Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH.

Tiểu Đĩnh

Anh T. thân mến,
Tuần qua tôi có nhận bức thư không đề ngày của anh thăm hỏi, trong đó anh nêu một vài việc anh muốn biết. Xin cám ơn anh viết bức thư gợi nhớ đến cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến dài nhất thế kỷ trong lịch sử cận đại của nhân loại mà “ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.” Không quên nhưng cũng không lên tiếng v́ đa số chúng ta nay đă qua tuổi nhi nhĩ thuận, tuổi nghe ai nói ǵ, dù đúng hay sai, cũng gật đầu cho là phải rồi yên lặng. Huống hồ tôi nay đă quá cổ lai hi, tuổi với ngày mai có thể không có thật. Thế nhưng, khi anh lên tiếng th́ tôi xin theo thứ tự trả lời như sau.


Huy hiệu Lực lượng đặc nhiệm thuỷ bộ 211.

Lực lượng Thủy Bộ là một đại đơn vị tổng trừ bị được Bộ TMT tăng phái hành quân cho Quân đoàn 4 và V4CT từ năm 1969, hậu cứ thời bấy giờ đóng tại Trà Nóc, Cần Thơ. Khi tôi nhận đơn vị này vào thời điểm anh nói th́ phần lớn các Giang đoàn Thủy bộ đă được tăng phái cho một số tiểu khu trong vùng. Do thế mà ngày tôi đến tŕnh diện TL/V4CT, tướng Nguyễn khoa Nam, để nhận việc, ông yêu cầu tôi gấp rút nghiên cứu rồi tŕnh ông kế hoạch tái lập Lực Lượng Đặc nhiệm Thủy Bộ như những năm 1969-70. Quyết định của ông cho biết ông dự trù sẽ có những trận đánh lớn trong Quân khu của ông; và đó cũng là để nói lên ḷng ông tin tưởng ở khả năng tác chiến của những thủy thủ phục vụ vùng có nhiều sông rạch.
Thời phục vụ các giang đoàn, tôi có t́m hiểu những ǵ đă làm cho thủy thủ trong sông không chùn chân trước khi đi vào chiến địa. Tôi cho đó là t́nh yêu thương đất nước quê hương, là tinh thần chiến đấu, là quyết tâm trả thù cho những bạn bè bị ngă gục. Kế đó là tinh thần kỷ luật cao độ cộng với niềm hănh của người lính trận có truyền thống riêng. Những yếu tố này khiến thủy thủ trong sông tự tin và ngạo nghễ, vừa hào hùng vừa lăn mạn đến mức thành "ba-gai" một cách đáng yêu. Việc bỏ tàu bỏ bạn trong hành quân bị xem là hành vi xấu xa, là một sứt mẻ trầm trọng cho tự ái cá nhân. Tóm lại, người thủy thủ xuất sắc luôn biết sống chết với quê hương, chung thủy với bạn bè, luôn tự tin với tinh thần lạc quan, và biết tự trọng mà bám sông bám biển. Tôi được cái may ở chung đơn vị với nhiều thủy thủ như thế trong những năm tháng vui buồn với cuộc chiến ta không lựa chọn, nhưng chấp nhận tiến hành v́ ư chí bảo vệ quê hương gồm gia đ́nh và lối sống tự do của người dân miền Nam cương quyết đứng về phía ta như cuộc chiến Mậu Thân năm 1968 đă chứng tỏ.


Các chiến đĩnh Monitor thao diễn trên sông Sài G̣n.

Từ cuối 1974, chắc anh c̣n nhớ, chiến sự trên quê hương miền Nam thêm sôi động; binh sĩ và các cấp chỉ huy tại những đơn vị chiến đấu cảm thấy gần nhau hơn bao giờ hết. Những ai trong tác chiến từng thấy binh sĩ của ḿnh chẳng nay bị thương vong, hay chính ḿnh bị ngă tại trận tiền mà c̣n được chiến tranh tha thứ, máu ḿnh ḥa với máu đồng đội th́ hiểu rơ điều này. Gần gũi và cùng thích một việc th́ ghét nhau. Nhưng gần gũi chung lo một việc th́ sinh gắn bó là lẽ thường. Khi c̣n trong quân ngũ, có đi đâu rồi cũng t́m về, nghĩa là sống chết có nhau.

Sự gắn bó đó vừa xúc tác, vừa hỗ trợ tinh thần của binh sĩ đang tại nhiệm sở địa đầu. Nhiều cây bút quân đội xác đáng cho đó là kỷ luật cần thiết để bảo đảm sự an toàn trong chiến trận, đồng thời c̣n giúp quân nhân trấn áp được nỗi sợ để giữ phẩm giá của ḿnh trong giờ phút nguy nan cao độ. Phẩm giá này, nếu mất đi, sẽ gây tủi nhục cho thế hệ kế tiếp khi họ bắt đầu biết suy nghĩ.

Nhật báo Người Việt, Nam Cali, (Mục Diễn đàn - B1) ngày 4 tháng 11 năm 1998, có bài Đôi Mắt Người Bị Xử Bắn Trong Rặng B́nh Bát của tác giả Nguyễn Bửu Thoại. Trong lời phi lộ, tác giả nói là viết để trả lời cho câu hỏi các con của ông. Câu đó là "Ngày Xưa Ba Đi Lính Đă Làm Ǵ Mà Phải Bỏ Nước Ra Đi? ”[1]

Với tác giả, tôi có tiếp chuyện. Ông nói có nhiều người cũng đă thắc mắc về nghi vấn nói trên, đồng thời ông c̣n xác nhận tuổi trẻ, khi thấy tự ái bị xúc phạm th́ sẽ có những câu hỏi không ngờ. Riêng tôi xin ư kiến của tác giả bài viết v́ thấy câu hỏi các con ông cũng gần giống như câu vấn trong thư anh “V́ sao đa số quân nhân Thủy Bộ bị kẹt lại, không di tản được.” Tôi hiểu câu của anh có đại ư: khi con tàu đất nước sấp bị ch́m th́ di tản là tốt, kẹt lại là không tốt.” Hai phạm trù này vừa thống nhất vừa đối lập nhau giống như tốt với xấu hay là thiện với ác.
Suy cho cùng, trên đời này chỉ có thiện mà không có ác. Giống như có bóng tối là do thiếu ánh sáng, có màu đen là do thiếu sắc tố, lạnh là do thiếu sự nóng, điều con người gọi là ác chỉ là cái thiện c̣n bị thiếu sót mà ra. Cái ranh giới giữa thiện và ác như thế quả thật mong manh, v́ nếu nói theo Alexandr Soljenitsyne th́ đường ranh giới này không chạy ngang các quốc gia mà chạy qua trái tim con người. Hay là giữa thiện và ác có nhiều trăn trở, trong đó lương tâm con người là thẩm quyền quyết định. Ngoài sinh hồn và giác hồn mà tất cả sinh vật khác đều có, con người, c̣n có linh hồn và lương tâm biết suy xét đúng sai. biết thiện biết ác, và biết thế nào là ḷng tự trọng. Ngày đó, sự bỏ nước ra đi hay ở lại cũng đều qui về cái thiện, tức là đời sống con người. Điểm khác nhau giữa hai lựa chọn này là đời sống cho cá nhân hay đời sống cho tập thể, nếu quả có sự lựa chọn đó.


Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà tung bay trên các chiến đĩnh ASPB trong ngày thành lập lực lượng thuỷ bộ.

