Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư tại Na-Uy, một nước Bắc Âu
nổi tiếng với những mùa đông dài băng gía, nhưng lại rất đẹp vào
ngày hè và lăng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong
rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy
ḷng ḿnh trăn trở. Không phải ṭ ṃ v́ những cuộc t́nh cháy bỏng
trong "Rừng Na-Uy", cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông
nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng
khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mănh lực quyến
dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đă làm tôi đau đớn, khốn khổ gần cả
một đời.
Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng
cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là
một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung
Học , cũng đă có vài chàng học tṛ khờ khạo si t́nh, đạp xe theo sau
tôi những buổi học tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng
SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như
là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn
chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp thời c̣n ở
trường Vơ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc
một cuộc t́nh đầu thật dễ thương, không có nhiều lăng mạn, cũng
chẳng có điều ǵ trắc trở. Ông xă tôi là lính Biệt Động Quân. Hậu cứ
đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giầy saut của anh c̣n bám
đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức tại một
nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa ṭa tỉnh, nơi vừa trải qua khói
lửa Mậu Thân.
Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng,
rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên,
không an toàn khi tôi phải sống một ḿnh. Chỉ khi nào tiểu đoàn về
hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.
Măi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu ḷng. Một đứa
con trai bụ bẫm. Có lẽ v́ nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt
tên cho con là Cao Nguyên. Lê Cao Nguyên. Anh về thăm con khi cháu
vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng
mũi cao, đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một "lỗ tai nhỏ"
như ba nó.
Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về với đơn vị, anh bị
thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi
bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe
đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh mỗi ngày trong quân y
viện. Sau khi xuất viện, đôi chân c̣n đi khập khiễng, nên anh được
chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu
cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với Anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất
nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người
giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần pháo kích vào trại gia binh
làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên.
Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không
vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh
trại để ở. Năm sau khi Cao Nguyên vừa tṛn hai tuổi, tôi sinh đứa
con thứ nh́. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt
tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi
lớn lên và yêu nhau.
Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố "đi dăm phút trở về chốn cũ"
ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, c̣n những ngày mưa bùn bám
dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ
lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc
hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong
quân y viện. Với họ th́ đúng là "may mà có anh đời c̣n dễ thương".
Trong số ấy đă có biết bao người trở thành góa phụ!
Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc.
Một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, anh hối hả bảo mẹ con tôi
và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang những
ǵ cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu
cứ.
Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều
đă ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku
như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với ḿnh
nay vội vàng bỏ đi không một tiếng gĩa từ. Đang giữa mùa xuân mà cả
một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống
khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngă ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng
lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ
các binh chủng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi
và bạn bè nói là ngoài lực lượng xung kích mở đường, một số đơn vị
Biệt Động Quân c̣n được chỉ định đi sau, ngăn chặn địch quân tập hậu
để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng
nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái.
Hơn một ngày ṃ mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xă Hậu Bổn vào
lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm th́ bị pháo kích và
súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch
đă bao vây. Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch qúa
đông, mà bên ta th́ vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong
lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất
hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội
vă rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc th́ lại bị địch tấn công
từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và nhiều người chết hoặc bị thương.
Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe
cộ, băng rừng t́m đường về Củng Sơn.
Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh
sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên c̣n chị giúp việc bồng cháu Thùy
Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn c̣n ầm ĩ, những
viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc
đến bờ một con suối nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới
một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt qúa,
tôi ngủ vùi một giấc, thức giấc th́ trời vừa sáng.. Chúng tôi lại
tiếp tục lên đường. Tôi không c̣n đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên
chồng tôi phải dùng cái vơng nylong gùi cháu sau lưng, bên ngoài
được phủ bằng cái áo giáp.
Vừa ra khỏi b́a rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt
kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị
thương, ḿnh đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái,
cha mẹ dắt d́u nhau đi t́m sự sống. H́nh như họ không c̣n mang theo
bất cứ thứ ǵ. Nh́n nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn
bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám
đông này, t́m một lộ tŕnh khác mà đi, để tránh sự phát hiện của
địch.
Vừa rời đoàn người chừng vài phút th́ đạn pháo thi nhau rớt xuống.
Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả
một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi
cũng có một số người đă chết. Đến lúc này th́ mạnh ai nấy t́m đường
sống. Gia đ́nh tôi cùng gia đ́nh vài người bạn nữa chạy vào khu rừng
phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm
chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ c̣n dùng để mong cứu được vợ con
ḿnh. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan ră. Đồng đội kẻ chết
người bị thương. Có thể một số đă bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng
được số mệnh bi thảm của những người lính Biệt Động Quân một thời
oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ,
tức tưởi! Chồng tôi suưt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh
từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: "Đạp lên mà đi!". Trong cả đời binh
nghiệp, chắc những người lính không c̣n nhận được cái lệnh nào đau
đớn hơn thế nữa.
Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một
toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi.. Thầy tṛ
chưa kịp nắm tay mừng rỡ th́ súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở
lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông
vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt.
Chồng tôi quay lại t́m và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi
tiếp.
Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn
người. Tôi h́nh dung cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên
một ngọn đồi thấp. Tôi nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng
lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, v́ đó là sở trường của họ, nhưng
thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi
nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp
anh em pḥng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi.
Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được.
Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào ḷng,
thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này
chẳng ai c̣n ḷng dạ nào để lăng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh tội
nghiệp cho một người con gái đă trót chọn chồng là lính chiến. Và
cũng không ngờ đó là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi.
Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch.
Cũng là lần cuối tôi chứng kiến những người lính Biệt Động can
trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào ḷng địch mà đánh,
tiếng thét "Biệt Động Quân Sát" vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ,
tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh
tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con
nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đă vậy anh c̣n phải d́u theo
một người lính bị thương khác. Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút
ấy. Tôi c̣n lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau
lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ để
che chắn h́nh hài bé nhỏ của con tôi. H́nh ảnh này trước đây tôi
nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đă đọc.
Tiếp tục di chuyển từng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường
ṃn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi
nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im
tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường ṃn, chạy về bên hướng rừng
bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến b́a
rừng, tôi thấy mấy người lính BĐQ nằm chết bên cạnh xác quân thù,
máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch
bao vây, đă tự sát để cùng chết chung với giặc.
Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nửa th́ chúng tôi bị một
đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả
chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan,
binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi
theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẵn sàng nhả đạn
của kẻ thù. Tôi cố ư t́m xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số
người bị bắt. Ḷng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im,
chỉ c̣n tiếng quát tháo và tiếng nói rất khó nghe của đám người
thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi
trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Ḥa).
Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ c̣n lại một điều may mắn: Chị giúp
việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy
Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm,
nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đă trải qua hai ngày đói khát. Nh́n
đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi
và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên
tôi bật khóc.
Cuối cùng th́ tôi cũng lần ṃ về đến Nha Trang, khi thành phố này
cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào ḷng
và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm để mang tin buồn đến nhà
chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về
nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên c̣n đang mất tích. Cả nhà chồng
kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà chăm sóc. Mẹ chồng
tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một
tuần, nhờ mẹ tận t́nh chăm lo, sức khỏe tôi đă gần b́nh phục, tôi
xin được trở lại Phú Bổn t́m chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và
cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối
cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda
chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.
Mặc dù đă chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đă chuẩn
bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hăi những ǵ trước mắt, khi
nh́n thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương
người c̣n vương văi đó đây, bao nhiêu nấm mộ bị lấp vội bên đường.
Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị
Thiên Đường đă giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây
số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ
quan bị bắt làm tù binh, đang c̣n giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến
đó, tŕnh giấy phép đi t́m chồng của Ủy Ban Quân Quản mới được cho
vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi
trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ sĩ quan nào cùng
đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi gặp được anh đại đội phó lúc
chồng tôi c̣n ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ
cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết
chồng tôi bị thương, nhưng cố t́m cách đưa cháu Cao Nguyên đến một
nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm
người thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi c̣n
nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi t́m. Liên tục trong một
tuần, chúng tôi chỉ t́m được mấy bộ xương người, một số mộ vô danh,
nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm
tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.
Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu
đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.
Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn,
t́m đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng
chồng tôi ôm tôi vào ḷng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao
Nguyên. Tôi đă dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân
cây. Lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ
như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc
từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương văi do bom đạn
hôm nào, tạo thành những âm thanh năo nùng, xé ruột.
Tôi đă mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi
định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy
cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người
bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương,
và một đứa em trai của tôi đi cùng với gia đ́nh chồng. Tôi cũng xin
được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đă về quê trên vùng
quê Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối
từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên
biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.
Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ
chồng cháu về lại Việt Nam tŕnh diện ông bà ngoại, và đến địa điểm
cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên c̣n sống, như là một nghĩa cử
để cháu tưởng nhớ đến cha và anh ḿnh. Chúng tôi đến đây vào giữa
mùa xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.
Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đă được tráng nhựa và đổi tên
thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi.
Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương , c̣n có vợ chồng cậu em trai
út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo
Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không
c̣n ǵ dấu vết của chiến tranh. Người ta đă cố t́nh trát phấn tô son
lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc
ḷe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn
"cải biên" thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ
giữa một vùng nghèo nàn mang tên "thị xă". Nh́n dăy núi Hàm Rồng từ
xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, ḷng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đă
bao lần tôi đến thăm chồng, để được ḥa ḿnh vào đơn vị với những
người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đă
vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông
tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban nhạc trổi khúc quân
hành. Tất cả bây giờ đă trở thành huyền thoại.
Sau khi thuê pḥng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi
đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. V́ nghe dân ở đây bảo các
vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn
vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại
là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:
Từ phen chiếc lá ĺa rừng
Thăm t́m luống những liệu chừng nước mây
Rơ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Tôi bán tín bán nghi, v́ nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện
cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần
Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu
thơ lại đúng vào trường hợp của ḿnh, tôi cũng thấy ḷng buồn vô
hạn. Trở về pḥng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của
người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia
cầm với gía rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi.
Khi c̣n sống anh thích ăn gà luộc. Bà c̣n cho biết thêm dân chúng ở
vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar,
Hroi và M'dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xă này
từ 10 tới 20 cây số.
Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đă
nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không
hiểu họ nói ǵ. Chợ phiên nhóm rất sớm.
Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa
trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm v́ đây là lần đầu tiên tôi đến
một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đă vậy vợ chồng cháu Thùy
Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về
nguồn gốc người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre
nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống
lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi
lồng. Người chủ là anh đàn ông người Thượng vừa đen vừa ốm, nói
tiếng Việt chưa sơi...Khi Anh xăn tay áo lên và tḥ tay vào lồng gà,
tôi bỗng giật ḿnh khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo
có h́nh dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai
ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở
Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại
một vết sẹo có h́nh ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ
mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.
Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nh́n vào mặt anh
ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sống mũi cao, nhưng khuôn mặt
cháy nắng, mái tóc mầu nâu sậm như mầu đất đỏ Pleiku. Không có nét
đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi
mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi chợt nhớ ra trên vành tai của Cao
Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba của nó, tôi cúi xuống để nh́n
kỹ vào tai anh người thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ
tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt
trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra và nói một tràng tiếng
Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nh́n tôi, không biết xảy
ra điều ǵ. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng
tôi đôi điều kỳ lạ, tôi báo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng
hoa lan phía trước.
Tôi kéo chị ra xa và nói vào tai chị:
- Chị nh́n kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?
Sau một lúc nh́n không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời
tôi mà th́ thầm một ḿnh:
- Thằng Nguyên? Chả lẽ là thằng cu Nguyên?
Rồi chị nh́n thẳng vào mặt anh ta hỏi:
- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu.
- Tao là thằng Ksor Tlang.
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và và đưa cho anh một nắm tiền. Sau
khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nửa, rồi buột miệng:
- Mày bắt cái con gà nhiều tiền qúa!
Tôi mất hết b́nh tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta,
rồi chạy vào pḥng trọ t́m bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những ǵ
đă xảy ra. Có lẽ bà ta là người có tai mắt ờ đây, nhưng là một người
tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút hai gă công
an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà
chủ. Chưa kịp nói ǵ, bà chủ kéo tay hai gă công an ra chợ. Vừa đi
bà vừa giải thích. Đến nơi, gă công an nói một tràng tiếng Thượng.
Tôi không hiểu ǵ nhưng thấy anh bán gà gân cổ căi lại. Cuối cùng
hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố t́nh chống lại. Chúng
tôi đi theo phía sau trở về pḥng trọ.
Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gă công an giúp tôi, dịch
lại các điều trao đổi giữa tôi và anh bán gà, và cố gắng bằng mọi
cách t́m ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ
hai tờ giấy bạc 100 đô la.
- Em có cha mẹ không? Tên ông bà là ǵ?
- Tôi có cha mẹ. Cha tôi tên Ksor H'lum, mẹ tôi tên H'Nu
- Có anh em không?
- Không.
- Anh có nhớ ngày sinh không?
- Không.
(Gă công an nh́n sang tôi, bảo là sẽ đi t́m khai sinh sau)
- Anh có nhớ lúc c̣n nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
- Không! Th́ chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
- Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết v́ sao mà có cái sẹo này
không?
(Gă công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
- Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.
Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều ǵ, tôi lại hỏi:
- Cha mẹ anh đang ở đâu?
- Buôn Ban Ma Dek.
(Gă công an nh́n tôi, bảo buôn Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
- Anh ở chung với cha mẹ anh?
- Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
- Đă có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.
Tôi đề nghị hai gă công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về
buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gă công an gật
đầu. Nhưng bảo chúng tôi phải thuê xe ôm, v́ về buôn Ban Ma Dek chỉ
có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi giùm
chúng tôi bảy cái xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đă khá ǵa, trước đây chỉ sống lẻ loi trong
núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự
thông dịch của gă công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang
thấy có nhiều người cũng chạy sang nh́n.
Lúc đầu, ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng
thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gă công an gạn hỏi, cuối cùng ông
cha mới kể lại sự thực.
- Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi
phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi
chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lết
vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa
bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.
- Rồi xác của người lính đó ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
- Tôi đă chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới
lên ăn thịt.
Chúng tôi theo sau hai người công an d́u ông ǵa đi về phía khu
rừng.
Tôi khóc ngất khi nh́n thấy ngôi mộ lè tè nằm dưới tàng cây, được
rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng qùy
xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác t́m Ksor Tlang,
thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang
đứng bất động, hai tay đang nắm chặt hai đứa con đang trần truồng,
đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào ḷng, nhưng cả hai đứa trố
mắt nh́n tôi dửng dưng, xa lạ.
Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông ǵa mới cùng vợ chồng và hai đứa con
thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học tṛ
thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú
giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor
Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại,
rồi tôi sẽ t́m cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà ǵa, nếu muốn,
chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp cho ông bà sống gần
Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông ǵa một mực chối từ, bảo là
họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng măi măi là nhà của họ. Họ
không thể nào sống xa rừng cũng như loài cá không thể nào sống mà
không có nước.
Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đă ở lại đây hơn hai tuần
rồi. Ban đầu tôi tính xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi
cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng ở nghĩa trang gia
tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đă đổi ư. Bởi anh phải nằm ở đây, bên
cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả
đă trở thành người Thượng và chắc không biết ǵ về anh. Và chắc có
lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao đồng đội, một thời cùng anh vào
sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang c̣n phảng phất quanh đây. Tôi mướn
thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có h́nh chân dung của anh,
mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi và hai cháu Cao Nguyên và Thùy
Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một
tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.
Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng,
nơi đă cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi
đề nghị đặt cho nó đă vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn
hơn là tôi chẳng làm được điều ǵ cho đứa con trai ruột thịt máu mủ
của ḿnh, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng
nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng răi hơn,
sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải
năn nỉ khóc lóc măi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng
đúng số tiền mà tôi trả công cho hai gă công an!
Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với với vợ chồng Cao Nguyên trên
ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay
quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước
mộ ba nó. Nó qùy bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều ǵ lầm thầm trong
miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi
khóc một ḿnh. Tôi nghĩ t́nh mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ
ông trời đă phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ
được con ḿnh, để mất nó trong núi rừng này từ ngày nó mới lên bốn
tuổi.
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày
xưa, mang theo trong ḷng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng
cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nh́n núi rừng hai bên đường, trong ràn
rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không c̣n nữa, mà tất cả đều mang
h́nh dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai
tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là
tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?
Phạm Tín An Ninh
(Phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại