Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư





Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập

(Để kính dâng anh hồn đồng đội tôi đă nằm xuống để bảo vệ Thủ đô Saigon)

Ngựa đang sải vó lưng đồi
Súng gươm bỏ lại cuộc chơi nửa chừng
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Tháng tư gảy súng thấm từng nổi đau...

Ta đứng bên nầy, trông núi sông
Một trời thương nhớ ở phương đông
Đường hoa theo dấu chân luân lạc
Một gánh giang san khóc hộ chồng
Một ngày tan nát bao thân phận
Nửa kiếp lưu vong tối mặt mày
Cũng thử đưa cay bằng chiến trận
Ói toàn uất hận lúc xuôi tay
Bạn bè c̣n lại bao nhiêu đứa
Đứa c̣n, đứa mất chẳng ai hay
Chí lớn cùng đường, tài bỏ xó
Anh hùng bạt mạng, vợ con lo
Nhớ quê chửi nát mồ ma đỏ
Một nắm xương khô đẫm máu đào
Nh́n nhau bổng thấy quê hương củ
Ngh́n trùng rực rở núi sông xưa
Vết đau ngày tháng c̣n mưng mủ
Giọt lệ bên đường mặc gió mưa
Ví thử xuân xanh c̣n rực lửa
Cũng đành dâng hiến trọn non sông
Và em, sẻ một đời tựa cửa
Nh́n qua lục địa để ngóng trông.


Sau trận Khánh Dương, Ban Mê Thuột, Tiểu đoàn 2 pháo binh Nhảy Dù về hậu cứ Nguyễn Huệ, Long B́nh để tái bổ xung, và được tái trang bị 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu củ M2A1 từ thời đệ nhị thế chiến, tôi được chỉ định thành lập lại pháo đội B2 với quân số gần 100 người trong đó khoảng 20 người từ pháo đội chỉ huy đưa sang, c̣n lại bổ xung toàn là lao công đào binh và quân phạm đủ gốc lính từ quân lao G̣ Vấp.
Lệnh trên đưa ra phải huấn luyện tác xạ cấp tốc tại đơn vị và không bắn đạn thật, v́ t́nh thế sôi động có thể hành quân bất cứ lúc nào, không c̣n sĩ quan huấn luyện, một ḿnh tôi làm tất cả mọi chuyện cho pháo đội. Một tuần sau, ngày 29 tháng 4 năm 1975, lệnh hành quân đưa ra, về Saigon bảo vệ thủ đô. Thông thường một pháo đội Dù đóng quân th́ có một đại đội Dù tác chiến bảo vệ, lần này th́ không, lệnh trên cho biết phải tự bảo vệ. Cho thấy t́nh h́nh quân số trừ bị của Nhảy Dù coi như cạn.

Từ Long B́nh theo xa lộ Đại Hàn, pháo đội tôi chiếm đóng sân vận động Cộng Ḥa ở đường Nguyễn Kim vào xế trưa, người quăn nhiệm sân vận động ngơ ngác khi thấy pháo đội tôi kéo vào sân. Sau khi hướng bắn đă sẳn sàng một ṿng cung về phía Sư Đoàn Nhảy Dù, Bộ Tổng Tham Mưu, và Dinh Độc Lập, tôi cho lệnh đóng cửa sân lại, người quăn nhiệm năn nỉ cần phải ra vào làm nhiệm vụ nên xin giử ch́a khóa, và tôi bằng ḷng. Thượng sĩ Thọ, thường vụ pháo đội nói đùa với tôi: "Trung úy định tử thủ". Tôi trả lời không vào câu hỏi: " T́nh thế lộn xộn, coi chừng địch trà trộn xin vào sân, nên phải đóng cửa, anh cho con cái lên hết trên khán đài, dàn súng cá nhân và lựu đạn sẳn sàng, c̣n các các khẩu th́ trực tại chổ, sẳn sàng tác xạ."

Hơn 2,000 quả đạn pháo tôi cho tháo ra khỏi thùng và gắn đầu nổ. Lúc này tôi cũng hơi lo, phát pháo đầu tiên của pháo đội để bảo vệ Thủ đô sẻ do những pháo thủ trời gầm đất lỡ mới vào nghề như thế này bắn, thiệt đă. Ngoài các khẩu trưởng và ngắm viên là có kinh nghiệm c̣n lại toàn tay mơ, pháo đội tôi toàn là thứ dữ từ quân lao xá tội vào giờ chót đưa về, tôi cũng không có th́ giờ để mà hỏi han, chỉ cho một số anh em mới về đi phép hai ngày với lời dặn ḍ nếu các anh căm thấy có bổn phận của một người lính trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này th́ về lại đơn vị đúng ngày giờ, nếu không th́ đào ngủ luôn chứ về trể th́ đừng trách. Đ̣n tâm lư có hiệu quả, không có một người nào trể phép, tôi mừng lắm, ít ra giờ chót tôi c̣n cả trăm tay súng sẳn sàng sống chết với ḿnh. Họ có biết về Dù là đeo tử bài trước ngực hay không tôi không rỏ, chứ biết rỏ họ đă thấm kỷ luật của Nhảy Dù. Gần trưa ngoài cổng có một người xin vào, vị này là Trung úy Nam của Trường Quân Báo Cây Mai, ông dẫn đứa con trai là Trung sĩ nhất Liêng đi phép trể không dám về tŕnh diện đơn vị nên nhờ bố dẫn vào, tôi bằng ḷng cho Liêng về lại pháo đội làm khẩu trưởng khẩu 3 tức là khẩu chuẩn, đồng thời nhờ Trung Úy Nam giới thiệu và chở xe Honda đến một tiệm tạp hóa gần đó để mua chịu thực phẩm, v́ một khi đụng lớn có hể không tiếp tế được. Người chủ tiệm bằng ḷng và nói lúc nào cũng sẳn sàng giúp đở Nhảy Dù. Đến trưa th́ có một pháo đội Biệt Động Quân Biên Pḥng do một vị Thiếu Tá chỉ huy kéo vào xin đóng quân. Tôi gọi Tiểu đoàn tôi báo cho biết rồi mời vào. Tôi cũng xin lỗi vị chỉ huy này rồi nói thẳng, nếu có ǵ lộn xộn xin đừng chạy về hướng pháo đội tôi v́ tôi sẻ trực xạ nếu Việt cộng đánh vào. Để tránh bị Việt cộng trà trộn, coi như hai vị trí pháo biệt lập, cũng không liên lạc hàng ngang bằng tần số truyền tin.

Đến lúc này th́ sân Cộng Ḥa đă trở thành một địa điểm t́m đơn vị bị thất lạc. Hàng ngàn nếu không nói là hàng mấy ngàn binh lính, sĩ quan của nhiều quân binh chủng mà nhiều nhất là lính Biệt Khu Thủ Đô bị lạc đơn vị nghe tin Nhảy Dù về sân Cộng Ḥa nên họ tự động t́m đến. Họ đến t́m đơn vị không thấy rồi lại đi, không hiểu sao họ biết có chúng tôi ở đây mà t́m đến, có người c̣n súng có người không, đa số là tay không lặng lẽ đi ngang pháo đội tôi nh́n vào, c̣n các pháo thủ của tôi th́ súng cá nhân đă lên đạn đề pḥng Việt cộng giả dạng đánh úp. Lúc này mà tôi yêu cầu những anh em c̣n súng và thất lạc đơn vị này hảy ở lại bảo vệ cho chúng tôi bắn, chắc chắn họ sẻ bằng ḷng, nhưng t́nh thế hết sức phức tạp hiện nay không tiện yêu cầu điều này. Đến xế trưa, một chiếc trực thăng UH1B bị lạc đơn vị đáp xuống giửa sân hỏi han tin tức rồi lại bay lên ( Sau này đi tù chung gặp mặt kể lại mới biết tên là Đại úy Trần Văn Phước ở gần nhà chúng tôi). Lúc này trên bầu trời bổng có nhiều chiếc trực thăng khác bay từ biển vào hướng ṭa đại sứ Hoa Kỳ rồi lại bay ra, tôi biết họ đang di tăn, bỏ của chạy lấy người.

Đến tối tôi cho đóng cửa sân lại rồi leo lên khán đài chính nh́n về phía Saigon ḷng buồn vô hạn. Tôi sinh ra và lớn lên giửa ḷng Thủ đô, cuộc đời tôi gắn liền với Saigon, từng hàng cây góc phố, từng con đường nhỏ thân quen tiếng gọi ḿ ban đêm, con đường Lê Thánh Tôn ngập lá me bay buổi sáng vẫn c̣n đây, ḍng sông tuổi thơ của tôi thật êm đềm trôi trên hè phố sau giờ tan học vẫn c̣n đó, gần hơn chút nửa là ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu, nơi tuổi trẻ tôi ươm biết bao nhiêu mộng mơ, rốt cục cũng ch́m vào cơn lốc chiến tranh. Saigon máu thịt quê hương tôi đang hấp hối. Saigon của tôi đang bị bức tử. Giờ này tôi không c̣n nghe tiếng đại bác ru đêm, tất cả các ngơ vào Saigon đă bị phong kín, cơn hấp hối này sẻ có tôi tham dự như một chứng nhân nếu c̣n sống sau chinh chiến, hay sẻ nằm xuống tức tưởi nghẹn ngào. Ḍng suy nghỉ miên man đưa tôi trở về với gia đ́nh, hai đứa con nhỏ và Thụy Trang yêu dấu của tôi đang ở cách tôi chỉ khoảng mười phút xe, em giờ này chắc đang lo sợ và có thao thức như anh không, chắc em cũng hiểu tại sao đến giờ phút này anh vẫn c̣n cầm súng, con người ta ai cũng có số phận, và những người lính quốc gia cầm súng đang bảo vệ Thủ đô đă chọn cho ḿnh một số phận, hiên ngang đi nốt con đường khổ nạn của dân tộc, nếu anh có bề ǵ th́ ráng nuôi con, sau này bảo bố nó là lính Nhảy Dù, chết để bảo vệ thủ đô.

Những tràng súng lẽ tẻ từ các nơi dội về, tôi leo xuống khán đài trở về đài tác xạ, giở xấp bản đồ miền Tây ra nh́n không biết bao nhiêu lần, cả Quân khu 4 vẫn c̣n nguyên, cùng lắm là Tiểu đoàn tôi sẻ rút về đây. Nhưng chuyện này đă không xảy ra, quân lực Việt Nam Cộng Ḥa đă bị bức tử. Có nhiều điều đă báo trước sự phản bội của Hoa Kỳ, khi Kissinger thả những quả bóng bàn ngoại giao lăn lốc cốc tại Bắc Kinh năm 1971, sửa soạn cho Tổng Thống Nixon bay qua Thượng Hải kư thông cáo chung b́nh thường hoá ngoại giao giửa Hoa Kỳ và Trung cộng th́ mọi chuyện đă an bài, cộng sản xưa nay kư thông cáo chung bao giờ cũng phải có điều kiện, phải có món quà ra mắt, đó là lư do Hoàng Sa của Việt Nam lọt vào tay của Trung cộng ngày 19 tháng 1 năm 1974 trong khi hải quân Hoa Kỳ nằm bất động tại biển Đông, mặc dù có lời cầu cứu từ hải quân Việt Nam Cộng Ḥa. Từ đó, chúng tôi biết miền nam Việt Nam sẻ bị bỏ rơi, và Saigon không thể mất trừ khi có phép lạ. Anh em Nhảy Dù chúng tôi đều biết sẽ có ngày về bảo vệ Thủ đô và đánh một trận cuối đời thật oanh liệt, có chết cũng cam ḷng, nhưng không bao giờ dự trù bị buông súng tại đây, và ngày đó hôm nay, đă đến..

Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều tiếng nổ lớn như là hoả tiển 122 ly về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, bầu trời bổng nhiên thấp xuống thật u ám như sắp để tang cho một chế độ, những người lính lạc đơn vị lại kéo về sân Cộng Ḥa rồi lại lủi thủi ra đi, những giờ phút cuối đời lính, họ như những con đại bàng bị tiễn thương, đang cố gắng vỗ đôi cánh gẩy lần chót t́m về cái tổ ấm quân đội khét mùi thuốc súng, v́ quân đội là ngôi nhà thứ hai của họ, ở đó họ mới có thể cầm súng để bảo vệ tổ quốc, họ cũng chính là tôi, là lính. Gần 10 giờ sáng, những tràng đại bác đầu tiên của Pháo Đội A và Pháo đội B của Tiểu đoàn tôi ở Trường đua Phú Thọ bắt đầu bắn, điện văn xin tác xạ từ các nơi gọi về Tiểu đoàn tới tấp. Các đơn vị của Lữ đoàn 4 Dù, của Biệt Động Quân đang đụng địch, 6 khẩu đại bác 105 ly của Pháo đội Biệt Động Quân nằm kế bên cũng đă tác xạ, khói bay ngược về phía chúng tôi. Tôi cho cả pháo đội quay ṇng về hướng bắn sẳn sàng tác xạ và khẩu chuẩn đặt giửa cột gôn nạp một quả đạn khói đạn khói, một lúc sau Thiếu Tá Nguyễn Kim Việt, Trưởng ban 3 cho điểm tác xạ bắn theo yêu cầu. Lúc này đạn lớn đạn nhỏ nổ ran về phía Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, hướng Bà Điểm và nhiều nhất là khu Ngả Ba Hàng Xanh, c̣n Dinh Độc Lập vẫn yên tĩnh. Những chiếc trực thăng Mỹ từ đệ thất hạm đội vẫn c̣n tiếp tục bay về hướng Toà đại sứ cùng với những chiếc Cobra bay bảo vệ nhưng không nghe tiếng bắn từ phi cơ.

Mặc dầu tôi chưa bắn, nhưng Tiểu đoàn bổng ra lệnh "check fire" (ngưng bắn). Một lúc sau, tôi gọi về Tiểu đoàn nói bằng bạch văn "Hướng bắn của tôi đâu có gần mấy con chuồn chuồn, tôi thấy rỏ bằng mắt thường, bảo đảm bắn không rớt tụi nó đâu, đích thân cho tác xạ đi". Thiếu Tá Việt bảo "Đợi". Tôi buông ống liên hợp xuống, ngao ngán. Đến giờ phút này, chính phủ hai ngày lộ mặt phản quốc, sợ pháo binh Nhảy Dù bắn rơi máy bay Mỹ nên ra lệnh check fire, tiện thể là check fire luôn không cho bắn vào Việt cộng đang đánh vào các đơn vị pḥng thủ Saigon. Tôi nh́n vào xạ bảng, những điểm cận pḥng mà tôi đă chấm chung quanh Dinh Độc Lập, đă làm yếu tố tác xạ sẳn sàng như đang nhảy múa trước mắt tôi. Tôi ra lệnh cho 5 khẩu c̣n lại nạp đạn nổ mạnh và chờ đợi, đồng đội tôi đang ngả xuống oanh liệt để bảo vệ thủ đô, c̣n chúng tôi th́ bị khóa họng, không yễm trợ cho họ được, giống hệt như trận Charlie năm tháng 4/1972. Đợi một lúc nửa, tôi bước ra đài tác xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn lâu quá sao chưa bắn vậy Trung úy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy chiếc trực thăng nói tại tụi nó đó.

Vừa lúc đó Hạ sĩ nhất Thạch truyền tin chạy ra gọi tôi: "Trung Úy, ông Minh đầu hàng rồi". Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio, tiếng Tổng Thống hai ngày, Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một nhát dao đâm vào tim mọi người. Tôi gọi máy về Tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp không, hay tan hàng, hoặc bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn tôi mới thi hành chứ không hạ ṇng đâu. Thiếu Tá Việt bảo đợi đấy. Độ 5 phút sau, tôi bước ra cửa đài tác xạ nh́n ra ngoài, các đơn vị bạn trong sân Cộng Ḥa tự động tan hàng, sáu khẩu đại bác của Biệt Động Quân vẫn c̣n cất cao ṇng, nhưng toàn thể đă lục tục rời vị trí, những người lính anh dũng của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa đi ngang qua chúng tôi hết sức buồn bả. Những con đại bàng một thời oanh liệt nam chinh bắc chiến đă thật sự gảy cánh tháng tư, phát súng phát ra không phải từ Hà Nội mà từ Washington DC đă bức tử cả một quân đội anh hùng, 21 năm nay, Việt cộng đâu có làm ǵ được chúng tôi, chỉ một phản bội của đồng minh thôi đă làm tan nát cả một quốc gia. Từ năm mùa hè đỏ lửa 1972 đến nay, tại B́nh Long, Kontum, Trị Thiên, một ḿnh quân lực Việt Nam Cộng Ḥa đă anh dũng chống lại cả một khối cộng sản tế hung hản, đáng tan tành bọn chúng, không anh hùng sao được.

Lúc này, tại đây, chỉ c̣n pháo đội của tôi, những người lính của giờ thứ 25 của cuộc chiến vẫn không chịu rời đơn vị, trừ hai người xin phép về thăm gia đ́nh rồi kẹt luôn, c̣n th́ hiện diện đầy đủ, hai hôm nay, họ chỉ cần bước ra khỏi sân vận động là về với gia đ́nh, và ngay bây giờ họ cũng đă có quyền này, tại sao lại c̣n đứng đây? Họ là Nhảy Dù, cũng như tôi, họ đang đợi lệnh. Không ai có thể ra lệnh cho tôi buông súng trừ cấp chỉ huy trực tiếp. Ngay lúc đó, Thiếu Tá Tiểu đoàn phó, Đỗ Tiến Hóa, chạy xe Jeep đến ra lệnh cho tôi tan hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội quay ṇng về trại Hoàng Hoa Thám để chào tạm biệt , rồi gọi Liêng vào ra lệnh :" Anh cho tất cả pháo đội, quần áo chĩnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi tôi ra, bồng súng chào tŕnh diện quân số, đợi lệnh".

Khi tôi ra trước hàng quân, pháo đội đă sẳn sàng tư thế chào kính, 6 khẩu đại bác vẫn giương cao ṇng, những người lính bồng súng chào thật nghiêm trang, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh cấp chỉ huy một cách tuyệt đối. Tôi nh́n anh em và tiếc nếu có lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ lúc này, tôi đă cho cử hành lễ chào quốc kỳ ngay lập tức. Tôi cắn chặt đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc v́ trong ḷng hết sức thương căm, những người lính của tôi, có người mới về đơn vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh cấp chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em nghỉ và nói: " Tôi thi hành lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc này sẻ làm cho anh em rất đau ḷng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành lệnh, sau này chắc chắn là anh em sẻ gặp rất nhiều khó khăn, là chiến sĩ Nhảy Dù anh em hảy noi theo truyền thống binh chủng, cố gắng mà sống". Sau đó tôi cho pháo đội hạ ṇng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân th́ xếp thẳng hàng trên ba lô như thể đang nghỉ ngơi sau những giờ huấn luyện tác xạ. Các khẩu trưởng hỏi tôi có dùng lựu đạn lân tinh phá ṇng đại bác hay không, tôi lắc đầu. Thạch lại hỏi tôi c̣n đài tác xạ th́ sao, tôi cũng lắc đầu nói để nguyên.

Pháo đội tôi đâu có đầu hàng hay bị tràn ngập, bị địch tràn ngập mới phải phá súng, phá đài tác xạ, chúng tôi đă chiến đấu và đang giờ nghỉ mà, pháo đội tôi chỉ tạm nghỉ cuộc chơi. Lính quốc gia không bao giờ đầu hàng cộng sản, họ chỉ bị bức tử phải buông súng và tạm nghỉ cuộc chơi.

Từng anh em binh sĩ hạ sĩ quan chào từ giả tôi, một đệ tử ruột đ̣i đi theo tôi trở về nhà, tôi không cho và nói đi theo tôi rất nguy hiểm. Trong khoảng khắc, sân Cộng Ḥa không c̣n một bóng người, chỉ c̣n ḿnh tôi trở vào nhà viên quăn thủ sân xin một bộ đồ civil, vào đài tác xạ thay đồ trận, xong, tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những khẩu đại bác gióng thẳng hàng bên cạnh súng cá nhân M16 và quân trang của đơn vị tôi c̣n đó như bật lên một sức sống mănh liệt, một phần đời tôi ở trong đó đang thức dậy nổi căm phẩn, quê hương tôi rồi đây phải gánh chịu nổi đau mất nước về tay cộng sản khát máu, niềm uất hận này không bao giờ tan. Tôi buồn bả quay gót trở về nhà, không dám quay lại nh́n pháo đội một lần chót, v́ nh́n nửa tôi sẻ khóc. Anh em quân đội chúng tôi đă cố gắng làm tṛn bổn phận của ḿnh trong giai đoạn đau thương của đất nước, nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này, v́ tôi c̣n phải cố gắng để sống, để viết sau này, và nhớ đó, trong bộ đồ dân sự, tôi vẫn c̣n là một người lính nguyên thủy.

Hơn ba mươi năm qua, mổi năm đến ngày này, tôi lại khóc, không phải giọt nước mắt của những con đại bàng gảy cánh tháng tư, v́ những người lính quốc gia đă tận lực làm tṛn bổn phận đối với tổ quốc, được toàn dân ngưỡng mộ, và không có việc ǵ phải hối hận phải khóc v́ không giữ được nước, v́ cuộc chiến này là do quốc tế cộng sản và bàn tay lông lá đạo diễn, dân tộc ta chỉ là con cờ trên một bàn cờ đă xếp sẳn nước đi. Những giọt nước mắt của người lính quốc gia rơi xuống để khóc thương cho đất nước từ nay thống khổ dưới gông cùm cộng sản, chứ không phải than khóc cho số phận của ḿnh, v́ một khi vào quân đội dâng hiến đời ḿnh cho tổ quốc là chấp nhận mọi hy sinh mất mát cho bản thân ḿnh, do đó mới bảo vệ được miền nam tự do cho đến ngày bị bức tử.

Cộng sản Bắc Việt được quốc tế dàn xếp để Dương Văn Minh ra lệnh buông súng ngày 30/4/1975, chứ đâu có tài cán ǵ chiếm được miền nam, 21 năm nhận lệnh của cộng sản quốc tế xâm lược miền nam, lính cộng sản chết gấp chục lần so với lính cộng ḥa, nếu tiếp tục cuộc chiến th́ tất cả thanh niên miền bắc sẽ đời đời "sinh Bắc tử Nam". Năm 1972, sau những đợt Mỹ không kích miền bắc thật ác liệt, hồ sơ giải mật cho thấy Hà Nội đă gửi điện văn đầu hàng, nhưng Mỹ lờ đi v́ nhu cầu giải quyết chiến tranh lạnh toàn cục, Mỹ bắt tay với Trung cộng để ly gián Liên Xô, và đă thành công, cộng sản quốc tế bị tan rả sau khi Nga Sô sụp đổ năm 1989 và khối cộng sản Đông Âu cũng tan rả theo sau đó. Nếu năm 1972 Mỹ chấp nhận cộng sản Bắc Việt đầu hàng, Mỹ tất phải gánh vác cuộc chiến trầm trọng hơn nửa v́ Nga Tàu sẽ đoàn kết lại, thúc đẩy cộng sản Bắc Việt tiếp tục cuộc chiến sau đó, và chiến tranh lạnh sẽ tiếp tục. Trung cộng biết được nước cờ của Mỹ và ngăn cản Hà Nội không được chiếm Saigon, nhưng Hà Nội ngả theo Nga quyết đánh đến cùng, Mỹ phụ họa Hà Nội bằng cách ngưng viện trợ cho Saigon, và kết quả đúng như bàn cờ Mỹ đả đi. Miền nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản và khối cộng sản quốc tế bị tan rả sau đó. Đồng bào cả nước ta bị bưng bít nên không nh́n thấy rỏ điều này.

Sau chiến tranh, Việt cộng đă trả thù đồng bào miền nam Việt Nam hết sức khốc liệt v́ đă không theo chúng, Việt cộng đă d́m cả một dân tộc vào nghèo nàn, lạc hậu, và mất tự do, gái th́ đi làm măi dâm, trai th́ đi làm cu li khắp thế giới, cái tự xưng là đỉnh cao trí tuệ loài người đang ngồi tại Hà Nội đă hèn hạ bán đất dâng biển cho Tàu cộng, quỳ gối làm tôi mọi cho chúng, bảo ǵ cũng phải nghe, cuộc chiến vừa qua đă không mang lại chiến thắng cho ai, chỉ có dân tộc Việt Nam là thua.

Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại