Nguyễn-Ngọc-Ngạn
Lúc đầu vì thèm ăn thịt heo quá, Thược đã toan cưới cô hàng thịt.
Lấy Mùi - theo lời nàng phân tích - ngoài cái lợi thiết thực là mỗi
tuần cũng được ăn một bữa thịt lợn, Thược sẽ còn hưởng nhiều thứ
thuận tiện cụ thể khác mà gã không ngờ. Trước hết là Mùi đã có một
đời chồng, như thế, bao nhiêu kinh nghiệm của cuộc sống ái tình Mùi
tiếp thu trước đây bây giờ chỉ cần phát huy thêm là bảo đảm hạnh
phúc bên cạnh Thược. Mùi lại có sẵn một đứa con riêng, rất tiện,
không cần phải sinh đẻ gì nữa để khỏi vi phạm chính sách ba khoan
của nhà nước. Điều làm Thược phấn khởi nhất là thằng chồng cũ của
Mùi trúng gió chết bất đắc kỳ tử, có nghĩa là tất cả vốn liếng buôn
chui bán lén mấy năm nay vẫn còn nguyên vì Mùi không phải lo thuốc
thang ngày nào, khác hẳn mẹ Thược trước đây, ho lao nằm liệt giường,
ngáp lên ngáp xuống mãi rồi khi biết cả nhà khánh kiệt, bà cụ mới
chịu dứt khoát về bên kia thế giới.
Tất cả những lời thuyết phục đó làm Thược xiêu lòng. Gã thấy Mùi ăn
nói nhỏ nhẹ nhưng rất lô-gích, y như một bài giảng chính trị về duy
vật biện chứng pháp mà gã thường nghe ở cơ quan. Từ đó, ngày ngày đi
làm, buổi tối về nhà cơm nước Mùi lo sẵn, Thược thấy cuộc sống thật
đầy ý nghĩa. Đứa con bốn tuổi của Mùi cũng mến Thược lắm, chỉ vì từ
ngày có Thược, Mùi trở nên dễ dãi và tiêu xài ít đắn đo hơn. Người
đàn bà khi yêu không thể dấu được ai. Cái vẻ lam lũ thường nhật ở
Mùi đột nhiên biến mất, chiếc áo cánh nâu rộng thùng thình, vá ở hai
khuỷu tay, Mùi tạm thời cất đi, thay thế bằng hai chiếc áo phin nõn
trắng mỏng, cắt rất gọn, có ý trình bày một vài đường nét cần thiết
của cơ thể để nhắc cho Thược biết rằng nàng còn trẻ. Mái tóc nàng bỏ
bê đã lâu, bây giờ được chăm sóc lại và lúc nào cũng thơm mùi bồ
kết. Mọi thứ chung quanh Mùi đều mang bộ mặt mới, đánh dấu sự cáo
chung của giai đoạn cô phụ hai năm buồn thảm. Cuộc tình của Thược và
Mùi được cả làng bàn tán. Không cần phải mở một cuộc thăm dò, Thược
cũng biết rõ là đa số dân làng, nhất là các bà các cô đều chê Thược
là thằng ngu. Người ta tiếc cho Thược yêu lầm. Có cô gặp Thược bĩu
môi nói bóng gió:
- Giai tơ mà phải lòng gái già!
Thực ra, về tuổi thì Mùi chưa già. Nhưng đối với dân làng, hễ cứ có
một đời chồng nhất là có con rồi, thì phải coi là già. Có bà ngứa
mồm mắng Thược:
- Thiếu giống gì con gái mà phải "rúc đầu" vào con mẹ ấy?
Hình như họ không hiểu được những đặc quyền đặc lợi mà Mùi đang cung
cấp cho Thược. Ở đời vẫn thế, có những người lúc nào cũng sẵn sàng
phân ưu cùng kẻ khác, trong khi chính cái đứa bị phân ưu đó lại đang
hạnh phúc hơn kẻ thương hại nó. Thược biết vậy. Gã đang sung sướng
mà biết bao nhiêu người cứ tội nghiệp dùm gã. Tuy Thược không chính
thức đến ở hẳn nhà Mùi, nhưng những gặp gỡ thường xuyên giữa hai
người đủ đem lại tháng ngày thần tiên cho gã. Miền Bắc lúc này đang
bị dội bom các mục tiêu quân sự, xã Hoà Vinh của Mùi ngày ngày nghe
tiếng nổ vang vọng xa xa, xã uỷ và uỷ ban hành chánh xã nhốn nháo lo
phòng thủ và thúc đẩy nhân dân sơ tán, nhưng Mùi không chú tâm. Nàng
đang hưởng hạnh phúc và đang phải thuyết phục Thược cưới nàng trước
khi gã chấm dứt công tác ở xã để trở về trung ương.
Có ai ngờ đâu cuộc tình ấy không bền vững. Chỉ một thời gian sau,
Thược thấy mình lầm và muốn sửa sai. Bất cứ thằng đàn ông nào trên
cõi đời này, bản chất tự thâm sâu, đều có máu sở khanh cả. Thược tin
như thế. Nếu không phải, thì hoặc vì thằng đàn ông đó đạo đức giả,
hoặc vì không có cơ hội để lăng nhăng đấy thôi. Riêng Thược đang có
nhiều điều kiện thuận lợi và đảng lúc nào cũng dạy là phải "cướp
thời cơ". Thế thì ngu gì mà lại chỉ biết yêu có một mình Mùi!
Thược vốn không phải là người sinh sống ở làng này. Đầu năm nay, hợp
tác xã Hoà Vinh bỗng phát hiện ra mấy trăm mẫu lúa bị bệnh vàng rụi,
trình lên trung ương xin cử cán bộ kỹ thuật về nghiên cứu. Phòng
nông nghiệp tỉnh bố trí Thược xuống, vì gã là kỹ sư nông nghiệp. Về
đến làng, Thược vào trụ sở Uỷ ban Hành chính trình giấy giới thiệu,
cán bộ cơ sở xum xoe đón tiếp gã như một vị cứu tinh từ trời hiện
xuống để thanh toán đám sâu rầy, cứu dân thoát khỏi cảnh đói đang đe
doạ. Cảm giác đầu tiên của gã lúc tới đây là vừa bước vào một vùng
chiến tranh. Dọc theo con đê biển, bao nhiêu ổ súng phòng không, lô
cốt, trạm gác, chòi báo động... Trên cánh đồng xơ xác, nông dân vai
đeo súng - súng thật và súng giả - lao động trong tình trạng nơm nớp
lo sợ máy bay xuất hiện. Nhà cửa tháo gỡ ngổn ngang, lấy gỗ làm hầm
trú ẩn. Cảnh tiêu điều thê lương giống như thời tiêu thổ kháng chiến
mà Thược thường nghe cán bộ lớn tuổi kể lại.
Nhưng chính trong khung cảnh ấy, Thược lại khám phá một điều cực kỳ
quan trọng và hấp dẫn: là khắp làng hình như chỉ còn toàn là đàn bà
con gái. Gã đi quanh xã, ít khi gặp các cụ già hay con nít. Còn đàn
ông thì khỏi nói, chỉ thấy lăng xăng vài thằng cán bộ lúc nào mặt
mũi cũng xanh xám ưu tư. Điều đó làm Thược rất hồ hởi. Hôm đầu tiên
trình diện, chủ tịch Chu thị Bích dẫn gã xuống căn hầm ẩm thấp ngay
bên hông trụ sở, tươi cười bảo:
- Đồng chí ở tạm đây nhá! Khổ quá đồng chí ạ. Vừa sản xuất vừa đánh
giặc. Thằng Mỹ ác ôn quá mà giời lại chẳng thương, tự dưng sinh ra
cái bệnh vàng lúa. Nhờ đồng chí tranh thủ tiến hành kiểm tra ngay
cho, không thì đói cả đấy!
Thược khua tay đuổi mấy con muỗi ngày đang vo ve quanh mặt. Gã không
chú ý đến câu xã giao Bích nói, tâm trí gã vẫn bận theo đuổi câu hỏi
tại sao chỉ toàn thấy đàn bà. Gã hỏi:
- Chị Bích nhỉ, tôi thấy cả xã ta chỉ có đàn bà thôi là thế nào? Đàn
ông đâu hết cả?
Bích lắc đầu cười:
- Chuyện! Mấy ông tướng chuyên làm việc ở cơ quan chả trách được.
Thanh niên thì vào bộ đội hoặc bố trí ở các trạm phòng không duyên
hải. Đồng chí đi qua không thấy à? Còn các cụ bô lão thì dắt trẻ con
đi sơ tán cả rồi. Ở lại đây mà chờ máy bay Mỹ bỏ bom à?
Rồi Bích vội vàng chui lên, lúc nào cũng ra vẻ rất bận rộn.
Những ngày kế tiếp, Thược bắt tay ngay vào việc nghiên cứu tại hiện
trường lòng lâng lâng sung sướng. Nào có thấy bom đạn gì đâu. Máy
bay thỉnh thoảng bay ngang, đánh phá những mục tiêu quân sự mà thôi.
Những khu dân cư như xã Hoà Vinh này có thấy chiến tranh đến gần đâu
mà tại sao hoảng sợ đến thế. Thược cũng đã nghe người ta bàn tán,
than thở về việc uỷ ban bắt họ tháo tung cả nhà cửa để lấy cột kèo,
gỗ ván, giường tư, làm hầm trú ẩn. Nhưng gã không thắc mắc về chuyện
đó. Với Thược, chuyến đi bất ngờ xa thành phố lần đầu tiên này thật
là kỳ thú trái hẳn với dự kiến trước khi lên đường của Thược. Gã lại
vốn không có ý thức chính trị gì cả, chỉ cốt sao giữ được công việc
văn phòng và khỏi đi bộ đội là mãn nguyện lắm rồi. Mỗi lần nghe Bích
căm thù chửi rủa đế quốc Mỹ và miền Nam, gã như cái máy phụ hoạ
theo, nhưng đầu óc trống rỗng. Hình ảnh tràn ngập tâm trí Thược bây
giờ chỉ là cô hàng thịt và những bữa thịt lợn mà thôi. Ngày ngày làm
việc trên cánh đồng, gã thấy từng đoàn phụ nữ đi qua đi lại, lao xao
chuyện vãn, hoặc vác súng ì ạch tập chạy, tập bắn, hò hét báo động.
Tuy bận bịu các cô cũng không quên liếc mắt nhìn Thược và gã có cảm
tưởng mình trở thành một đối tượng rất hấp dẫn đối với các nữ chiến
binh vai u thịt bắp ấy. Thược biết mình vừa lạc vào cõi thiên thai
chung quanh toàn là tiên nữ. Dĩ nhiên những nàng tiên của Thược hoàn
toàn không giống người ta tả trong chuyện cổ: cô nào cũng vừa mập
vừa lùn, các bắp tay lực lưỡng, quần sắn lên sát đầu gối, khoe ra
những bắp tay lực lưỡng, quần sắn lên sát đầu gối, khoe ra những bắp
chân cổ thụ và những bàn chân nứt nẻ vì bùn nước bám quanh kinh
niên. Sau một tuần làm việc, Thược gặp Bích và bảo:
- Đề nghị chị chủ tịch bố trí cho tôi hai cô làm công tác cứu lúa.
Bích bằng lòng ngay:
- Anh muốn lấy mấy cô cũng được.
Bích chợt nhận ra câu nói vô tình không được nghiêm túc lắm, vội
vàng nói thêm:
- Cứu lúa là công tác hàng đầu. Tôi sẽ bổ sung ngay cho đồng chí. Có
cần thêm, đồng chí cứ bảo.
Thược nhìn Bích cười cười:
- Tôi "lấy" hai cô đủ rồi.
Câu khôi hài mà Thược cho là rất duyên dáng ấy không làm Bích nhếch
mép. Thược thấy rõ ở người con gái hai mươi lăm tuổi kia, lúc nào
cũng ra vẻ trang nghiêm, giữ đúng tác phong của một cán bộ đảng và
chính quyền. Chưa bao giờ Thược thấy Bích thay cái áo khác và chiếc
quần đen bạc thếch lúc nào cũng sắn cao, ngay cả lúc không phải lội
bùn, và hình như ngay cả lúc Bích đi ngủ. Thược tự hỏi động cơ nào
thúc đẩy Bích hăng say như thế. Lý tưởng cách mạng hay chức vụ chủ
tịch quá to lớn đối với một cô gái còn trẻ. Gã suy ở lòng mình và ở
những cán bộ chung quanh mà hàng ngày gã tiếp xúc để tìm ra câu trả
lời cơ bản. Sau cùng gã đành kết luận tất cả là do những khuôn mẫu
đã đúc sẵn mà con người bị uốn nắn trong guồng máy đó cứ như thế mà
hành động theo. Chỉ những thằng trí thức như Thược mới có chút thời
giờ và kiến thức để suy nghĩ về chủ nghĩa, về lý tưởng, còn đối với
hàng triệu người dân khác thì chính quyền luôn luôn là thế lực có
sẵn, người ta cứ sinh ra và tuân theo, không thắc mắc. Gã nhìn Bích
cũng như những cô gái ngày ngày ì ạch vác súng tập trận ngoài cánh
đồng kia, thấy không có điểm nào khác nhau từ bề ngoài và có lẽ cả
những khuôn mẫu tư tưởng. Rút cục là, chỉ có Mùi là đáng quí mà
thôi. Càng ngày hình như nàng càng đẹp ra, các bà lắm chuyện bảo
nhau:
- Có "hơi" đàn ông vào nó khác đi chứ!
Nhiều hôm chưa hết giờ làm việc, Mùi đã ra tận cánh đồng đón Thược.
Hai cô phụ tá bực mình báo cáo với Bích là Thược đã dành nhiều thì
giờ lo cho Mùi hơn là công tác trên giao phó. Riêng Bích, ngày tháng
trôi qua đã mấy tuần lễ mà Thược chưa đưa ra được phương án nào để
trị bệnh vàng lúa. Cô đang áy náy nhưng nể Thược chưa dám nói, nay
thấy có người báo cáo, vội vàng gọi Thược đến hỏi thăm. Gã bình thản
đáp:
- Đồng chí an tâm, tôi đã nắm cả rồi. Đây nhé, tôi nêu hai giả
thuyết này rồi ta cứ tuần tự nghiên cứu lại cho chắc. Thứ nhất: Bệnh
vàng lúa là do một loại siêu vi trùng truyền bệnh qua những con bọ
rầy đuôi đen. Bọ này sinh trong cỏ, đẻ trứng vào bẹ lúa, rồi hút
nhựa lúa mà sống. Như vậy lúa phải chết. Giả thuyết thứ hai: Bệnh
vàng lúa do một loại siêu vi trùng yếm khí, sinh sản và truyền bệnh
ở rể lúa...
Bích nóng lòng:
- Vâng, thế thì phương án trị bệnh ra sao, đồng chí đề xuất ngay
cho. Nguy đến nơi rồi. Đói đấy đồng chí ạ!
- Nếu ta chấp thuận giả thuyết thứ nhất thì tôi đề nghị phương án
trị bệnh là phải có thuốc Vophatox cực mạnh, xịt vào cỏ cho chết hết
giống bọ đuôi đen. Bọ này chết thì tức nhiên là lúa tốt.
Bích thở dài ngao ngán và mong rằng phương án này sai, vì làm gì có
thuốc diệt rầy. Cô hỏi tiếp:
- Thế còn phương án thứ hai?
- Giả sử như giả thuyết thứ hai đúng, nghĩa là nguyên nhân vàng lúa
do siêu vi trùng yếm khí sinh nở ở rể lúa thì ta chỉ việc rẽ ruộng,
tháo nước, làm sao cho đất khô, ánh nắng mặt trời chiếu vào giết hết
vi trùng đi, lúa sẽ tốt lại!
Bích cũng lo âu như phương án thứ nhất vì lý do lấy người đâu để tát
hết nước ở mấy trăm mẫu ruộng, rồi xới đất phơi dưới ánh nắng mặt
trời. Nhưng thà rằng thi hành biện pháp này còn khả dĩ chấp nhận
được, chỉ tốn nhiều công lao động mà thôi. Cô kết luận:
- Thôi tùy đồng chí. Cả xã chỉ trông vào đồng chí thôi đấy!
Bích không dám nặng lời với Thược nhưng trong thâm tâm cô rất bực,
và cô cho rằng Thược lơ là công tác mà nguyên nhân của sự lơ là đó
là Mùi. Vốn đã sẵn không ưa Mùi từ lâu, nay Bích lại càng thù Mùi.
Tuy thế, cô vẫn sợ Thược sẽ bỏ về tỉnh nên chưa bao giờ cô đả động
đến Mùi trước mặt Thược.
Rồi một hôm, quan hệ giữa Bích và Thược bỗng đổi khác. Chiều hôm đó,
Bích chủ toạ buổi họp toàn xã để nghe báo cáo về các mặt sản xuất và
phòng thủ. Thược ngồi bên cạnh Bích, chờ đến lượt mình trình bày.
Trung đội trưởng dân quân Nguyễn thị Dần kề cà phát biểu mãi làm
Thược rất buồn ngủ nhưng không dám nói, chỉ lâu lâu che miệng ngáp
trào nước mắt. Mà chẳng riêng gì Thược, cả phòng họp đều sốt ruột
nghe Dần kể lể thành tích bắn hạ máy bay, đuổi tàu thuỷ ngoài khơi,
bắt sống giặc lái Mỹ.v...v... Người ta tự hỏi không biết đây là dịp
lễ lạc gì mà cái trung đội dân quân gồm toàn phụ nữ này đem khoe
thành tích. Cuối cùng Bích hỏi:
- Đồng chí muốn đề nghị điều gì?
Dần chỉ chờ có thế, vội vàng nói:
- Tôi đề nghị cho trung đội dân quân được thêm khẩu phần khoai để ăn
đêm vì chị em chúng tôi vất vả, có đêm thức trắng canh phòng.
Thược càng bực mình. Chỉ xin ăn thêm khoai lang thì cứ nói mẹ nó
ngay ra đi còn rào đón kể lể hàng loạt thắng lợi rồi mới nói.
Bích đáp:
- Nhất trí. Tán thành tăng khẩu phần khoai cho dân quân. Đánh giặc
phải đủ ăn mới đánh được.
Nhưng Bích vừa dứt lời thì các đội khác, toán khác, đều nhao nhao
phản đối:
- Chúng tôi đây sản xuất ngày đêm có lẽ nhàn lắm hay sao? Dân quân
ăn khoai được thì chúng tôi cũng phải có khoai!
- Còn cánh chúng tôi đánh cá chắc sướng hở? Đánh cá sông còn khổ như
con trâu huống nữa là đánh cá biển. Sức dài vai rộng, chúng tôi cũng
đòi phải có thêm khoai!
Thược chán nản vô cùng, phòng họp cãi nhau như mổ bò chỉ vì đội nào
cũng đòi được tăng mấy cân khoai lang để ăn đêm. Nhưng cùng lúc đó,
gã suy nghĩ rất nhanh đến những bữa cơm ngon ở nhà Mùi và nhất là
những miếng thịt lợn béo ngậy, kho khô, tuy mặn nhưng vẫn còn mùi
thơm phảng phất. Gã thấy yêu Mùi hơn. Bích ngồi bên cạnh, lúng túng
giải quyết vấn đề. Cô cũng mong cho mau chấm dứt phần tranh luận này
để nghe Thược báo cáo về phương án trừ sâu rầy cho hợp tác xã. Đối
với Bích, lúa gạo bao giờ cũng là nhiệm vụ hàng đầu mà cô phải quan
tâm. Cuộc hội thảo chưa ngã ngũ ra sao thì tiếng báo động khắp nơi
vang lên. Kẻng, mõ, thùng thiếc, tiếng người la, tiếng chân chạy:
- Máy bay! Máy bay!
Không ai bảo ai, họ túa ra tứ phía. Đa số chui xuống giao thông hào
và dãy hầm tập thể bên cạnh trạm y tế. Chỉ có Bích biết rõ vị trí
phòng thủ quanh trụ sở. Cô thụt xuống ngay miệng căn hầm nhỏ ăn
thông với văn phòng. Thược luống cuống nhảy xuống theo. Hai người lo
âu ngồi bên nhau, không ai nói lời nào. Nước ngập gần đầu gối, Thươc
thấy lạnh ở hai bắp chân, nhưng nhìn nét mặt đăm chiêu của Bích, gã
yên lặng không lên tiếng. Họ cứ ngồi như thế, rất lâu tiếng bom nổ
xa xa ngoài mé đê. Tiếng máy bay vang vọng, lúc nghe thấy rất xa,
lúc lại ầm ầm kéo đến. Lần đầu tiên, Thược trải qua kinh nghiệm trú
ẩn ở nông thôn, lòng gã tràn ngập những ý nghĩ hỗn độn, nửa lo âu,
nửa buồn cười. Bàn tay gã vô tình đặ trên đùi Bích lâu lắm mà không
ai để ý cả. Mãi đến lúc hai chiếc máy bay bỏ đi xa, bốn bề hoàn toàn
yên tĩnh và đã nghe có tiếng nói trên miệng hầm, Bích mới toan đứng
dậy. Cô giật mình nhận ra bàn tay Thược đang đặt trên đùi. Lạ thay,
bàn tay ấy Bích đoán là nó đã ở vị trí này cả tiếng đồng hồ rồi mà
sao cô chẳng biết gì, bây giờ mới thấy một cảm giác lạ chợt đến. Hai
mươi lăm năm của đời con gái, Bích chưa bao giờ có được thứ cảm giác
ấy. Nó lâng lâng nhẹ nhàng, và như một làn hơi ấm mong manh từ đâu
xâm nhập một cách êm ái. Rồi ngay lập tức, cái cảm giác kỳ diệu ấy
đã từ bắp đùi "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc" lên toàn thân
cô, len lỏi cả vào trái tim giai cấp của Bích khiến cô rạo rực. Cô
không dám quay sang nhìn Thược, cứ ngửa mặt như chú tâm theo dõi hai
chiếc máy bay địch lúc này thực ra đã bỏ đi cả nửa giờ rồi. Cô mong
hai thằng giặc lái trở lại bắn phá tiếp tục để cô được kéo dài giây
phút thần tiên của tuổi dậy thì rất muộn màng hôm nay. Thược thì
không vô tình. Gã đặt bàn tay lên đùi Bích một cách cố ý và gã biết
rõ ràng lúc ban đầu Bích không chú ý, nhưng bây giờ thì cô đã biết
và ngầm đồng ý chấp nhận. Thược mỉm cười. Vừa lúc ấy, Bích ngượng
quá, lúng túng đứng dậy bảo Thược:
- Chắc nó đi hẳn rồi, chả dám trở lại nữa đâu. Mình lên thôi anh!
Tiếng "anh" dịu dàng mà Thược ít khi nghe ở miệng Bích. Gã mạnh bạo
nắm tay Bích giữ lại:
- Hãy khoan lên. Giặc lái Mỹ bạo lắm, thế nào nó chả ngoan cố vòng
giở lại! Ngồi tí đã!
Như một phản xạ tự nhiên hoặc thức dậy bởi một tiếng gọi thiêng
liêng nào đó, Bích ngoan ngoãn ngồi xuống. Thược choàng tay ngang
lưng, ghé nghiêng đầu sát vai Bích. Gã ngửi thấy mùi hăng hăng mồ
hôi pha lẫn rơm rạ bốc nhẹ từ mái tóc bù xù của Bích. Bích khẽ đẩy
gã ra và đứng dậy:
- Thôi, để lúc khác.
Thế là rõ ràng Bích đã ngầm trao một lời hò hẹn với Thược. Lúc khác
là lúc nào? Ngộ nhỡ máy bay thôi không đến bắn phá nữa thì làm gì có
dịp chui xuống đây ngồi bên nhau? Thược suy nghĩ mau rồi cười bảo:
- Ừ, thôi Bích lên trước đi!
Tự nhiên cả hai cùng cảm thấy tội lỗi và cùng lo âu làm như tất cả
dân làng đều biết rõ họ chui xuống căn hầm này không phải để tránh
bom đạn mà vì một tà ý có chủ đích từ trước. Một lúc sau Bích đứng ở
cửa hầm, nhìn dáo dác chung quanh rồi thò đầu xuống gọi Thược:
- Không có ai cả, lên đi!
Qua nét mặt, dáng điệu và cử chỉ của Bích, Thược biết rằng kể từ
giây phút ấy, cô chủ tịch xã bắt đầu giao động mạnh vì gã. Gã cười
cười bò lên, nhìn Bích âu yếm và hân hoan ra về. Bích đã quên hẳn
công tác cứu lúa mà mới lúc nãy cô rất nóng lòng muốn nghe Thược báo
cáo. Cô đi nhanh vào trụ sở như sợ có ai bắt gặp cô đứng với Thược.
Thược sung sướng quay đi, trên đường về nhà Mùi, gã mang đầy hình
ảnh của Bích.
Mọi sinh hoạt đã trở lại bình thường, người ta lố nhố leo lên từ
giao thông hào và các cửa hầm. Tiếng chân chạy thình thịch, tiếng
người hỏi thăm nhau, phỏng đoán về thiệt hại do hai chiếc máy bay
gây ra ngoài ven đê. Trong văn phòng vẫn chỉ có mình Bích, đã lâu
lắm, hôm nay cô cảm thấy cần có một cái gương soi mặt.
Từ hôm ấy, Bích bắt đầu khổ sở. Cô nhận ra mình bấy lâu nay ăn mặc
tồi tàn quá. Chưa bao giờ người ta thấy cô thay chiếc áo màu cỏ úa
có mấy miếng vá ở khuỷu tay và hai vạt phía trước. Chiếc quần bạc
thếch xốc xếch ống cao, ống thấp không phù hợp với trái tim đang
rung động tha thiết của cô. Mỗi năm nhà nước cấp phát bốn mét vải,
cô đem may áo quần rồi cứ cất kỹ dưới đáy rương, chỉ những dịp lễ
lớn mới lôi ra mặc. Bây giờ tự nhiên thay đổi y phục thì kỳ quá, mà
để nguyên như thế này thì so với Mùi cô chẳng khác gì đứa ăn mày. Cô
nghĩ nhiều đến Mùi và mỗi khi có dịp đều nói với Thược về Mùi, dĩ
nhiên là nói xấu. Nào là Mùi thuộc thành phần tiểu tư sản, làm ăn cá
thể không chịu vào hợp tác xã, nào là buôn bán bóc lột, lười lao
động...v...v... Thậm chí Bích còn đem cả những lý luận rất duy tâm
ra để chê Mùi, chẳng hạn như Mùi có tướng sát phu, gò má cao, miệng
rộng, nốt ruồi "thương phu trích lệ" mờ mờ dưới mắt, tướng đi
"trường xà quyển địa" v...v... Bỗng chốc cô chủ tịch xã trở thành
một bà thày bói rất lão luyện. Thược cười cười lắng nghe một cách
rất dửng dưng và tự hỏi tại sao một đảng viên duy vật như Bích cả
đời tôn thờ chủ nghĩa mà chỉ một sớm một chiều mê trai đến độ đem cả
tư tưởng duy tâm ra phân tách. Gã lại càng sung sướng thấy mình có
giá. Gã sẽ câu giờ để ở lại làng Hoà Vinh càng lâu càng tốt. Chiến
tranh chắc không bao giờ tới vùng dân cư này như người ta thường hò
hét báo động. Chỉ có điều buồn cười là những lý luận thoạt đầu rất
vô lý của Bích để công kích Mùi, dần dần Thược thấy có phần đúng. Gã
bắt đầu nhạt tình cảm với cô hàng thịt. Vả ngay khi tình yêu phai
nhạt, Thược cũng nhận hay đúng hơn là cố gắng tìm ra, những khuyết
điểm ở Mùi. Gã thấy Mùi tuy cho ăn uống tương đối khá, nhưng bản
tính Mùi rất bủn xỉn. Nồi thịt kho mặn chát để cầm cự cả tuần, chưa
lần nào Thược được thoải mái ăn những miếng to, ngồm ngoàm nhai
trong mồm với cơm. Ngay cả khẩu phần cơm cũng vậy, Thược chỉ được
hai chén cơm trắng, nếu còn đói, gã phải ăn độn. Họa hoằn lắm Mùi
mới cho Thược thưởng thức cái món cực kỳ quí giá mà Thược say mê là
"nòng nợn nuộc". Gã còn nghĩ thêm được rất nhiều cái đáng ghét ở Mùi
và kết luận nếu có bỏ nàng cũng không có gì tội nghiệp cả.
Trực giác người đàn bà luôn luôn bén nhậy. Mùi nghe thiên hạ nói xa
nói gần về Bích với Thược, nàng lo lắng chờ dịp gạ gẫm:
- Thế đến bao giờ chúng mình mới làm lễ tuyên bố?
Thược từ chối khéo:
- Cả nước đang đánh giặc, mình lại lo đi cưới nhau, anh thấy thế nào
ấy. Tiêu cực quá!
Mùi bực lắm. Thằng đàn ông khốn nạn này bắt đầu giở chứng rồi đây.
Tuy thế nàng phải nhịn, nài nỉ:
- Chúng mình nhớn cả rồi. Xây dựng là vừa chứ còn đợi đến bao giờ?
Thược ậm ừ cho qua nhưng gã bắt đầu lo lắng và có lẽ phải dứt khoát.
Bỏ Mùi, nói đúng ra gã chỉ tiếc những bữa thịt lợn mà thôi. Bích vẫn
tiếp tục tấn công. Điểm quan trọng nhất cô đem ra chỉ trích Mùi là
cách đây hơn một năm, Mùi đã dính líu vào phong trào đòi hòa bình
lúc đó nổ tung ra ở vùng ven biển. Điều này thì đúng sự thật, Bích
không bịa đặt. Cuộc chiến mấy năm gần đây càng ngày càng khốc liệt,
đã vượt quá sức chịu đựng của nhân dân. Không nói đến việc thanh
niên lũ lượt lên đường sinh Bắc tử Nam, mà ngay người còn lại cũng
chẳng an thân. Nào là dân công, phá nhà phá cửa làm hầm làm hố, lao
động gấp hai ba để cung ứng chiến trường. Bi thảm nhất là công cuộc
sơ tán. Họ phải bỏ nhà bỏ cửa dắt díu nhau lên rừng sống lại thời
hoang sơ tiền sử. Giữa lúc đó, truyền đơn và đài phát thanh từ miền
Nam chỉ kêu gọi một điều duy nhất là miền Bắc thôi gửi quân xâm nhập
phá hoại miền Nam thì tức khắc máy bay không oanh tạc nữa. Tư tưởng
đòi hoà bình, nghĩa là nhân dân muốn ngưng gửi con em vượt Trường
Sơn. Lúc đầu chỉ nhem nhúm trong giới lao động trí óc, dần dần lan
tràn rất mau trong dân chúng, nhất là khi họ bị yêu cầu sơ tán, bỏ
lại toàn bộ tài sản cho chính quyền phá tung lấy vật liệu. Rồi cán
bộ đảng viên cũng nhiều người ngấm ngầm hùa theo. Huyện uỷ đã sớm
nhìn ra những lung lạc càng ngày càng rõ rệt trong hàng ngũ đảng
viên. Thằng chủ tịch xã cũ vì thế mà bị đổi lên mạn ngược cùng với
các ông già bà cả trong làng. Trước khi lên đường, gã còn ngạo mạn
nói với dân:
- Nước Sơn La, ma Vạn Bú! Cẩn thận đấy! Nội cái bệnh sâu quảng thối
thịt nát chân cũng đủ chết người rồi!
Bí thư huyện biết, nhưng làm ngơ và lập tức kết nạp Bích vào đảng,
đề cử chức vụ chủ tịch thay thế thằng đảng viên già thoái hoá kia.
Đối với gã, Bích trẻ tuổi, nếu cho nắm quyền lớn, chắc chắn hăng say
hơn. Gã chẳng bao giờ ngờ Bích lại vướng vòng tình ái một cách đột
ngột như hôm nay.
Lúc phong trào đòi hoà bình đang lên cực điểm thì chồng Mùi bị bắt
ra bờ biển làm trạm phòng không. Mấy ngày ngâm nước lạnh giá, hôm
hoàn tất, gã về nhà lên cơn sốt và lăn ra chết ngay. Mùi trong cơn
đau xót không còn biết sợ sệt nể nang ai nữa. Nàng chửi bới ầm ĩ và
công khai nói đến việc chấm dứt gửi người vào Nam để miền Bắc được
an thân làm ăn. Xã uỷ và uỷ ban hành chánh xã biết Mùi đang đi vào
con đường phản động nhưng vì cái chết đột ngột của chồng nàng còn
quá mới, chúng đành lờ đi. Rồi chúng cũng khuyên Mùi đem con sơ tán,
nhưng Mùi mắng sa sả và bảo:
- Tôi chẳng đi đâu cả. Giời xuống đây mà bảo tôi đi tôi cũng chẳng
thèm nghe. Tôi cứ ở đây xem thằng nào, con nào làm gì được tôi nào?
Bây giờ, tất cả những câu nói ngang ngạnh của Mùi, Bích còn nhớ
nguyên và tỉ mỉ kể lại hết cho Thược nghe và tưởng rằng gã sẽ chán
Mùi vì lập trường mất cảnh giác của Mùi. Tuy nhiên, Bích đã lầm.
Thược chán Mùi không phải vì những thứ phù phiếm ấy, cũng chẳng phải
gã đã chán thịt lợn, mà chỉ vì dù sao Bích cũng là một đối tượng lạ
gã muốn thay đổi. Bích thấy mình sắp thành công, cô khôn ngoan tìm
cách để Thược bận bịu nhiều hơn ở văn phòng, ít có thời giờ trở về
với Mùi. Bích cũng biết rất rõ là Mùi không bao giờ thèm đến trụ sở
xã để tìm Thược, vì Mùi ghét nhìn mặt Bích. Buổi tối, Bích đề nghị
Thược dạy tiếng Anh cho trung đội dân quân để đề phòng trường hợp họ
bắn hạ được phi công Mỹ thì biết cách ra lệnh. Khả năng của Thược
chỉ biết được đúng mười câu ngoại ngữ mà gã đã học thuộc lòng lúc
còn trên tỉnh. Thược nhận lời dạy và rất hãnh diện. Các cô trong đội
dân quân nhìn gã bằng cặp mắt cực kỳ kính phục y như họ đang được
tiếp xúc với một học giả uyên thâm về Anh ngữ. Quanh quẩn chỉ có vài
câu mà các cô cứ vùa học vừa cười lăn ra:
- Giơ tay lên!
- Nằm xấp xuống!
- Súng lục của mày đâu?
- Cởi quần áo ra!
Có cô còn dám chọc ghẹo Thược:
- Chúng em có cần bắt nó cởi quần lót ra không hở anh?
Càng ngày Thược càng gắn bó với Bích hơn. Công tác cứu lúa làm lấy
lệ, chả có kết quả gì. Lớp Anh văn cũng chỉ là dịp giải trí mà thôi.
Đêm đêm gã ngủ ngay tại văn phòng, thỉnh thoảng chui sang buồng Bích
thì thầm vụng trộm. Thược sống những ngày lý thú bên cạnh hàng ngàn
người dân xác xơ, ưu tư. Chỉ thỉnh thoảng thoáng nghĩ đến Mùi gã mới
trạnh lòng hối hận. Nhưng rồi đâu lại vào đấy cả. Còn Bích, những
dan díu hiện tại làm cô có mặc cảm tội lỗi. Nhưng lúc bình tĩnh lại,
phấn đấu tư tưởng, giằng co ray rứt giữa nhiệm vụ và tình cảm, cô
thường thở dài tự trách mình yếu đuối và thấy không xứng đáng với sự
tin cậy của đảng uỷ. Nhưng cô lại tự bào chữa rằng trái tim ai cũng
có quyền tự do rung động, vượt lên trên sự quản lý của đảng. Cứ mỗi
đêm ái ân với Thược, sáng ra cô tự nhủ sẽ chấm dứt và để bù lại hành
vi thoái hoá ấy, cô siêng năng lao mình vào công tác, xông xáo ra
cánh đồng, thăm nom các đơn vị chiến đấu và sản xuất, cố tình quên
phứt Thược đi. Rồi buổi chiều về văn phòng trống vắng, cô lại thấy
lòng nao nao và giấc ngủ trăn trở một mình làm thời giờ trôi đi quá
chậm khiến cô chịu đựng không nổi, đành lại phải mò qua buồng Thược
hoặc làm hiệu gọi Thược sang.
Tình hình càng ngày càng khẩn trương. Nhân dân càng ngày càng lung
lạc. Bích được chỉ thị phải lập đội văn công trong chương trình
"Tiếng Hát Át Tiếng Bom" để động viên nhân dân đánh giặc. Công tác
cũng dễ thôi, bởi vì rất nhiều cô gái trong làng sẵn sàng gia nhập.
Tập hát, tập múa nhàn hạ hơn cuốc đất đắp đê. Đêm ra mắt Bích rủ
Thược đến xem và cả hai không ngờ buổi văn nghệ đầu tiên thành công
như vậy. Cô ca sĩ chính của đoàn có giọng ca rất ngọt ngào điêu
luyện. Cuối chương trình, họ kéo nhau xuống gặp Bích. Thược đứng bên
cạnh nghe Bích nói vài lời động viên. Bích khoác vai cô ca sĩ chính,
thân mật bảo:
- Mình không ngờ "cậu" hát hay như vậy! Chuyên nghiệp cũng chưa chắc
gì ăn đứt được "cậu" đấy nhé!
Cô quay sang Thược:
- À quên. Giới thiệu với Kim Lan, đây là kỹ sư Thược, về làm công
tác cứu lúa cho xã mình.
Kim Lan nghiêng đầu cười:
- Em biết rồi. Chị khỏi phải giới thiệu.
Thược nhìn Kim Lan cười:
- Vâng tôi vẫn được nghe cô hát trong giờ giải lao của đội dân quân.
Nhưng mà hôm nay cô mặc đẹp quá, tôi nhận không ra.
Rồi đám bạn bè kéo Kim Lan đi. Nàng quay lại nhìn Thược rất nhanh,
rất tình và nháy mắt giã từ.
Thế là cả Bích lẫn Mùi đều trở thành những bóng mờ trong trí Thược.
Gã bắt đầu để ý và tìm dịp gặp Kim Lan. Một hôm Thược gạ gẫm:
- Anh thấy một người có giọng hát như Lan, không phải là dễ tìm. Anh
đề nghị Lan nên tham gia Ban Văn Công chuyên nghiệp trên tỉnh. Hát
làm gì ở cái xó làng nhà quê này, ai biết mình là ai!
Lan hồi hộp:
- Nhưng mà em có biết đường nào mà mò lên tỉnh. Gặp ai ở trên ấy mới
được chứ?
Thược tỏ phong độ:
- Khi anh đề nghị với em điều ấy, tức là anh sẽ lo hết cho em. Trên
tỉnh chỗ nào anh chả quen. Trưởng toán ca múa là bạn của anh mà!
Lan hình dung ra một chân trời mở rộng đón chờ. Nàng tìm dịp gặp gỡ
Thược thường xuyên hơn và nàng cũng hãnh diện là vì mình Thược đã bỏ
cả Mùi lẫn Bích. Nàng hối thúc Thược về Tỉnh, nhưng công tác của gã
chưa hoàn tất - và có lẽ chẳng bao giờ hoàn tất nổi - gã chưa thể về
được. Bích đắng cay thấy Thược ngày càng lạnh nhạt né tránh cô. Mùi
cũng căm giận "thằng khốn nạn" nhưng kín đáo, không thèm gặp Thược
nữa. Riêng Lan những ngày háo hức đợi chờ tương lai tươi sáng đi qua
rất nhanh. Cho đến một hôm cô thấy mình đổi khác. Có nhưng triệu
chứng kỳ lạ của cơ thể, khiến cô mất ăn mất ngủ.
- Ngộ nhỡ có chửa thì tính làm sao đây?
Hàng trăm lần cô đặt ra câu hỏi ấy và tìm cách tự trả lời nhưng đều
thấy bế tắc. Cô tìm Thược thì lần nào gã cũng tươi cười trấn an:
- Đã bảo là không có gì đâu mà hãi!
Lan bắt đầu khóc nho nhỏ:
- Anh thì lúc nào cũng nói thế! Em mà chửa hoang thì chắc là em chết
mất thôi. Mẹ em đánh em chết mất thôi!
Thược đứng yên, gã cũng hơi lo. Lan nắm áo tha thiết:
- Anh, có làm sao không anh? Nếu chẳng may em... thì anh tính thế
nào?
- Lo gì! Thì anh cưới em chứ sao!
Lan lau nước mắt:
- Thật nhé! Anh thề đi nhé! Không thì em chết mất.
Giá cứ ở bên Thược mà nghe những lời hứa hẹn thì Lan cũng tạm quên
cảnh ngang trái hiện tại. Nhưng mỗi khi về nhà, nằm một mình quạnh
quẽ, theo thức trong căn buồng vắng, bao nhiêu cảnh tối đen lại hiện
ra, bám chặt lấy Lan. Một cô gái trẻ đẹp, con đường văn nghệ đang
lên, bỗng chốc vác cái bụng vô thừa nhận... nàng cố quên nhưng ám
ảnh cứ đè nặng giấc ngủ đầy ác mộng. Rồi thằng đàn ông sở khanh kia
nó cuốn gói về tỉnh thì biết đường nào mà tìm. Cô lại tự trách mình
ngây thơ: đã biết rằng Thược từng phụ bạc Bích và Mùi, mà vẫn cứ lao
vào. Hoá ra chửi đàn ông là sở khanh, nhưng thực ra sở khanh là do
chính đàn bà cứ lăn vào, bời vì ai cũng chủ quan cho rằng "nó lăng
nhăng là lăng nhăng với ai kia, chứ mình là số một ở trên đời này
rồi, làm sao nó còn bỏ được!". Lan chán nản việc tập hát, tránh gặp
bạn bè. Tính hồn nhiên, ngồi đâu cũng cười cũng hát bỗng đột ngột
biến mất. Ở nhà, cô né tránh cả người mẹ, làm như mẹ cô đã nhìn thấy
rất rõ tội trạng của đứa con hư.
Nhưng chẳng có đứa con gái nào, dù khôn ngoan kín đáo đến mấy có thể
giấu được đôi mắt người mẹ. Một hôm bà nhìn Lan từ đầu đến chân, dò
xét dáng điệu, cử chỉ và tấm thân mất vẻ gọn gàng mà bà đã ngờ ngợ
ít lâu nay. Bà chưa cất tiếng hỏi thì Lan đã oà lên khóc. Bà nghiến
răng ken két:
- Con kia! Con đĩ thổ tả voi dày kia! Mầy đổ đốn ra rồi phải không?
Nói ngay kẻo bà giết chết tươi bây giờ!
Bao nhiêu nét hiền hoà thường nhật ở người mẹ đã biến mất. Ôi! đứa
con gái đẹp nhất làng mà bà vẫn kỳ vọng, sao lại thế này! Cả làng
này đàn ông đi biệt tăm hết rồi, chỉ còn dăm ba đứa cán bộ vừa già
vừa xấu, làm sao con gái bà lại có chửa. Bà đau xót nghĩ đến đứa con
như "cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán thằng Mường nó leo". Bà túm
lấy tóc Lan:
- Thằng nào? Thằng con nhà nào? Nói mau! Giời ơi là giời! Khổ thân
tôi chưa!
Lan chẳng còn giấu diếm gì được nữa. Nàng sụt sùi kể hết câu chuyện
của mình với Thược. Bà tát Lan ngã văng vào góc phòng rồi nhìn ra
cửa, mím môi hỏi:
- Nó ở đâu? Bây giờ nó ở đâu?
Lan sợ hãi:
- Mẹ tìm anh ấy làm gì?
- Làm gì hở? Tiên sư bố nhà mày, mới nứt mắt ra đã ngứa nghề. Tao sẽ
tìm nó. Muốn yên thân thì phải cưới mày, không thì tao xé xác ra!
Giữa lúc ấy, Thược đến gặp Bích trình bày về công tác và xin Bích tờ
giấy chứng nhận để trở về tỉnh, vì lý do cơ sở thiếu thuốc trừ sâu
rầy, gã không thể hoàn thành nhiệm vụ được. Bích căm giận tím ruột,
nhưng trưóc mặt nhân viên tụ tập tại văn phòng, vẫn phải ra vẻ tự
nhiên, khất khước vài hôm nữa để liên lạc về huyện xem có thể xin
được thuốc hay không. Thược trở về phòng riêng, nghĩ đến Lan. Gã
cũng biết chắc là Lan đã có bầu và chính gã đang lo âu tính kế chạy
làng.
Hai hôm sau, giữa trưa nắng chang chang, Thược đang cắm cúi ngoài
cánh đồng thì thấy bóng bốn người đàn bà xếp hàng một, lù lù tiến
đến. Gã trố mắt kinh ngạc. Mùi, Bích và cả Lan, sao lại thân mật đi
bên nhau thế kia? Một người lớn tuổi, lạ mặt, dẫn đầu mà Thược không
biết đó là bà mẹ của Lan. Bà vác một cái đòn gánh dài, Bích và Mùi
mỗi người mang theo cây chổi, còn Lan xách một thùng nước. Thược
đang ngơ ngác nhìn thì người đàn bà lớn tuổi đã xông tới quát lớn:
- Tiên sư cha thằng sở khanh! Đánh bỏ mẹ nó đi!
Miệng nói, tay đập. Cây gậy trong tay bà liên tiếp giáng xuống những
đòn hận thù lên đầu, lên lưng Thược. Bích và Mùi cũng giơ chổi lên
phang, miệng léo nhéo chửi. Thược vừa đỡ gạt vừa bỏ chạy. Nhưng họ
vây tứ phía, vả lại đất ruộng bùn ngập gần đầu gối, gã đành đứng
chịu trận. Khi đã nhũn mềm vì đòn thù, gã lảo đảo ngã xuống. Chiếc
thùng nước từ tay Lan hất mạnh vào mặt gã. Gã thấy một mùi vị kỳ lạ
gã chưa bao giờ nếm qua, vừa mặn vừa chua, có lẫn mùi khai nồng nặc.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện tình trái
ngang
Khối diễn hành
Bãi tập
Lễ mãn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
Tình Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
Vì hai chữ Tự Do
Nghìn trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào lòng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển bão tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vuì quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giã từ
vũ khí
Mối tình đầu
Tình lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện tình
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc tình
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người còn
nhớ hay người đã quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
BÌNH-TUY,
những ngày cuối cùng...
Tình Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và hòa bình
Tây
Ninh, chút còn lại trong lòng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi dòng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Trìu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Bão Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một dòng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện tình của một
Phi Công
Hai vì sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người tình
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái Bình Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Ðội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện tình
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
Tìm
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Gãy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ Hình Của Chính Mình
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy còn
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Dòng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa qua những tình khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn còn đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hãy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương tình
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những giòng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư tình của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nhìn được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư tình
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời còn dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba dòng nước mắt
Những xác chết trên mãnh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính gãy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện tình khoai lang
Tâm tình
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm tình
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xã đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi tìm Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất tình
Dấu "Hỏi Ngã"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ý yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
Tình... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ tình
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi dòng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi tìm tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hãy giúp tôi
Con còn nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ tình
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà nòi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái tình
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ còn một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một mình
Hãy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Hòa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc tình
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nhìn những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời còn vui vì có
chút tòm tem
Đôi mắt Phượng
Ngưòi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
Tình già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân tình
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài vòng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
Tình người
Hồi ký của một người Hà
Nội
Tình nghĩa, nghĩa tình
Đôi đũa
Giòng đời... và hồi âm
giòng đời...
Không cho phép mình
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
Tình ngây dại