Để sang một bên cái thuần lư chung chung của vấn đề “bị kẹt lại” th́ thấy t́nh h́nh miền Tây không giống như Sài G̣n. Ở Sài G̣n thời đó có Hạm Đội đi biển như phương tiện qui mô mà người Mỹ cần thu hồi theo chương tŕnh Lend-Lease Act hiệu lực kể từ ngày 11 tháng 3 năm 1941, trong khi miền Tây th́ không. Cố Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt kư pháp án này như con lưỡi dao hai lưỡi. Nó đă cho phép Hoa Kỳ chi viện các nước đồng minh giúp Hoa Kỳ chiến thắng Thế chiến 2 để từ đó mà lên ngôi bá chủ cho đến nay. Nó giúp nhiều quốc gia, trong đó có Đệ nhất Công Ḥa miền Nam đứng vững từ 1954; và cũng chính nó đă góp phần xóa bỏ nền Cộng Ḥa này tháng 11 năm 1963, rồi đến tháng 4 năm 1975 th́ nó thành lá bùa hộ mạng cho hơn 30 ngàn đồng bào ta ra khơi chạy nạn chiến tranh. Lư do của điểm sau cùng này là theo nội dung của Lnd-Lease, các chiến hạm Hoa Kỳ chuyển giao cho Việt Nam dùng trong chiến tranh chỉ là cho mượn, khi xong việc th́ thu hồi về bằng mọi giá.

Tại Vùng 4 Chiến Thuật vào thời anh nói, nếu để ư sẽ thấy:(1) Dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh Quân Đoàn 4, các đơn vị chiến đấu cơ bản (Sư đoàn) thuộc Quân Khu 4 c̣n nguyên phong độ đến khi có lệnh buông súng, (2) Không một Tư lệnh Sư đoàn nào trực thuộc Quân khu 4 bỏ nhiệm sở mà ngược lại có nhiều vị tướng khác, sau khi cố hết sức mà không giữ được thủ đô bèn t́m về Quân Khu 4, mong giúp lật ngược thế cờ, và (3) Hầu như không một dân thường miền Tây nào bị tử vong hay bị cướp bóc trong ngày định mệnh của đất nước. Quan trọng nhất là không có diễn lại thảm cảnh miền Trung. Tại Vùng 4, cứu cánh này là do lời giao ước của Tư lệnh Quân Khu 4 với người dân miền Nam tự do nói chung và người dân miền Tây nói riêng. Ông quan niệm rằng chiến sĩ tuyến đầu rất cần có một địa phương ổn định mới yên tâm hành quân diệt giặc. Ngược lại, một địa phương muốn được ổn định th́ rất cần binh sĩ kỷ luật, hữu hiệu, nương nhau thành một khối, không có bất cứ một hành động nào gây đại họa, kinh hoàng, hay khủng hoảng cho thường dân, đặc biệt vào giờ phút nghiêm trọng nhất.

Nhiều năm hoạt động trong ngành Tâm Lư, chắc anh cũng cho đây là h́nh thức cố định của t́nh quân dân cá nước. Khi nghĩ như trên, tướng Nam đă thật sự nắm được nghĩa triết học của chữ SƯ (đoàn) được người xưa diễn dịch bằng quẻ Khảm và quẻ Khôn, tức là quân với dân như Nước với Đất. B́nh thường th́ nước nằm trong đất. Khi cần th́ nước từ ḷng đất tung ra dũng mănh như thác xuyên ghềnh. Xong rồi th́ nước chui lại vào đất, yên lặng, ngoài nh́n không thấy. Đó là v́ sao khi nhận trách nhiệm vùng 4 chiến thuật, tướng Nam đă đặc biệt chú ư nâng phẩm lượng tác chiến của Nghĩa quân và Địa phương quân tại khấp miền Tây, trong khi quân chính qui th́ thành lực lượng trừ bị của vùng.[2]
 
Anh có thể hỏi nước với đất là tương khắc, sao đứng chung với nhau được. Đúng vậy. Nhưng cái tương khắc đó sẽ được hóa giải bằng đức độ của súy, bằng kỷ luật nghiêm minh của quân đội. Theo luật an toàn vật thể th́ đạn và nhiên liêu dễ cháy phải nằm cách nhau từ 200 đến 300 thước, ở giữa có tường ngăn. Nhưng trên chiến hạm, hai thứ này chỉ nằm cách nhau mươi thước là nhiều. Kỷ luật pḥng tai trên tàu hóa giải cho mối nguy này. Cho nên trong chiến trận, tướng Nam tin ông nắm được quân và ông rất b́nh thản mà —trong trường hợp chẳng đặng đừng— đưa kế hoạch của ông hội tụ vào điểm cao nhất, khó thực hiện nhất của lời giao ước nói trên là: Kỷ luật để thắng ḿnh, thắng giặc, và cứu dân lành trong chiến trận.

Phải ở cạnh ông trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975 mới thấy ông và vị tướng phụ tá của ông rơ ràng có chuẩn bị thi hành lời giao ước đó từ quan niệm quân đội trách nhiệm băo quốc an dân đến cách điều binh và rồi đi gặp định phận của chính ḿnh. Khác với việc bỏ nước ra đi, theo lời con ông Nguyễn Bửu Thoại, cái kết cuộc của hai ông không phải được thành h́nh trong một sớm một chiều. Đó cũng không phải để phủ nhận cái định phận tối tăm của những tên lính ch́ trên một bàn cờ với mục đích mua vui cho ai đó. Nó đă nằm trong tâm nguyện khi hai ông chọn cho ḿnh đời binh nghiệp, trong đó điều tối kỵ là "Mệnh lệnh chí kỳ... ” [3] Cho nên v́ tự ái, ông không thể thất hứa rồi quay mặt với từng binh sĩ thuộc quyền, với gia đ́nh của họ, với thân phận các thương bệnh binh trong quân y viện và oan hồn tử sĩ c̣n tại các nghĩa trang quân đội, điều mà mỗi khi nghĩ đến, người có tấm ḷng thường quên ăn mất ngủ.

Từ xưa, tử sĩ thường được nhắc đến bằng những lời thơ thật trân trọng, thanh thoát nhưng cũng thật buồn, v́ nghe như vọng lại từ bên trong phần mộ. Lư do tử sĩ đâu màng được truy tặng huân công hay cấp bực. Không ai nỡ nghĩ rằng sự hi sinh của ḿnh tại trận tiền là định giá cho người đời đổi lấy cái vinh quang thường là lắm chuyện. Có ai muốn đời ḿnh sẽ thành mặt trái của những huy chương cho người khác mang trên ngực và cấp bực mới trên vai [4]. Nơi chín suối họ chỉ mong ước quê hương vắng bóng quân thù, và ông bà, cha mẹ, gia đ́nh con cái họ được chăm lo y như khi họ c̣n sống. Đó là đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam lấy gia đ́nh làm trọng [5], và cũng là một t́nh cảm rất người, mỗi đồng đội coi đó như món nợ mà người cùng hội phải lo thanh thỏa cho nhau. Do đó, khi chiến trận c̣n tiếp diễn, danh sách tử sĩ ngày một dài ra. Sau cùng th́ khi vận cùng thế kiệt, tướng thủ thành thường tử tiết chính v́ món nợ này. Món nợ mà người ở cấp chỉ huy nếu chưa trả th́ sẽ c̣n đó, dù cho có theo ḍng định mệnh mà trôi dạt về một không gian và một thời gian khác.

Trong hoàn cảnh đó, nếu quyết định tự kết liễu cuộc đời khó khăn bằng một th́ -như tướng Nam (V4CT) và các vị đă thành nhân [6] khác khi cuộc chiến vừa tàn đă nghĩ- sự di tản cho cá nhân ḿnh mà bỏ lại thuộc hạ th́ c̣n khó khăn hơn thế nhiều lần. Ông là một vị tướng c̣n mang tinh thần vơ sĩ đạo cuối cùng thời quá giữa thế kỷ 20. Ngày xưa khi ở quân trường đến bài giảng về uy nghi và lao dịch của đời thủy thủ th́ thầy dạy rằng trong chiến đấu trên biển, nếu không may chiến hạm ḿnh bị ch́m th́ hạm trưởng phải là người di tản sau cùng, nghĩa là ông phải bảo đảm rằng đến lượt ông rời tàu th́ trên tàu không c̣n một ai c̣n sống sót. Nhưng trong hải chiến, có vị hạm trưởng nào dám đoan chắc rằng trên tàu ḿnh không c̣n thượng binh bị kẹt đâu đó trong những hầm đă bị hư hại, cửa ra vào bị kẹt không mở được. Do đó mà lương tâm của người được chỉ định chức vụ hạm trưởng đă chọn cái định phận theo tàu của ḿnh rơ ràng là một định lệ bất thành văn. Với Hải Quân Hoàng Gia nước Anh th́ cụ thể hơn. Năm 1958, trong một chuyến du hành thực tập trên chiến hạm HMS Chichester của Anh, thấy có vài cuộn dây móc ở nóc pḥng lái, tôi hỏi vị sĩ quan người Anh, Thiếu tá Jon Austick, những dây đó để làm ǵ. Ông nói:” Để hạm trưởng dùng tự buộc ông vào tay lái khi tàu này bị ch́m.” Thời đó các nay đă hơn nửa thế kỷ! Sinh lực Hải Quân của họ nằm ở truyền thống hải nghiệp lâu đời nhất trên thế giới này, một truyền thống mà tướng TL/V4CT đă nh́n thấy

Chiều ngày 30 tháng Tư, ông một ḿnh lái xe đi thăm tử sĩ tại nghĩa trang quân đội ở Cần Thơ. Xong về Tổng Y Viện Phan thanh Giản thăm và bắt tay các thương bệnh binh như một cữ chỉ biết ơn. Hừng sáng hôm sau ông đi, sau vị phụ tá của ông khoảng không đầy 10 tiếng đồng hồ. Thời đó, ông có một Sư đoàn Không Quân trong tay, nhưng ông biết giữ lời hứa danh dự cho riêng ông. Ông và nhiều vị tướng tử tiết khác biết sống với danh dự và thác với phẩm hạnh mà lên thần. Tâm tư của ông ngày đó ông giữ cho riêng ḿnh. Nhưng có thể ông nghĩ trong ngày tàn của đất nước, bỏ đi hay ở lại với đơn vị là tùy thái độ mỗi cấp chỉ huy tự xử trước lương tâm và lịch sử. Và đó là định phận cho từng cá nhân, nên dù bỏ đi hay ở, không ai có lỗi cả. Nhiệm vụ chiến đấu của ông ngày đó đă chấm dứt nhưng trách nhiệm tinh thần của ông đối với các quân nhân thuộc hạ của ông vẫn c̣n.
 
Ông đă gánh trên đôi vai của ông một miền Nam đang hấp hối. Và ông lấy cái chết của chính ḿnh để một mặt cho quân nhân các cấp hănh diện có một chủ súy xứng đáng với danh xưng, một mặt ngăn cho thuộc hạ của ông những nỗi khổ sở v́ bị bỏ rơi, và ngừa những cái chết oan uổng một khi cuộc chiến đă được sấp xếp để cho miền Nam bị thua lúc bấy giờ [7]. Tôi nghĩ do hiểu như thế mà các vị Tư lệnh Sư đoàn cũng như đơn vị trưởng các đại đơn vị khác không nỡ bỏ ông, bỏ ngũ, bỏ rơi binh sĩ của ḿnh. Ông đă làm sống lại gương dũng cảm của những Nguyễn tri Phương, những Trần b́nh Trọng, những Vơ Tính, những Bùi thị Xuân, và nhiều nữa khi đất nược gặp nguy vong.
Trong hoàn cảnh đó, Lượng Thủy Bộ nằm trong cái thế cân bằng quân sự toàn vùng, nên khó thể tháo lui mà không gây hoang mang ră ngũ cho những đơn vị bạn, kéo theo cảnh hỗn loạn tất nhiên trong dân chúng; rồi lịch sử sẽ c̣n nói đến với lời lẽ khó thể nhẹ nhàng. Bị người đời chê cười —oan ưng chưa biết— th́ coi như nhận cái cười chê để xả nghiệp. Bị lịch sử chê cười th́ là nổi nhục cho cả ḍng họ, là đại bất hiếu theo nghĩa của Đông phương.

Đến đây anh có thể hỏi những người phải ở lại để chịu phận tù đày có oán hận những người đả bỏ đi hay không? Tôi nghĩ đại để hầu như là không. Thường những ai đă làm hết sức mà không thoát khỏi định phận nghiệt ngă của ḿnh th́ biết tất cả mọi sự đều do nghiệp lực mà ra. Lúc đó th́ giữa sống và chết không có ǵ khác biệt. Họ cũng không ưng thấy các cấp lănh đạo hàng quốc gia miền Nam ở lại để vào tù, v́ họ không phải là những người lấy ghen tức làm lẽ sống.

Vào những năm sống trên đất Bắc, tôi gặp hầu hết quí vị sĩ quan cao cấp và Tư lệnh các Sư đoàn trực thuộc Quân Đoàn 4 trước kia. Tôi cũng gặp lại nhiều sĩ quan thuộc lực lượng Thủy Bộ. Không ai c̣n nhắc đến quá khứ hay phiền trách ǵ ai. Dường như trong nhiều năm sống với yên lặng và suy tư, nhiều lúc cảm thấy như cận kề cái chết v́ bệnh tật, v́ đói khát, quí vị đó hiểu rơ tác năng của chữ nghiệp trong cuộc đời mỗi người. Đi theo chữ nghiệp này, họ c̣n giữ được danh dự của một người lính sống chết với quê hương. Ngoài ra, họ c̣n có dịp học được bài học khó nhất, quí báu nhất là biết ḿnh là ai, hay là t́m được bản thân mà trước đó ḿnh đă đánh mất hồi nào cũng không nhớ!
Riêng có một cựu Chỉ huy trưởng Giang đoàn Thủy Bộ nay không biết ở đâu, khi t́nh cờ gặp tôi đang ngao du trong một khu rừng Yên Bái, anh biếu tôi một ống pipe nay tôi c̣n giữ làm kỷ niệm. Tuy hơn anh ấy những mười tuổi đời mà chưa từng nghe ai nói, " Ngày trước em đi trận đánh tụi này không nhân nhượng. Không phải ghét chúng mà em chỉ muốn góp phần cứu dân miền Bắc ra khỏi sự u mê Mác Lê, và cứu miền Nam chúng ta khỏi nạn khủng bố và tham nhũng nếu để bị thua trận. Rồi nay nghiệp báo viên thành, trong bộ đồ tù của bọn chúng, em thấy ḿnh vẫn uy nghi."

Anh ngừng một vài giây rồi tiếp:" Bây giờ em thấy những gian khổ em đang gánh chịu đây, nếu em c̣n sống và ra khỏi nơi này, sẽ giúp tuổi già của em có được sự b́nh yên. Em đă ṭng quân giữ nước, trả thù nhà v́ anh em của em đều vào lính Cộng Ḥa, bị thương tích đầy người, và bây giờ th́ em đang trả nợ đời lính của em. Thời trước em dẫn quân đi bắn mổ cũng nhiều. Tổ quốc cho rằng em có công, nhưng Thượng đế th́ có luật nhân quả của Ngài. Không biết điều em nói đây là đúng hay sai nhưng qua nhiều suy tư giữa rừng già, em thấy nó phải là như vậy. Một thời làm vua, cả đời là vua; một thời làm lính, cả đời là lính; một thời làm cấp chỉ huy, dù cao dù thấp, cả đời phải sống như ḿnh là cấp chỉ huy. Em nay không c̣n thắc mắc ǵ nữa,. thưa ông thầy (!) Lịch sử không kết tội em là được. "

http://www.mrfa2.org/images/Gary%20Oliver/Askari-AlphaBoats.jpg
 
Cố Tổng Thống Hoa Kỳ, ông Richard M. Nixon, có nói một câu hơi lạ mà nghĩ th́ cũng đúng, là: “Lịch sử sẽ được viết tùy theo người nào viết ra nó.” Lư do là những người làm nên lịch sử thường không c̣n, những người c̣n lại để viết th́ không có mặt tại nơi xảy ra từng sụ kiện lịch sử, chỉ ngồi nhà nghe chuyện trong bàng dân thiên hạ nói về những chuyện ǵ đó rồi mang vào những trang giấy cho có đầy chữ rồi gọi đó là lịch sử. Do thế mà hi vọng sau này, người viết sử không quên là khi vận nước đến thời nghiêng ngửa, bản đồ thế giới cần được vẽ lại phù hợp với quyền lợi ai đó, miền Nam phải bị bại vong theo kế hoạch cũng của ai đó, quân nhân miền Tây thật sự có cố gắng bảo vệ dân lành cho đến lúc cuối, đồng thời lo an ninh bờ sông cho đa số đồng bào trên sông Cửu Long an toàn di tản ra biển. Chừng đó, những chiến sĩ miền Tây cũng như các chiến sĩ tại các miền khác c̣n quyết tâm cố giữ vững trận địa trong những ngày u tối đó, may ra mới được an ḷng nếu c̣n sống, và khỏi ngậm ngùi nếu đến hạn phải ra đi.

Tôi nay th́ lực dĩ bất ṭng tâm, kư ức chứa toàn những chấp vá, luộm thuộm, nhớ đâu viết đó thành một thứ tạp-pí-lù. Qui luật này nào ai tránh được, khi mà nh́n quanh từ bàn ăn, bàn rửa mặt, bếp núc đâu đâu cũng thấy thuốc thứ này thứ nọ bày la liệt, ngày nào cũng dùng lia chia, khi cần đến th́ đỡ phải t́m! Cho nên thư này chỉ được viết với tính cách trao đổi giữa hai chiến hữu già mà thôi. Viết xong thấy không ưng ư, nhưng cũng phải gửi kẻo anh mong.

Chúc anh nhiều sức khỏe, rất cần.
Thân mến,
Tiểu Đĩnh

[1] Nội dung bài viết này nói lên ḷng nhân đạo của các chiến sĩ miền Nam trước sự tàn bạo của người CS đối với người của họ.
[2] “Sau vụ Tết Mậu Thân 1968 Bộ Tư Lệnh Mỹ thay đổi. Đại Tướng Creighton Abrams lên thay Đại Tướng Westmoreland và đổi quan niệm về cuộc chiến và phương pháp hành sử. Tướng Abrams nhấn mạnh “chiến tranh toàn diện” gồm cả hành quân, b́nh định và gia tăng khả năng QLVNCH theo một quy tŕnh cấp bách ngang với chiến trận. Chiến thuật cũng thay đổi từ quan niệm “truy và diệt” qua “b́nh định và giữ đất”. Có nghĩa là khi địch bị đẩy ra khỏi vùng có dân th́ quân đội phải đóng lại chớ không rút đi cho địch trở lại. Do đó Địa Phương Quân được phát triển tối đa để phụ trách an ninh và b́nh định lănh thổ” -Trích Xác Định Giá Trị Của Người Chiến Sĩ VNCH của tác giả Trần đổ Cung.
[3] “Mệnh lệnh chí kỳ vi chi tặc.”
[4] ....
Em không thấy được xác chàng
Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như pḥng riêng ai.”
Bài thơ Thương ca 1 đă được phổ nhạc, của tác giả Lê thị Ư
[5] Với người làm cách mạng th́ “Cách mạng với gia đ́nh không là một.” Lớn lên với đất nước trang 157
của tác giả Vy Thanh.
[6] Hai chữ thành nhân trong câu nói được lưu truyền của liệt sĩ Nguyễn thái Học (Không thành công th́ cũng thành nhân) có nghĩa v́ nước mà hi sinh hay là tử tiết.
[7] Theo tài liệu viết tay của cựu Đại tá Trưởng Pḥng 3 Quân Đoàn 4, hiện sống tại Nam California, th́ trong lúc tiếp người đại diện của GPMN trưa ngày 30 tháng 4, sau khi ông DVM tuyên bố miền Nam buông súng, tướng NKN có nói đại ư, “ Chúng tôi thi hành lệnh của nguyên thủ chúng tôi. Riêng tôi th́ cuộc chiến chưa chấm dứt ở đây.”

Tân Sơn Hoà chuyển


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại