BK Bùi Đức Tính
Tháng Tư gợi nhắc lắm đau thương!
Có phải, mỗi một ngày lưu vong là một ngày đen, tháng ngày Quốc Hận!
Tự Do ơi Tự Do!
Mấy ngày nay biển động.
Dân đánh lưới cá tôm không ra khơi được, tàu phải nằm chờ hải sản
"thu mua" cho đủ số lượng của một chuyến.
Sau này, dưới chế độ cộng sản cai trị, cũng như các ngành nghề lao
động khác, người hành nghề đánh cá phải vào "hợp tác xã", bán hải
sản cho cơ quan cầm quyền ở địa phương.
Đến cuối tháng Tư, thời tiết trở nên bất thường hơn. Các chuyến vượt
biển bằng ghe tàu nhỏ mất dần cơ hội để ra khơi.
Hồi sáng này gió lại mạnh hơn, có lúc chắc phải hơn bốn mươi cây số
một giờ, làm biển động dậy sóng lớn.
Không thuyền ghe ra khơi. Không thấy bóng dáng tàu bè nào chạy vào.
Mưa cứ nối nhau, cơn từng cơn, từng cơn ào ạt trút nước lên vạn vật. Bãi biển cạn. Đất bùn. Sóng đùa ì ầm vào bờ. Sóng cuộn nhào đục ngầu màu phù sa nâu đỏ. Trời biển trông thật buồn. Trùng dương xám mù mịt, lòng người chùng xuống ưu tư. Trong âm u mù mịt, biết đâu ngoài biển khơi, những ghe thuyền đi tìm Tự Do của đồng bào Vinh đang chao đảo trong cơn sóng gió hung bạo. Không vướng bận thân quyến đồng hành, chiếc 3392 cùng Vũ và Vinh chắc cũng đã vượt ra khơi từ đêm khuya hôm qua.
Ra đến trạm thu mua, tức là đã qua khỏi trạm công an biên phòng hay căn cứ hải quân rồi. Nhìn đại dương rộng mở, nôn nao mong ước lắm. Người ta liều lĩnh ra khơi bằng ghe tàu mỏng manh hay trong mùa biển động để dễ lọt qua tai mắt theo dỏi và lùng kiếm của công an cùng các lực lượng võ trang trên đất liền cũng như ngoài biển. Người vượt biên đành phải chọn hiểm nguy trong sóng to gió lớn để vượt thoát chế độ cộng sản ngục tù, chấp nhận đánh đổi tính mạng chính mình vì hai chữ Tự Do.
Tàu đánh cá quanh đây hầu hết thấp hẹp, nên gọn gàng và tốc độ tàu
lướt sóng nhanh, để thích ứng với nghề đánh lưới vây, lưới kéo, bắt
tôm, cá thu, cá ngân,… Nhưng gặp lúc biển động, ghe tàu nhỏ không
dám ra khơi, nằm bến chờ thời và Vinh cũng nằm ở đây theo tàu. Neo
tàu nằm bến, bị mất chuyến. Có chuyến chở hàng, có cơm gạo, có thêm
cơ hội dò đường chọn cửa biển, được mua dầu để tích trử cho ngày ra
khơi.
Thời tiết thế này chán lắm!
Chiều xuống, biển có êm bớt. Bên ngoài còn mưa gió ướt át, ba người
gom lại bên trong mui tàu một lúc lâu thì tù túng quá. Chưa đến bốn
giờ, trời tối như đã về đêm. Ghe, nhà lấp lánh ánh đèn. Phụ anh Hai,
anh rể của Vũ, nấu cơm, rồi ba anh em quay quần ăn cho xong cơm
chiều. Độ nhậu hồi sáng với nhân viên khuân vác trên trạm, còn lưu
giữ men rượu trong huyết quản. Ngầy ngật, bụng dạ lỡ đói lỡ no. Húp
miếng canh, ăn uống qua loa cho xong, Vinh theo anh Hai và Vũ thả
lòng vòng lên trạm thu mua, tán dóc với công nhân trên trạm. Khề khà
câu chuyện một lúc cho có tình tự làng nước, rồi kéo mấy cái thùng
đựng hài sản ướp nước đá xây ra gần ngoài cửa ngồi. Thùng hình dạng
khối vuông, được ráp lại bằng sáu miếng nhựa cứng. Vũ và Vinh để mắt
đến loại thùng này từ lâu nay. Tháo ra, sáu miếng chồng lên nhau chỉ
cao hơn gang tay, gọn lắm. Mỗi miếng, đủ sức làm phao cho một người
lớn. Chục thùng tháo ra, không chiếm bao nhiêu chỗ cất giữ trong hầm
tàu. Chỉ cần ráp vào, lót túi ny long lớn cho nước đừng chảy thoát
thì thành thùng chứa nước ngay, rất hữu ích khi ra khơi. Tàu cần có
một số thùng này khi ra khơi.
Vinh ngồi với Vũ vấn thuốc hút trông chừng tàu, nhìn trời biển, nhìn
mưa gió, nhìn người.
Làng đánh cá nghèo. Bây giờ, dân nghèo càng nghèo nàn hơn dưới thời
cộng sản cai trị. Dân đánh cá bị cướp mất quyền tự do đi biển và
buôn bán, càng khốn đốn hơn với loại tiền "hồ cáo" của nhà cầm
quyền. Mỗi lần đổi tiền, đồng tiền mới lại mất giá trị hơn. Quanh
đây, không bông hồng kiêu sa, nhưng cánh hoa mộc mạc mặn mà, cũng dễ
làm những cánh bướm đa tình ươm ấp mộng mơ, lạc lối quên đường.
Từ ngoài khơi nhìn vào, bên trái là văn phòng, kho chứa nước đá và
hải sản, bên phải là nơi công nhân cư ngụ. Phần nhà sàn trống lớn
chính giữa dành chỗ cho công việc lên hàng và xuống hàng. Mỗi khi
tàu mang nước đá cây đến hay lấy hải sản chở về thành phố, không
gian nơi đây bừng tỉnh dậy. Đèn sáng choang, tiếng máy át tiếng
người. Công nhân viên gọi nhau gom tụ lại nơi đây. Người làm hùng
hục, các xếp đi đi lại lại chỉ chỏ. Nhóm người không có gì làm,
không trách nhiệm thì tà tà đứng xem chơi cho vui. Căn nhà trống
trải bổng chốc trở thành chật chội, người và hàng hoá chen lấn nhau.
Sàn nhà ướt lênh láng nước tôm, nước cá cùng nước đá. Thân người làm
công thì đẩm ướt mồ hôi. Tiếng người khuân vác chuyện trò ồn ào. Máy
phát điện, máy xay nước đá đua nhau chạy rầm rập. Bất kể đang là ban
ngày hay giữa lúc đêm khuya, trạm như cái chợ đang nhóm. Người ta
hối hả làm cho xong, để nghỉ ngơi hay trở lại nhậu tiếp. Người trên
tàu thì chờ nước đá lên hết để dọn dẹp tàu, đi kiếm hàng quán ngồi
lai rai nghỉ ngơi, hay lòng vòng trên tàu chờ hàng xuống xong để
tháo dây rời bến.
Xong công chuyện, trống vắng lại trở về.
Không có hàng lên hàng xuống, lúc nào có độ ăn uống nhậu nhẹt, trạm
mới có phần sống động lại. Mặt trạm xoay ra cầu tàu của khu tiếp
nhận hàng để trống thoáng. Gió lớn hắt mưa vào chỉ ướt phía ngoài,
bên trong cũng khô ráo dễ chịu.
Nhưng lắm lúc, gian nhà hiền hoà, trông có vẻ vô tội vạ này không
chỉ đơn thuần là nơi phục vụ cho việc mua bán hải sản, nó bất chợt
bị biến thành cái trại giam và khu tra tấn của bọn cộng sản bất
nhân.
Tàu vượt biên không may bị chận bắt được, bọn công an kéo về đây để
tra tấn người và vơ vét cướp đoạt tiền của, trước khi giải giao
thuyền nhân đến các cơ quan khác. Đồng bào vượt biên bị cột trói,
đẩy ngồi lố nhố trên sàn trạm. Không ai biết được bao nhiêu người
đang dở sống dở chết, còn lại bên trong chiếc tàu bất hạnh vì cửa bị
lịnh đóng kín.
Uất hận ngất trời!
Sàn nhà rung chuyển. Không gian náo loạn. Trạm đầy ấp người. Công
an, lính võ trang ở địa phương hung bạo la hét, xoay quần những
người bị bắt. Thuyền nhân xác xơ với sơ mi tay dài, tay ngắn, có áo
trắng, có áo màu, có áo đen bạc mốc… Dân sinh sống ở tỉnh thành hay
người trốn đi từ thôn xóm, áo quần cùng giống nhau cái xốc xếch, bê
bết dầu máy hay bùn đất. Người bị trói, ngồi co ro, mất thần sắc
nhìn những khẩu súng đang ghìm chỉa hăm doạ. Mặt kẻ chiến thắng vênh
váo khoái trá; thêm một dịp vừa chia chát tiền vàng cướp được bửa
nay, vừa lập công với đảng, dâng thành tích lùng bắt những "thằng
phạm", "con phạm" vượt biên.
Chữ nghĩa của cộng sản gọi đồng bào mình như thế đấy!
Thế đấy, đồng bào đã "phạm" cái tội mà cái đảng và bạo quyền cộng
sản rất là căm thù cấm kỵ, đấy là "tội" tìm Tự Do!
Bây giờ ngồi đây, Vinh ngước nhìn lên cây đà ngang trên trần nhà,
nơi hai người đàn ông đã từng bị trói treo trên ấy để chúng nó tra
khảo; Vinh ngẫm nghĩ, biết đâu, có ngày, xác mình cũng bị công an
kéo về, treo lên trên đấy, để chúng nó hăm doạ những người còn toan
tính vượt biên.
Vinh như còn thấy đó, trong góc phòng, thức ăn dưới tàu bị tịch thu
chất đầy trên mặt bàn. Tai Vinh còn nghe vang dậy tiếng khóc thét
kinh hoàng của mấy đứa trẻ con trên tàu bị lũ công an hung bạo bợp
tay té nhào, vì đã ngây thơ dám mó tay vào những bánh thịt trên bàn.
Lòng xót đau, nhưng Vinh không ngạc nhiên trước thái độ bất nhân của những con người mệnh danh là công an nhân dân, bộ đội nhân dân, những kẻ tự hào xưng tụng mình là cộng sản. Trong trại tù, thân nhân đến nhận xác tù nhân bất hạnh đã từng bị bạo quyền cộng sản cấm không được khóc thương. Họ cho rằng, sự thương tiếc người phạm tội tức là bày tỏ thái độ bất mãn chống đối lại phán quyết kết tội của đảng. Đảng đã can tâm cấm đoán nước mắt xót thương thân quyến đã phải chết trong ngục tù của cộng sản.
Có phải chăng, chủ nghĩa cộng sản đã huỷ diệt linh hồn con người, biến những kẻ cầm súng theo chúng nó trở thành động vật mất nhân tính, hết tình người cùng nghĩa đồng bào; chỉ biết cúi đầu và gục mặt để tôn thờ, để phục vụ cho chủ nghĩa cộng sản bạo tàn?!
Ngước mắt ngó lên trên bến trạm,
Nhìn những thuyền nhân bị bắt về.
Tay trói, gục đầu, lời đã cạn.
Tiếng khóc trẻ thơ, dạ tái tê.
Nhìn người, chợt thấy mình thân thuộc
Tôi khóc hay sao, nước mắt nào?
Tự Do ơi hỡi, tim xót buốt!
Dân tôi bất hạnh lắm thương đau!
- Ê, có tin vui!
Nghe tiếng anh Hai, Vũ và Vinh quay lại, thấy anh Hai đang đi tới.
Anh hớn hở báo tin:
- Chiều nay mình về! Anh mới lên văn phòng nhắc lại vụ cho tàu nằm
bến. Họ nói, công nhân trên trạm ăn cơm xong, khoảng sáu giờ sẽ
xuống hàng. Có bao nhiêu thì tàu mình chở bấy nhiêu. Chút nữa mình
chạy về.
- Bắt mình neo tàu chờ hết ba ngày... ép lắm rồi!
Vũ càu nhàu, nhưng hài lòng lắm. Anh Hai vui vẻ bảo:
- Anh coi tàu cho, hai anh em lên quán kiếm gì uống đi.
Vũ đứng dậy, vỗ vai Vinh:
- Đi mày, tụi mình lội đi kiếm cà-phê uống chơi! Cà phê sữa hả anh
Hai?
- Ừ,… gì cũng được mà. Hai đứa cứ đi, anh nằm nghỉ một chút!
Anh Hai cười dễ dãi với hai thằng em.
Đi ngang qua cái bàn nước gần văn phòng, Vũ dừng lại, mượn cái ly,
cầm theo để đựng cà phê đem về cho anh Hai.
Đúng là lội!
Đường lên quán cà phê rất hẹp, vừa đũ cho hai người tránh nhau. Mặt
đường trồi sụp, uốn ngoằn nghoèo sát theo hai bên nhà vách lá cũ kỹ.
Bùn trơn trợt và uớt nhão giữa các kẽ ngón chân. Có chỗ, người ta
phải lom khom bước lên trên thềm nhà, mái lá thấp là sà trút nước
mưa ngay lên người đi bên dưới. Dân làng nghèo, sống khắc khổ. Đánh
lưới được tôm cá ngon, gia đình không dám ăn, phải bán đi để mua
gạo, mua dầu. Quán sống được là nhờ vào công nhân viên, người làm ăn
buôn bán xa nhà.
Quán cà phê chỉ là căn nhà nhỏ vách lá, như những căn nhà hàng xóm. Ánh đèn dầu vàng, đủ soi sáng không gian gồm bốn cái bàn gỗ thấp. Hai bàn đã có khách ngồi. Bên các thức uống như cà phê, nước ngọt, dĩ nhiên không thể thiếu rượu. Rượu trắng, rượu thuốc và đồ nhậu như khô mực, cá khô chất bầy ra trên quầy. Vũ uống rượu vững lắm, nhưng anh em trên tàu không ai ghiền rượu, chỉ uống cho công việc chạy chọt được trơn dễ mà thôi.
Có chuyến chạy tàu coi như có tiền vô, Vũ và Vinh tự khao mình ly cà
phê trước.
Như các quán bình dân trong thôn xóm, quán chỉ có loại cà phê "kho".
Loại cà phê pha sẵn và ngâm nấu trong bình để giữ nóng. Vị cà phê
đậm đắng, có mùi khen khét hơn là thơm cà phê. Chẳng biết trong thời
buổi hàng hoá đã bị cộng sản cai trị, mọi thứ nhu yếu phẩm đều phải
sắp hàng chờ mua ở hợp tác xã, người ta cùn túng đã rang nướng những
thứ chi để pha trộn thành bột đen và gọi là cà phê. Riết rồi cũng
quen dần hương vị, nhưng có đường hay sửa ngọt thêm vào thì dễ uống,
ngon miệng hơn.
Quán vùng dân nghèo, được uống ly cà phê sửa như thế này là đã sang
lắm rồi!
Hết rồi, Vũ và Vinh không dám ước mơ được thưởng thức lại hương vị
độc đáo của từng giọt cà phê như trước đây. Dưới tàu có hộp cà phê,
chịu khó nấu nước pha một chút cũng có chất nước đậm đắng để nhâm
nhi vậy. Nhưng dầm mưa lội trong bùn sình ra quán, ngồi uống cũng
cái thú vị "ngồi quán" uống cà phê. Hơn nữa, tạo dịp đi lanh quanh
làm quen trong xóm cũng có nhiều hữu ích, biết qua tình hình địa thế
trên đất liền. Có dịp la cà quanh xóm, để công an, đám quân võ
trang, cùng dân làng quen mặt vẫn có lợi hơn sau này.
Tối nay chạy về , nhằm lúc chạy ngược giòng nước, ít nhất cũng phải
sáu tiếng đồng hồ mới về tới bến. Vũ coi máy, anh Hai với Vinh thay
nhau cầm lái. Ba anh em sẽ phải thức đêm để chạy tàu về. Quán không
đông người, hai đứa cứ thong thả ngồi nhâm nhi cà phê, để yên cho
anh Hai nằm nghỉ ngơi trước. Cũng như anh Hai, Vũ rất khéo ăn nói,
lại từng trải về làm ăn buôn bán, nên Vũ đối đáp và bắt chuyện với
mọi người chung quanh rất dễ dàng. Tuyệt nhất là những bài vọng cổ
của anh Hai. Có anh Hai ngồi ăn nhậu chung, thế nào cũng có người
yêu cầu anh làm vài bản vọng cổ; không mồi ngon người ta cũng thấy
buổi nhậu hứng thú, thật đậm đà. Nhờ có anh Hai và Vũ, mấy anh em
hoà nhập vào đoàn tàu và dân cư xung quanh dễ dàng hơn.
Chuyến chạy về này, không có bao nhiêu thùng hàng. Tất cả các thùng
hải sản đã được ướp nước đá giữ cho tươi và cất trong phòng nước đá
từ mấy hôm trước rồi. Bây giờ, công nhân chỉ mở nấp thùng ra, kiểm
lại từng thùng và đổ thêm nước đá xây vào để tôm cá có đủ độ lạnh.
Chừng một tiếng đồng hồ, các thùng hải sản được chuyển xuống chất
gọn trong khoang tàu.
Vũ cho máy chạy.
Mấy ngày nay, mới được nghe lại tiếng máy tàu mình. Tiếng máy tàu
nhắc nhở và cho Vinh niềm hy vọng, còn có một ngày tàu sẽ đưa mình
ra khơi. Từ đây, chỉ cần may mắn phóng tàu ra ngoài biển, chạy hết
tốc độ chừng ba mươi phút là coi như thoát được gông cùm cộng sản.
Khởi từ điểm này, thoát đi không khó lắm. Cái khó là làm sao rước
đón được gia đình thân hữu lên tàu, lọt qua tai mắt của công an cùng
các tàu tuần và trạm kiểm soát biên phòng, trước khi ra đến trạm thu
mua này. Đứng ngoài mũi chờ tháo dây, Vinh nhìn đại dương rộng mở
đợi chờ, lòng bồi hồi ước mơ. Đến đây bao nhiêu lần rồi, nhưng tàu
lại lấy hàng rồi lại phải quay trở về.
- Tụi tui đi nghen!
Tiếng anh Hai gọi lớn từ giã người trên trạm, nhắc Vinh trở về thực
tại.Chú trưởng toán công nhân, sốt sắng bước xuống cầu tháo dùm dây,
hẹn với anh Hai:
- Ừ!... dìa đi, ít bửa rồi mấy anh em ra đây nhậu tiếp!
Chờ Vinh đón chụp khoanh dây xong, chú Sáu xô mũi tàu ra ngoài, cười
thân mật:
- Rồi, chạy đi!
Vinh cám ơn chú, chống sào đẩy mũi tàu cho xoay thêm ra ngoài. Anh
Hai kéo cần lái qua phải và tăng thêm tốc độ, đem mũi tàu quay ra
khỏi bờ, rồi chạy vòng vào lòng sông dẫn về thành phố.
Tàu rời bến, người trên trạm cũng tản mác, về nghỉ ngơi. Đèn trên
trạm tắt bớt, chỉ còn vài bóng ánh vàng mờ mờ trong vài gian nhà
công nhân. Đêm tối, trời mưa, tàu thuyền vắng, Vinh tiếc rẻ ngoái
lại nhìn biển cả đang xa mờ dần phía sau. Kéo đầu cây sào trong nước
thêm một lúc, để rửa cho sạnh bớt bùn sình của đáy sông đã bám vào.
Vinh gát cây sào tre nằm tựa vào trong lòng khoang, rồi đi lên mui
ngồi vấn thuốc hút, chuyện trò với anh Hai và Vũ.
Tàu chở ít, nhẹ, nhưng gặp lúc giòng nước trong sông đang đổ ra
biển, phải chạy nước ngược về nên không chạy nhanh được. Ngoại trừ
tiếng máy dầu cặn và đèn từ tàu, sông nước tối vắng. Chạy suốt hơn
một giờ, không thấy bóng dáng chiếc tàu nào. Thời gian này, không ai
đi đánh cá về, và cũng không thấy tàu ra biển. Tàu ra biển thì chỉ
có tàu công an đi tuần hay tàu vượt biên mà thôi. Còn tàu của dân
chúng trở về lúc này thì chỉ có đi vượt biên chạy lạc hướng hay bị
biển động phải quay vào.
Anh Hai gọi Vinh:
- Hồi chiều ăn sớm quá, chắc ai cũng sót ruột, để anh xuống nấu
miếng cháo anh em mình ăn thêm.
Anh Hai siêng và chịu nấu ăn lắm. Anh làm thức ăn ngon, chế biến đồ
nhậu rất tài tình, nhất là món canh chua của anh thật là hấp dẫn,
đưa cay rất tuyệt.
Vào trong sông có phần bớt gió, nhưng mưa cũng còn khá nặng hạt.
Về khuya, đoạn sông thưa vắng nhà dân, lâu lắm mới thấy ánh đèn trên
bờ. Ít nhà, ít có lưới đáy giăng. Đã quen thuộc lòng sộng này, thỉnh
thoảng Vinh mới mở đèn pha xem chừng sông nước và cột đáy. Cần dưởng
máy để chờ thời cơ, Vinh cho tàu thong thả chạy về bến nhà.
Đêm vắng buồn mênh mang, nhớ gia đình, nhìn tương lai Vinh thấy sao
vẫn mờ mịt như bầu trời đêm nay!
Tâm trí đang lơ mơ trong đêm vắng mênh mông, bổng Vinh nghe như có
tiếng súng. Loạt đạn ngắn, nghe xa phía trước.
Vinh gọi xuống bên dưới mui:
- Ê Vũ , mày có nghe gì không?
Vũ ngó bạn mình có vẻ ngạc nhiên. Vinh phân bày tiếp:
- Hình như có tiếng súng bắn... đâu đằng trước tàu mình!
- Anh chỉ nghe máy chạy đùng đùng!
Anh Hai nhìn lên, nói với Vinh rồi quay lại với nồi cháo của mình.
Vũ tin bạn lo lắng, vội đứng nhóng người qua khung cửa trổ lên mui,
nhìn ra phía trước nghe ngóng rồi lắc đầu bảo Vinh:
- Ở dưới máy chạy ầm ầm, tao với anh Hai có nghe gì đâu!
- Ừ, tiếng súng còn ở xa, chắc trên này mới nghe được.
Hai đứa lặng yên lặng, lắng nghe một lúc cũng không nghe thêm tiếng
súng nào cả. Vinh nghỉ, cũng có thể mình nghĩ ngợi lắm chuyện nên
trí óc lầm lạc.
Vũ vấn và đốt cho Vinh điều thuốc. Đứng hút thuốc, nhìn mưa đêm, mỗi
đứa đều có lắm ưu tư, chẳng ai còn muốn nói với nhau tiếng nào. Đêm
khuya, có tiếng súng gần khu trạm công an biên phòng, thường vì có
tàu của vượt biên bị đuổi bắt. Lại phải chứng kiến cảnh bà con mình
bị hành hạ hay xác dân lành trôi dạt trên sông nước. Trách nhiệm và
an toàn cho thuyền nhân trên tàu trong ngày vượt biển, lắm điều nằm
ngoài khả năng của ba anh em trên tàu. Tính toán thành hay bại, sống
hay chết bị tuỳ thuộc vào Ơn Trên, số mạng may rủi.
Vinh mở thêm đèn trên mui tàu, và dùng đèn pha thường hơn để đám tàu
biên phòng thấy, hy vọng chúng nó có rình rập đâu đó, không nghi ngờ
bắn vào tàu mình...
Anh Hai, cầm tách nước trà lên mui ngồi với Vũ và Vinh:
- Cháo chín, anh ăn xong rồi. Để anh coi lái cho, hai đứa xuống ăn
đi.
Giao cần lái cho anh Hai, hai thằng em cám ơn anh và cùng tuột xuống
bên dưới mui kiếm cháo ăn.
Mặc dù không còn gạo thơm ngon như thời trước khi bọn cộng sản cướp
nước, cháo của anh Hai nấu vẫn hấp dẫn lắm. Anh tỉ mỉ từ việc canh
lửa, canh nước, quậy cháo… Hạt gạo bong nhừ, tự mỗi muổng cháo trắng
cũng đã ngon, thêm chút vị mặn béo của trứng vịt muối thì ngon tuyệt
vời.
Trong trại tù cộng sản, cơm là gạo mốc và sâu quệnh thành từng cục
to muốn bằng nắm tay, lại trộn các thứ khoai hư khoai sùng. Vậy mà,
hôm nào được bạn tù chia cho miếng nước cơm gạo sâu cùng khoai sùng,
ai cũng thấy ngon béo lắm. Nhâm nhi uống chầm chậm chất nước ấy cho
lâu hết. Quý vô cùng!
Tối nay, có gạo để nấu cháo, mấy anh em may mắn lắm rồi!
Dân nghèo bây giờ chỉ còn biết trông mơ có được bát cơm, nấu bằng
hạt gạo như ngày xưa.
Thế đấy, cái đảng cộng sản chết tiệt lại gọi là "giãi phóng"!
Ăn uống xong, Vũ với Vinh leo lên mui ngồi hút thuốc nói chuyện với
anh Hai, cho có anh em.
Tiếng súng lúc nảy, như còn văng vẳng trong đầu, câu chuyện của ba
anh em có vẻ lừng khừng, rời rạc.
Nhưng rồi, ngồi hút điếu thuốc chưa xong, bổng có loạt đạn, bắn đến
hướng mình. Chưa kịp nhận định được chuyện gì xảy ra thì thêm mấy
loạt đạn ngắn bay tới tấp, nghe chát chúa trên đầu.
Rồi... "Phựt!"
Đèn pha sáng rực rọi thẳng vào tàu.
- Dừng lại!
- Công an biên phòng đây!
Rầm!
Cùng lúc với tiếng loa gọi, bóng dáng chiếc tàu đánh cá cao lớn,
dựng mũi rẽ nước, phóng ào ào tới, rồi quặt lái sàng ngang nhập vào
hong tàu Vinh.
Rào!
Sức ép của chiếc tàu công an đè dẹp mấy cái vỏ bánh xe treo bên
hong, đùa chiếc tàu chở hàng thấp nhỏ chao đảo, chênh vênh như muốn
lật nghiêng.
Anh Hai vội vã hạ thấp tốc độ. Vũ thả nhanh người xuống dưới mui,
gài trả về số lui, để thắng tàu lại.
Nhờ chạy ngược nước, tàu dừng lại thật nhanh.
Phập!
Cây móc từ tàu công an cấm lên mũi tàu, kéo ghịt tàu chở hàng vào.
Vinh vội chạy ra mũi, thả vòng vỏ xe xuống, để chêm thêm giữa mũi
tàu đang bị sóng nhồi, va đập mạnh vào thân gỗ cứng cáp của loại tàu
đánh cá của công an.
Đón cuộn dây thằng công an thẩy qua, Vinh nhanh tay quấn ghịt vào
tàu mình, cho hai tàu kè sát nhau để bớt va chạm.
- Đ.M. tàu vận chuyển của thằng Hai hả?
Anh Hai lớn tuổi, thủ vai chủ tàu.
Ba Thơ, trưởng phòng vận chuyển, thường hách dịch gọi tàu của mấy
anh em là "tàu của thằng Hai".
Hắn đứng ngay ngoài mũi tàu, lên tiếng hỏi và nhảy sang trước.
Một tên công an ôm AK phóng nối theo ngay.
Nhiệm vụ của Ba Thơ chỉ lòng vòng trên văn phòng xuống bến tàu,
nhưng hắn khoái đeo súng đi theo công an bắt ghe tàu vượt biên lắm.
Đối với hắn, lợi nhiều thứ lắm. Vừa tạo thành tích nhiệt tình, lập
công dâng đảng, vừa có phần chia chát trong số tiền vàng cướp được
từ thuyền nhân.
Nghe tiếng Ba Thơ, Vinh yên tâm đôi chút.
Hắn nạt hỏi hung hãn cho ra vẻ có uy quyền mắng la dân chúng, chớ
hắn đã quá quen thuộc hình dạng từng chiếc tàu chở hàng cho công ty.
Nghe hắn lớn tiếng hỏi thế, tức là hắn đã biết tàu và mấy anh em
trên tàu, thì chắc là cái đám công an sẽ không xét hạch giấy tờ tuỳ
thân cá nhân của mọi người. Dùng giấy tờ của em trai, Vinh phải cố
né tránh bị hỏi giấy tờ.
Nhìn đống thùng hải sản nằm trong mấy tấm nhựa che mưa gió, Ba Thơ
nghi ngờ, hất hất khẩu K54 trên tay ra lệnh cho Vinh:
- Chở bao nhiêu đứa vượt biên hả?... dở tấm bạt lên cho tao coi!
Nghe Ba Thơ la hét đòi xét tàu, thêm hai tên công an xách súng phóng
sang, rầm rập chạy lại đứng bên Ba Thờ chờ kiếm ăn.
Đứng gần mấy thằng công an mặt vênh váo, máu hận trong Vinh sôi sục.
Nhìn cái lối tay Ba Thơ cầm cây K54 lúc lắc, miệng chỉ lo láp váp,
Vinh ngứa tay lắm, muốn đánh giật lấy cây súng của Ba Thơ. Kề súng
vô đầu Ba Thơ là ba thằng nhóc công an trên tàu đứng ngớ ngáo đó
phải quăng hết súng đạn xuống sàn tàu ngay tức khắc. Cái đám bên tàu
biên phòng mà dám bắn sang, thì ít nhất bốn thằng đồng chí đồng rận
với chúng nó phải chết trước!
Vinh ráng nhịn nhục, nhảy xuống khoang tàu, kéo các tấm bạt cho bày
các thùng hàng ra, để Ba Thơ và đám công an muốn kiếm ai thì kiếm.
Bốn tên phách lối lăng xăng xúm xít. Đứa lật ván lót trên khoang
tàu, đứa rọi đèn tìm kiếm dưới hầm máy.
Không thấy ai là người vượt biên trốn trên tàu, Ba Thơ xoay qua dồn
dập nạt nộ, hạch hỏi tiếp:
- Đ.M.!... tụi mày mấy hôm nay chạy tới đâu rồi?.... biển động quá
mà!... mới quay lại phải hong?... Đ.M!... giấy chở hàng đâu?
Lợi dụng cơ hội để tránh đứng gần mấy thằng công an, Vinh quay người
bước đi nhanh lên mui:
- Để tui lên giữ cần lái cho anh Hai xuống lấy giấy tờ...
Anh Hai nghe và hiểu ý Vinh lên tiếng ngay:
- Vinh lên giữ cần lái cho anh xuống lấy sổ vận chuyển trình chú Ba!
Đưa sổ sách gia hàng cho Ba Thơ xem. Nhìn tên công an soi đèn cho Ba
Thơ đọc, anh Hai nhẫn nhục cười hề hà thăm hỏi:
- Có chuyện chi vậy chú Ba!... tụi tui nằm húp cháo ngoài ngoải mấy
bửa nay, trạm mới cho xuống hàng để chạy dìa đây mà chú?
Ba Thơ lầm lì không trả lời, lật qua lật lại, đọc tới đọc lui mấy sổ
vận chuyển, ký nhận số lượng và ngày giờ đi đến bến.
Cũng may, nồi cháo nấu và ăn với hột vịt muối còn đó. Ba Thơ đang
quạu quọ vụ lùng kiếm tàu vượt biên giờ lại bắt được chứng cớ lấy
tôm trong thùng của công ty nấu ăn thì thật là khổ với hắn đêm nay!
Không tìm được chứng cớ sai sót, đưa trả sổ sách lại cho anh Hai, Ba
Thơ hằn học ra lịnh:
- Tụi bây!... Chở tao với mấy đồng chí đây đi kiếm tàu vượt biên!…
Đ.M.!... mới thấy đó, nó lủi trốn đâu mất. Tao tìm thấy, tao nẹt bể
đầu hết!
Anh Hai tìm cách kèo này:
- Chú Ba biết mà, cái máy tàu tụi tui nó rề rề lắm, mần sao mà chạy
đuổi với bắt được ai chú Ba ơi!
- Đ.M. cần gì chạy cho lẹ mậy!... Có tàu tụi bây dí chận nó, tao kêu
tụi biên phòng tới bắn chết mẹ nó hết.
Cho dù máy có đủ mạnh, lòng dạ đâu mà giúp sức cho bọn cộng sản, anh
Hai nhanh trí kiếm cách gỡ rối:
- Trình chú Ba, mấy chục thùng tôm này bị nằm kho cả ba bốn ngày nay
rồi đó chú Ba. Ngoài trạm sợ hư mới kêu tụi tui chở dìa công ty ngay
trong đêm nay. Bây giờ chú bắt tàu chạy lòng vòng, chậm lục quá đỗi
bị tan hết nước đá, tui sợ tôm nó thúi hết đó chú Ba à.
Hải sản và vận chuyển là trách nhiệm chính của Ba Thơ, chớ không
phải đi lùng bắt vượt biên. Ba Thơ sợ tôm hư bị công ty khiển trách,
nhưng còn ráng nạt bừa:
- Lải nhải cái con mẹ gì!... tụi bây muốn chạy dìa thì tao cho chạy
đó... Đ.M.! tao đi với biên phòng!
Khoát tay bảo ba tên công an còn đang đứng tần ngần chờ lịnh:
- Đi! Đi về tàu với tao!
Ba anh em nghe reo vui, thật nhẹ nhõm trên người. Còn xót đau nào
hơn, khi phải chở cái loài dã thú này đi lùng bắt đồng bào mình.
Anh Hai đi theo sau Ba Thơ và cái đám công an ra ngoài mũi, chờ tụi
nó lên hết để tháo dây ngoài mũi.
Ba Thơ leo về tàu xong, hắn quay lại tay lăm le cây K54, hất mặt gằn
giọng hù doạ anh Hai:
- Tụi bây! khôn hồn à nghen!... có thấy tàu tụi nó trốn đâu, về báo
văn phòng, thì được nhà nước thuởng công cho, còn mà ngu khờ đồng
loã với tụi vượt biên, tao bắn nát đầu hết!
Thẩy cuộn dây lên trả lại cho thằng công an, anh Hai chống tay vào
thành chiếc tàu biên phòng xô cho tàu mình dạt ra, miệng nói vuốt
theo cho êm xuôi:
- Dà... có gì là tụi tui báo cho chú Ba hay ngay mà!
Ba Thơ làm như không thèm nghe anh Hai nói, hách dịch quay lưng nạt
vọng lên phòng lái:
- Chạy đi! Đ.M.! Chờ cái gì nửa!
Chiếc tàu công an biên phòng hụ máy tách ra xong, thì quay đầu rồi
rú máy phóng vọt ào ào ra hướng cửa biển. Phút chốc đã mất bóng
dáng, rồi thấy loáng thoáng ánh đèn pha lùng kiếm xa phía sau.
Chiếc tàu ấy là tàu đánh cá của đồng bào mình, máy và tàu còn mới để
vượt đại đương, không may bị chúng nó bắt. Tụi biên phòng lấy chiếc
tàu đánh cá ấy làm tàu đi tuần, đi bắt tàu vượt biên. Thấy cách nó
chạy là biết máy của nó lớn mạnh lắm, chớ không loàng xoàng như cái
John Deer già nua trên tàu. Không quen biết với tình hình địa
phương, bà con mình dễ lầm tàu công an biên phòng chỉ là tàu đánh cá
của ngư dân. Chừng biết được chính nó là tàu của công an là đã quá
muộn màng. Tụi nó thâm độc lắm!
- Mình dọt được rồi!
Vũ nói với Vinh và gài số cho tàu chạy tới.
Bị tàu biên phòng kè nãy giờ, hai chiếc thả trôi nằm xoay ngang.
Nước ngược, đẩy tàu của ba anh em lùi một đoạn khá xa ngược ra hường
cửa biển. Sẵn đứng trên mui giữ tay lái, Vinh lấy lại hướng và cho
tàu chạy về bến công ty.
Anh Hai cuộn vòng giây để trên nấp hầm xong, đi lên mui và đến ngồi
cùng băng ghế với Vinh. Vũ vẫn đứng chồm người qua khung cửa trổ lên
mui, khoanh tay gát trên nấp mui. Ba anh em ngó mông lung trong màn
đêm, thẫn thờ cầu nguyện cho đồng bào mình gặp được nhiều may mắn,
trốn thoát khỏi móng vuốt loài quỷ đỏ cộng sản đang lùng kiếm.
Tự Do ơi Tự Do!
Ngày nào còn cộng sản, quê huơng mình còn lắm ly tan, lắm đoạ đày!
Tháng Tư, 2011
BK Tính 323
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện tình trái
ngang
Khối diễn hành
Bãi tập
Lễ mãn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
Tình Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
Vì hai chữ Tự Do
Nghìn trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào lòng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển bão tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vuì quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giã từ
vũ khí
Mối tình đầu
Tình lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện tình
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc tình
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người còn
nhớ hay người đã quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
BÌNH-TUY,
những ngày cuối cùng...
Tình Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và hòa bình
Tây
Ninh, chút còn lại trong lòng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi dòng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Trìu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Bão Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một dòng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện tình của một
Phi Công
Hai vì sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người tình
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái Bình Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Ðội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện tình
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
Tìm
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Gãy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ Hình Của Chính Mình
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy còn
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Dòng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa qua những tình khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn còn đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hãy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương tình
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những giòng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư tình của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nhìn được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư tình
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời còn dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba dòng nước mắt
Những xác chết trên mãnh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính gãy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện tình khoai lang
Tâm tình
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm tình
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xã đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi tìm Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất tình
Dấu "Hỏi Ngã"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ý yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
Tình... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ tình
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi dòng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi tìm tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hãy giúp tôi
Con còn nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ tình
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà nòi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái tình
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ còn một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một mình
Hãy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Hòa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc tình
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nhìn những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời còn vui vì có
chút tòm tem
Đôi mắt Phượng
Ngưòi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
Tình già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân tình
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài vòng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
Tình người
Hồi ký của một người Hà
Nội
Tình nghĩa, nghĩa tình
Đôi đũa
Giòng đời... và hồi âm
giòng đời...
Không cho phép mình
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
Tình ngây dại