LÊ THƯƠNG
Dân Việt Nam ta vốn có hồn thơ lai láng nên ngoài những mẩu chuyện
châm biếm đả phá chế độ cộng sản, họ c̣n sáng tác rất nhiều vần thơ
và ca dao nói lên những hoàn cảnh sinh hoạt bi ai cũng như tâm tư
uất hận của người dân dưới chế độ bạo tàn. Dĩ nhiên những vần thơ
“quốc cấm” này đều khuyết danh, chỉ được lén lút học thuộc ḷng rồi
th́ thầm rỉ tai cho nhau nghe nên được gọi là “thơ chui”. Những vần
thơ chui đôi khi dí dỏm khiến người nghe phải tủm tỉm cười thầm hay
ôm bụng cười sằng sặc hoặc đôi khi năo nùng thống thiết bày tỏ tinh
thần chống đối chủ nghĩa cộng sản đem lại đói khát, khổ đau, nhục
nhă cho người dân sau ngày chúng cưỡng chiếm Miền Nam.
Vào ngày 30-4-1975, khi mà những đôi dép râu giẵm nát hè phố Sài G̣n th́ mây sầu cũng phủ đầy trời, khí oan kín đất. Cái chiến thắng của những kẻ đào đường, phá cầu, giật ḿn xe đ̣, đốt trường học, pháo kích nhà dân cũng là đám mây đen bắt đầu vần vũ báo hiệu một cơn giông tố hăi hùng sắp sửa xảy ra cho quê hương và dân tộc. Cho nên khi thấy những cái nón cối xuất hiện th́ đồng bào đổ xô nhau chạy, chạy toát mồ hôi trước những kẻ tự xưng là “giải phóng”. Nh́n cảnh tượng đó, một bác sĩ, cũng là một nhà thơ c̣n kẹt lại ở Việt Nam đă làm một bài thơ có tựa đề:
CHẠY! CHẠY!
Tự do, độc lập nhất trên đời,
Thiên hạ sao mà chạy chết thôi!
Mới thấy bóng cờ sờn tóc gáy,
Vừa nh́n ảnh bác toát mồ hôi.
Tổ c̣, tổ quốc tung hê cả,
Nhân bánh nhân t́nh vứt bỏ rơi.
Ông Táo quên quần la cuống quưt:
“Mau lên kẻo nó tới kia rồi”.
Và vừa chạy, đồng bào vừa bảo nhau:
Đôi dép râu giẵm nát đời son trẻ,
Mũ tai bèo che khuất nẻo tương lai.
Công lư và tự do là hai danh từ mang nhiều ư nghĩa cao đẹp mà người
dân của bất cứ quốc gia nào cũng đều ấp ủ, thậm chí có rất nhiều
người c̣n hy sinh xương máu ḿnh để bảo vệ công lư và tự do. Nhưng
những người cộng sản vốn độc tài, ghét công lư, thù tự do nên khi
vừa cưỡng chiếm Miền Nam họ liền cho thay đổi hai con đường Công Lư,
Tự Do ở Sài G̣n lại thành đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Đồng Khởi. Thấy
vậy người dân mới mỉa mai rằng:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công
Lư,
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do.
Lúc mới chiếm được Miền Nam, Việt Cộng áp dụng nhiều biện pháp khắc khe để kềm kẹp đồng bào như kiểm soát từ miếng ăn, từ lời nói, tư tưởng, sự đi lại. Người dân muốn di chuyển từ địa phương này đến địa phương khác phải xin phép với nhiều thủ tục giấy tờ phức tạp, khó khăn. Di chuyển không giấy phép sẽ bị bắt giữ hay không có danh sách trong “hộ khẩu”. Người dân không c̣n được tự do đi lại dễ dàng như trước kia khiến họ oán ghét chế độ, từ đó trong ḷng nhân dân phát sinh ra một bài thơ chui “ĐI RA . . . ĐI VÀO” khá dí dỏm, mở đầu bằng câu Kiều của Nguyễn Du:
Trăm năm trong cơi người
ta,
Ai ai cũng được đi ra, đi vào.
Chậm tiến như ở nước Lào,
Người dân vẫn được đi vào, đi ra.
Tiên tiến như ở nước Nga,
Người ta cũng được đi ra, đi vào.
Xa xôi như nước Bồ-Đào,
Đồng bào vẫn được đi vào, đi ra.
Mọi rợ như Angola,
Người ta cũng được đi ra, đi vào.
Độc tài như xứ bác Mao,
Nhân dân vẫn được đi vào, đi ra.
Chỉ riêng có tại nước ta,
Người dân cóc được đi ra, đi vào.
Chiếm được Miền Nam, cộng sản dùng mọi thủ đoạn gian manh như đổi tiền, đánh tư sản mại bản, tịch thu tài sản, sưu cao thuế nặng để bóc lột nhân dân cho đến trần trụi. Quá bần cùng, không cơm ăn áo mặc người dân phải đi ăn xin, ăn mày. Trong thời điểm này, ăn mày xuất hiện khắp đường phố và dân gian đă nhại bốn câu Chinh Phụ Ngâm để nói lên thảm cảnh ăn mày của người dân dưới sự cai trị tàn bạo của ngụy quyền tự nhận là “Đỉnh cao trí tuệ của loài người”:
Con cháu Lạc Hồng chung
giống cả,
Không què đui sao rủ rê nhau.
Đảng ta bị gậy trao tay,
Nửa đêm truyền hịch đợi ngày . . . ăn xin!
Sau ngày 30-4-1975, Miền Nam như sụp xuống địa ngục, tập đoàn cộng sản đă vẽ nên bức tranh đen tối cho quê hương. Trước kia, dưới chế độ Việt Nam Cộng Ḥa người dân được sống sung túc về vật chất, thoải mái về tinh thần. Sự giàu sang, sung túc của Miền Nam bị những người cộng sản Bắc Việt gọi là “sự phồn vinh giả tạo” và sau khi “giải phóng” Miền Nam họ đă biến sự phồn vinh giả tạo này thành địa ngục của đói rách, khổ đau, nhục nhă, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc, cả nước phải ăn cơm độn với khoai hay phải ăn bo bo. Các cựu sĩ quan với bằng tú tài, cử nhân, kỹ sư, giáo sư phải chạy xe ôm, đạp xích lô, bán chợ trời . . . Nh́n những người có học, trí thức đó phải bưng những cái mẹt đi bán từng trái chanh, trái ớt, từng bó rau muống, từng tấm vé số, từng điếu thuốc lá hay sửa xe ở góc đường thấy mà chảy nước mắt cho một cuộc đổi đời. Trước cảnh quê hương bầm dập tả tơi, đồng bào lầm than khốn khổ, người dân đă nhại bài ca dao “Mười Thương” để nói lên thảm trạng của đất nước sau ngày được gọi là “giải phóng”:
Một thương phá hại xóm
làng,
Hai thương bác bảo gian nan trường kỳ.
Ba thương cơm độn củ ḿ,
Bốn thương hội họp bất kỳ ngày đêm.
Năm thương chân cứng đá mềm,
Bắt đi đánh trận đông Miên, hạ Lào.
Sáu thương sản lượng b́nh cao,
Để cho mức thuế ngày nào cũng tăng.
Bảy thương sản xuất siêng năng,
Thuế rồi nhịn đói nhăn răng cả nhà.
Tám thương được hát quốc ca,
Của hai nước bạn là Nga với Tàu.
Chín thương nô lệ cúi đầu,
Chùi giày Trung Cộng, quạt hầu Nga Sô.
Mười thương có một bác Hồ,
Làm cho điêu đứng cơ đồ Việt Nam!
Cộng sản đưa ra khẩu hiệu “Lao động là vinh quang” nhưng thực chất của chính sách thi đua lao động là phương cách bóc lột mồ hôi, máu lệ của người dân để đời sống của cán bộ và lănh đạo giàu sang, “ngồi mát ăn bát vàng”. Đây, xin hăy nghe người dân nghèo khổ, lầm than gióng lên những tiếng chuông ngân dài, ai oán:
Thi đua làm một thành hai,
Để thằng cán bộ mua đài, mua xe.
Thi đua làm một thành ba,
Để thằng cán bộ xây nhà, lót sân.
Thi đua làm một thành tư,
Để thằng cán bộ tiền dư, bạc thừa.
Thi đua làm một thành năm,
Để thằng cán bộ vừa nằm, vừa ăn.
Hay:
Công nhân giai cấp tiền phong,
Ăn đói vác nặng, lưng c̣ng mắt hoa.
Một người làm việc bằng ba,
Để cho lănh đạo xây nhà, xây lăng.
Mọi người thi đua thật hăng,
Để cho lănh đạo ăn nằm thảnh thơi.
Công nhân vợ ốm, con côi,
Lănh đạo nhà đẹp, xe hơi bề bề.
Bao giờ cho hết tṛ hề?
Ngoài sự bóc lột người dân, chế độ cộng sản c̣n sinh ra tệ nạn tham nhũng. Tham nhũng ở khắp mọi nơi trong guồng máy nhà nước. Cán bộ tham nhũng đă trở thành những“tư bản đỏ” với tiền rừng, bạc biển. Theo tin tức cho biết hiện thời có rất nhiều cán bộ cao cấp và lănh đạo cộng sản là những triệu phú hay tỷ phú Đô-la (USD). Ai cũng biết hầu hết cán bộ cao cấp và lănh đạo cộng sản đều thuộc thành phần vô sản v́ thế người dân mới hỏi nhau rằng nếu chúng không tham nhũng, không mánh mung, không ăn cắp công quỹ, không ăn cướp của dân, không bán rẻ tài nguyên quốc gia th́ thử hỏi tiền đâu để chúng trở thành triệu phú hay tỷ phú Đô-la? Xin hăy nghe những lời ta thán của người dân:
Hỡi phường cán bộ gian
tham,
Sao chẳng chịu làm chỉ chực ăn không?
Hoặc:
Chủ tịch nằm ngủ trong lăng,
Trung ương nghỉ mát lăng xăng nước ngoài.
Phu nhân buôn lậu dài dài,
Cô chiêu, cậu ấm nước ngoài yên thân.
Chung quy chỉ chết thằng dân!
Quá khổ dưới sự cai trị bạo tàn khiến người dân uất hận đem các lănh tụ cộng sản ra oán trách và châm biếm. Người bị oán trách trước tiên là Hồ Chí Minh:
Trách ai sinh thứ họ Hồ,
Để cho đất nước như đồ vất đi.
Ngoài sự oán trách, người dân c̣n đem ông Hồ ra mà châm biếm:
Mỗi năm một mét vải sô,
Làm sao che được cụ Hồ em ơi!
Hay:
Di ảnh bác Hồ lộng kiếng treo,
Nghĩa là liệng cống, cạnh chuồng heo.
Vất mi xuống đó, loài muông cẩu,
Đừng để chúng ông giận đá bèo.
Và khi nhà nước cộng sản vừa mới dựng xong tượng Hồ Chí Minh ở Bến Ninh Kiều thuộc tỉnh Cần Thơ th́ người dân cũng có liền hai câu thơ bằng thứ văn chương đối kháng mà khi đọc lên hồn ma ông Hồ cũng phải nhức nhối:
Chiều chiều trên Bến Ninh
Kiều,
Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân.
Chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa hoang tưởng nên khi áp dụng nó sẽ đem lại những hậu quả tai hại thế mà Hồ Chí Minh đă du nhập chủ nghĩa này tṛng lên đầu lên cổ nhân dân với lời hứa đưa đất nước lên “thiên đàng cộng sản”. Thiên đàng đâu không thấy mà chỉ thấy đất nước bị tụt hậu, dân t́nh lầm than, khốn khổ cho nên, ngoài sự oán trách ông Hồ, dân Việt Nam ta c̣n oán trách cả Karl Marx, cha đẻ của chủ nghĩa hoang tưởng này:
Cụ Mác ơi! Cụ là đồ chó đẻ,
Thiên đàng cụ hứa như thế kia a?
Sau ông Hồ, các lănh tụ của tập đoàn cộng sản bị nhân dân nguyền
rủa, châm biếm nhiều
nhất là Tổng bí thư Lê Duẫn, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh Đặng
Xuân Khu, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tướng Vơ Nguyên Giáp:
Ai sinh tên Duẫn tên Duân,
Em đă không quần, cái áo cũng không.
Ai sinh tên Sắt tên Đồng,
Em đă mất chồng, mất cả thằng Cu.
Ai sinh tên Khủ tên Khu,
Tố cha giết mẹ, bỏ tù toàn dân.
Hay:
Thằng Đồng, thằng Duẫn, thằng Chinh,
Tụi mày có biết dân t́nh cho không?
Rau muống nửa bó một đồng,
Con ăn bố nhịn, đau ḷng thằng dân!
Hoặc:
Ông Đồng, ông Duẫn, ông Chinh,
V́ ba ông ấy dân ḿnh lầm than.
Và:
Trường Chinh, Lê Duẫn, Văn Đồng,
Cả ba đồng ḷng phá hại nước ta.
Khi Lê Duẫn sang Tàu, sang Nga xin viện trợ súng đạn để đem về pháo kích vào nhà dân, giết hại dân lành th́ đồng bào nhại theo bài ca dao “Con Mèo Trèo Lên Cây Cau” để lên án tập đoàn CSBV:
Con mèo trèo lên cây cau,
Hỏi thăm chú Duẫn đi đâu vắng nhà?
Chú Duẫn sang Tàu, sang Nga,
Xin súng, xin đạn cúng ma bác Hồ.
Bản chất của cộng sản là gian ác, vô luân được che giấu dưới mỹ từ “Đạo đức cách mạng vô sản”. Đảng viên càng nhiều tuổi đảng bao nhiêu, giữ chức vụ đảng càng cao bao nhiêu th́ mức độ vô luân càng tinh vi bấy nhiêu. Xin hăy nghe người dân chế giễu cái “Đạo đức cách mạng” của các lănh đạo cộng sản:
Phủ Chủ tịch có con dê,
Làm bao cán bộ vỗ về mệt công.
Dê Duẫn lẩn tránh đám đông,
Tối ngày t́m húc cái lồng không “rê”. (Cái LỒNG không G).
Và khi mà Vơ Nguyên Giáp bị phe Lê Duẫn, Lê Đức Thọ làm nhục bằng cách tước hết binh quyền rồi giao cho chức vụ phụ trách “Sinh đẻ có kế hoạch” th́ các chị em phái nữ che miệng cười:
Ngày xưa Vơ Giáp cầm quân,
Ngày nay Vơ Giáp cầm quần chị em.
C̣n những chị em khác có óc hài hước, hóm hỉnh hơn một chút th́ khúc khích rỉ tai nhau mà rằng:
Ngày xưa Vơ Giáp bịt đồn,
Ngày nay Vơ Giáp bịt l.. chị em.
Để kết luận, dưới sự cai trị của cộng sản, đồng bào đói khổ, xă hội suy đồi, truyền thống dân tộc bị chà đạp, tự do con người bị tước đoạt. Và cũng dưới sự cai trị của cộng sản mà Việt Nam ta đă trở thành một trong những quốc gia nghèo đói nhất thế giới, c̣n xă hội Việt Nam ngày nay là một xă hội nhiều tệ đoan nhất hoàn vũ. Tóm lại, Xă Hội Chủ Nghĩa của cộng sản hoàn toàn thất bại, bị phá sản toàn diện, gây ra những vết thương rỉ máu cho Mẹ Việt Nam và những vết thương rỉ máu này chỉ lành được khi quê hương không c̣n bóng dáng của những người cộng sản.
Lê Thương
Richmond, Virginia
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại