnh đang lơ lửng, đong đưa. Tôi bắt đầu cảm
thấy thấm mệt, có lẽ máu trong những vết đạn trên người đang nhỏ ra.
Nh́n lên nóc dù hoa đang mở, tôi cũng đă đếm được nhiều vết đạn thù
bắn vào loang lổ, của cái dù chính cũng như dù phụ. Nh́n xuống mục
tiêu mà tôi vừa đánh bom, th́ đạn địch đang bắn và tôi phải cố gắng
lái dù chạy theo chiều gió, tránh xa địch quân chừng nào hay chừng
nấy. Có lẽ tôi cũng đă chạy xa lắm, đă thoát khỏi ṿng vây địch
quân, để rồi chuẩn bị t́m một băi đáp an toàn cho dù hạ cánh trong
khu rừng hoang vắng, trên phần đất Cao Miên cách xa biên giới Tây
Ninh mà tôi ước chừng, khoảng một trăm cây số.
Khi đáp xuống, cánh dù của tôi lại bị cành cây cao của rừng máng
lại. Tôi bị treo tọng teng trên cao, khỏi mặt đất tới hơn chục
thước. Tôi lần tay trong áo lưới lấy ra cuộn dây cứu hộ, nối dài
thân dù để t́m đường hạ người xuống đất. Tôi cởi phăng áo lưới và
chui vào một bụi cây đă chọn, ẩn nấp trước khi thấy ḿnh sắp sửa ngă
gục. Rừng hoang vắng, tiếng cú gọi hồn rít lên xa xa… đang tạo ra
những âm thanh ma quái lạnh người. Tôi loay hoay vặn máy vô tuyến
liên lạc nhỏ đang cầm trên tay, với những tiếng kêu sè sè dù đă
chỉnh lại rất nhỏ nhiều lần, nhưng vẫn cảm thấy c̣n oang oang như
muốn làm dấu kêu địch bắt tôi. Tôi mỉm cười với cái ư tưởng nhút
nhát ban đầu, sống đơn độc trong rừng… và đặt máy xuống một bên, đè
trên những chiếc lá khô xào xạc. Rút cây súng ngắn ra, nạp đạn cẩn
thận rồi đặt cạnh máy vô tuyến, đề pḥng địch tấn công bất thường.
Tôi bắt đầu mở ba lô hành trang, lấy sách hướng dẫn mưu sinh thoát
hiểm ra và đọc ngấu nghiến, rồi lấy thuốc cá nhân ra uống. Băng bó
những vết thương rỉ máu, và ăn chút lương khô đề tôi lấy lại sinh
lực. Nh́n ḍng chữ nhắn gởi trên sách, khi bị thương th́ máu trong
ḿnh đổ ra, và cũng là lúc khát nước nhất, mà uống nhiều nước th́
rất khó cứu sống. Tôi mỉm cười nh́n những gịng chữ đậm, in rơ nét
trên trang mưu sinh thoát hiểm của ḿnh.
Ngoài kia trời tối dần, màn đêm buông rủ làm tắt lịm những tiếng beo
hú cọp gầm như bao oan hồn hiển hiện… sau bức điện morse đánh đi,
các bạn hoa tiêu của tôi khắp nơi t́m đến nào là trực thăng, nào là
F5, nào là A37 đánh bom và thả trái sáng, tạo vành đai an toàn cho
tôi trú ẩn qua đêm. V́ đạn bắn như mưa, nên măi tới sáng mới được
trực thăng bốc lên, tải thương về tiền đồn biên giới Trà Teng, là
nơi tôi đánh bom giải vây hôm trước, để tạm thời băng bó lại vết
thương cho tôi.
Trên trực thăng tôi bị ngất xỉu nhiều lần v́ mất máu, nhưng những
lúc tỉnh lúc mê th́ lại khát nước. Lúc tôi khát và thấy có người cầm
bông thấm nước từ chiếc bidon, rồi ông đặt bông nước trên môi tôi.
Có những lúc quá khát, tôi đă nảy ư định muốn dành lấy bidon nước
trước mặt mà tu. Nhưng lại bị dựt lại, tôi mở mắt ra nh́n th́ thấy
ông đó, là tướng hai sao. Với tác phong quân kỷ, tôi muốn dơ tay
chào ông theo nghi lễ quân cách, nhưng cánh tay lại bị cột chặt vào
bangka. Ông tướng nh́n tôi mỉm cười gật đầu, v́ ông đă hiểu ư muốn
của tôi, đó chính là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Vùng 4
Chiến Thuật, người sau đó tuẫn tiết khi Sài G̣n thất thủ.
Trực thăng của Thiếu Tá Đức đang lái lượn ṿng, t́m băi đáp, tôi cựa
quậy và liếc nh́n xuống vai áo trận rách nát của ḿnh… thấy vật lạ,
ba bông mai vàng mới toanh, cấp bậc đại úy đă được Thiếu Tướng Nam
tuyên thăng tại mặt trận. Ông gắn cho tôi lúc c̣n bất tỉnh… và thấy
tôi ngơ ngác nh́n, ông nói, “Nằm nghỉ đi em, Thần Báo số 2.” Một kỷ
niệm đẹp, đáng ghi nhớ trong đời binh nghiệp của tôi. Có lẽ đă sáng
đẹp nhất trong ḷng tôi cho tới ngày hôm nay, đó là h́nh ảnh của
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người thanh sát mặt trận khi tôi đánh
bom, và sau khi tàu tôi trúng đạn, phải nhảy dù… Vị Tư Lệnh của Quân
Đ̣an IV này đă túc trực 24/24 trên trực thăng quan sát mục tiêu
chiến trường và tọa độ mà tôi đang ẩn náu… cho tới khi cứu được tôi.
Đó là kỷ niệm sống măi trong tôi, và tôi đă khóc thương Thiếu Tướng
Nam khi nghe người sĩ quan tùy viên của ông thuật chuyện lại với tôi
trong trại tù cải tạo.
Qua những tấm gương khí tiết oanh liệt như Thiếu Tướng Nguyễn Khoa
Nam, và hoa tiêu khu trục của Phi Đoàn Thần Báo như Trung Tá Huỳnh
Văn Vui, Thiếu Tá Nguyễn Minh Sơn, Thiếu Úy Nguyễn Văn Xi, Thiếu Úy
Phan Văn Mỹ Anh, Thiếu Úy Nguyễn Văn Cử, Thiếu Úy Nguyễn Trường Thới
đă anh dũng chiến đấu và hiến thân để bảo vệ cho nền tự do dân chủ
Việt Nam, đă thúc dục ḷng tôi luôn suy xét về việc thất trận của
ngày 30 tháng 04 năm 1975, để t́m ra những nguyên nhân gây ra mất
nước, và từ những chỗ mất ấy mà chúng ta có thể khởi công đi t́m…
Cũng bởi thế mà tôi cảm nhận rằng, Việt Nam Cộng Ḥa chúng ta đă
thiếu vắng một nền tảng triết thuyết dân tộc làm căn bản trong công
cuộc xây dựng kiến thiết quốc gia, nêu cao chính nghĩa dân tộc, và
khai triển rộng răi sách lược quốc pḥng nhằm bảo vệ đất nước một
cách thực tế, vận động toàn dân toàn diện trong việc giữ nước, phát
triển tự do dân chủ một cách vững chắc minh chính.
Nh́n lại buổi sáng ngày ngày 30 tháng 4 năm 1975, lúc 10 giờ tại phi
trường B́nh Thủy, chúng tôi nhận lệnh của Pḥng Hành Quân Chiến Cuộc
và thực hiện phi vụ oanh kích ngay vành đai khu vực an ninh phi
trường, v́ tin tức ghi nhận Cộng quân đă tràn qua Lộ Tẻ Ba Xe. Khi
vác dù ra phi đạo lấy tàu đánh giặc, th́ rất nhiều anh em quân nhân
các cấp trong Sư Đoàn 4 Không Quân lúc ấy đă tràn ra dọc theo băi
đậu và cất tiếng hoan hô cổ vũ chúng tôi. Khi cất cánh thi hành công
tác, tôi mở máy nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh mà
nước mắt của ḿnh tuôn trào.
Ôi t́nh quê hương! T́nh tuyệt vời và tuyệt vọng! Đẹp và buồn làm
sao! Một nỗi buồn trào dâng và len lén trong tim người lính trẻ, với
chuyến bay định mệnh.
Phạm Văn Bản
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh