Mấy tháng liền, bỗng dưng tôi trở chứng rơi về lại tâm trạng “bời rời”, chán chường đă khiến tôi gần như liệt tay không cầm nổi bút, cách đây 17 năm, lúc tôi c̣n viết bài bằng bút lông, cho đỡ chai mấy ngón tay. Lúc bấy giờ chẳng rơ v́ sao, nhưng kết quả là tôi ngưng viết cũng đến hơn 10 năm…Phải chăng nhờ sắm máy điện toán -cách đây vài năm thôi, quá muộn màng- mà tôi viết trở lại được chăng? Có phần đúng. Nhưng tôi nghĩ đa phần là do tôi chứng kiến những điều quá “xốn mắt” ở quê nhà qua lần duy nhất quay về quê cha đất tổ 6 năm trước đây, sau 28 năm biệt xứ…
Rồi bỗng nhiên tôi lại mất cảm hứng, mất hăng say nữa! Tuổi tác? Sức khỏe? Hay c̣n nguyên do ǵ khác? Khủng hoảng niềm tin về mọi thứ, kể cả niềm tin vào chính ḿnh…chăng?
Rồi đột nhiên hôm nay tôi lại ngồi vào máy bắt đầu gơ, gơ chưa có
chủ đề nhưng cảm thấy có nhu cầu gơ! Một vài “biến cố” dồn dập đánh
động tâm khảm tôi, kéo tôi ra khỏi trạng thái ù ĺ, dật-dờ-mê-muội
(léthargique) nhất thời …
*
-Anh Lộc hả? Biết ai gọi anh không?
-Nghe giọng quen quen, nhưng sao hơi đớt đớt vậy?
-Quâng đây. Nguyễn Viết Quâng-Collège de Vĩnh Long…
-Hồ Trường An! Trời ơi! Sao bặt tăm hơn chục năm vậy? Lặn kỹ dữ!
-Anh ơi! Tôi bị tai biến mạch năo…
-Trời đất! Hồi nào? Sao chẳng ai cho tôi hay hết vậy?
-Cách đây chừng sáu tháng. Tôi từ San Jose về nhà, đột nhiên ngă quị. May mà trở tay kịp, đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nếu không…
-Bây giờ t́nh trạng bạn sao rồi?
-Tôi c̣n ngồi xe lăn nhưng có thể chống gậy đi chút đỉnh. Sắp tới tôi sẽ trở lại Trung Tâm Tái Thích Ứng (Centre de Réadaptation) luyện tập thêm đi đứng và “học lại” cách sử dụng máy điện toán, tạo cơ hội cho trí óc làm việc để trí nhớ được văn hồi lần lần. Nhân tiện “tập lại” cách phát âm cho đỡ đớt đát…
-Bạn sẽ tiếp tục sáng tác?
-Phải. Anh biết không, tai nạn xảy ra khiến tôi quên tuốt luốt một
số lớn sáng tác dở dang và bây giờ không cách chi tôi khôi phục
chúng được nữa. Dù t́nh trạng sức khỏe chưa mấy khả quan, tôi cảm
thấy cầm viết trở lại vẫn c̣n là nhu cầu cấp thiết đối với tôi…
HTA tiếp tục kể những gian truân, khốn đốn trong thời gian nằm điều
trị. Bernard, “chồng” của bạn tôi bỏ phế mọi công việc ở thư viện,
ngày đêm túc trực bên “vợ”, lo lắng đến độ bị stress, gây rối loạn
đường tiêu hóa, phải nằm bệnh viện mấy tháng trời. Cả hai “vợ chồng”
nằm liệt giường cùng lúc! Nghe bạn tâm sự, tôi động tâm đến thốn
tim. Và mọi định kiến tiêu cực của tôi lâu nay về những người đồng
tính luyến ái bỗng nhiên tan biến hết. Chưa chắc những cặp vợ chồng
“hétéro” thường được coi như “b́nh thường” đối xử với nhau trọn t́nh
trọn nghĩa hơn đôi bạn “homo” Bernard-An, thường bị dán nhăn “bất
thường” nầy…
HTA là bạn cùng lớp với em tôi, Lê Tấn Kiệt (Kiệt Tấn). Cả hai đều
định cư tại Pháp, KT ở Bagnolet, ngoại ô Paris, HTA, Troyes. Tuy là
bạn thân từ thuở c̣n học trung học, những lúc sau nầy hai đứa ít khi
liên lạc với nhau, nếu không muốn nói là mất hẳn mọi giao tiếp.
Tôi trên chúng hai lớp. HTA đương nhiên coi tôi như người anh. Và
lúc c̣n chung trường HTA rất quí mến tôi. Sau nầy cũng thế. Nhắc về
thuở ấy, có lần HTA viết:
“Anh lại có số đào hoa . Hồi học ở Cao Tiểu Vĩnh Long, biết bao
nữ sinh lắm phen thổn thức con tim và say mê anh.(…) Anh (…) hát
giọng chánh bằng một giọng trầm ấm và vang lộng.(…) Tôi mê giọng hát
của anh Lê Tấn Lộc có một, nhưng tôi mê cái kiến thức triết học của
anh tới mười. Tôi nghĩ anh có một tâm hồn nghệ sĩ, một đầu óc phóng
khoáng, một kẻ chống lề lối cứng ngắc, chống những giáo điều khắc
nghiệt khô khan, một anticonformiste(…)
Vào năm 1958, tôi có viết cuốn tiểu thuyết đầu tay mô tả một anh
chàng đồng tính luyến ái mới vào tuổi hoa niên. Tôi có nhờ anh Lộc
góp ư kiến, nhứt là ở chót đưa anh chàng sống lại cuộc đời b́nh
thường như bao nhiêu đàn ông dị tính luyến ái khác. Anh Lộc sẵn sàng
nhuận sắc dùm tôi trên mười chương, nhưng ở chương chót, ảnh lắc đầu
(…)Tuy nói vậy, nhưng anh Lộc vẫn giúp tôi sửa chương chót. Quyển
sách hoàn thành.
(…) Về sau, tôi được biết, khi c̣n ở trại cải tạo, anh Lê Tấn Lộc
sáng tác nhạc.(…) Anh viết bút kư, phóng sự rất hay, óc quan sát
tinh nhuệ. Anh c̣n viết truyện ngắn, giọng văn dí dỏm, ngay cả những
cảnh khổ mà văn anh như những tia nắng reo cười”.
Nghĩ cũng lạ, HTA và tôi cũng khá nặng t́nh nghĩa. Vậy mà lại ít khi
gặp được nhau, ngoại trừ lúc c̣n chung trường ở Vĩnh Long và lúc bạn
tôi qua Mỹ Tho tiếp tục học tŕnh ở trường Nguyễn Đ́nh Chiểu, cùng
trọ một nơi với KT. Lúc bấy giờ tôi đă lên trường Jean-Jacques
Rousseau (Sàig̣n) nhưng vẫn lái Vespa xuống thăm hai đứa.
Măi 14 năm sau, tôi mới gặp lại HTA tại B́nh Dương. Lúc bấy giờ HTA là Chuẩn úy Nguyễn Viết Quâng và tôi đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng Trường Trung học Trịnh Hoài Đức. Chỉ gặp một lần duy nhứt trong một phiên họp tại Tiểu khu B́nh Dương, năm 1970. Rồi bặt tăm nhau luôn…
Cho tới năm 1989, qua Paris tôi lại lỡ mất cơ hội họp mặt với HTA v́ đêm ấy KT và tôi “quá chén lạc hoan” ngă ngựa dọc đường, không đến được điểm hẹn! Rồi 9 năm sau, HTA lại lỗi hẹn sang Canada ra mắt sách, trong khi các bạn đồng môn và tôi chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ rất chu đáo. Lư do: HTA bị bọn bất lương xô té bị thương, cướp giựt xách tay, giấy tờ tùy thân, gồm passeport, vé máy bay; dĩ nhiên tiền bạc cũng mất trọn!
Sau đó, biết bao lần sang Paris mà không lần nào tôi có dịp giáp mặt bạn tôi. Để rồi…giờ đây được bạn tôi báo tin suưt vong mạng v́ đứt gân máu! Tôi cũng đành tự an ủi là HTA vẫn may mắn chưa dứt nợ trần. Hy vọng hai đứa c̣n có cơ hội tay bắt mặt mừng nhau trước khi vĩnh viễn xuôi tay! Nhưng xem ra cũng rất vất vả. Chẳng những HTA đi đứng khó khăn mà khả năng đi đây đi đó của tôi giờ đây cũng rất hạn chế bởi đă bức khá xa tuổi “thất thập cổ lai hi”. Tôi nghĩ rằng bạn văn cũng như thân hữu khắp nơi, không ai có thể phủ nhận nhiệt tâm đóng góp công sức cho nền văn học hải ngoại, cũng như sự tận t́nh khuyến khích các “mầm non văn nghệ” hăng say viết lách của HTA.
Ước mong bạn tôi sớm b́nh phục, tiếp nối sự nghiệp văn chương của ḿnh vốn đă rất phong phú và thành đạt từ lâu. Một người bạn lâu rồi không gặp, tái xuất hiện không báo trước, suưt chút đă hóa ra người thiên cổ!..
***
-Quâng có biết Huỳnh Quang Nhựt mất rồi chưa?
-Trời Phật! Mất hồi nào vậy anh? Mà tại sao chết?
-Cũng chút năm rồi. Bệnh suy đường hô hấp (emphysème pulmonaire).
Lâu nay Nhựt thường trăn trối với KT và tôi rằng tuy luôn cười giỡn
với anh em, Nhựt vẫn có thể ra đi bất cứ lúc nào. Đi đâu Nhựt cũng
mang theo một lô thuốc men và ôm kè kè b́nh dưỡng khí! Tôi gặp Nhựt
lần cuối tại San Jose, năm 2005. Tội nghiệp, tuy t́nh cảnh khó khăn
vậy mà Nhựt cũng ráng lái xe, có vợ theo kèm -dĩ nhiên!- từ
Sacramento xuống gặp Nguyễn Đồng Danh -Danh “trại gà”- và tôi. Quâng
biết đó, tụi nầy năm đứa Thứ-Danh-Lộc-Nhựt-Kiệt xưa kia hỗn danh
“ngũ hổ” đại náo vũ trường và …t́nh trường! Bây giờ một con đă ĺa
bầy, mấy con c̣n lại cũng đă ít nhiều sứt càng gẫy gọng: Cánh tay
Thứ xưa kia từng vung gươm thiêng, “giương cung bắn ra bốn phương
trời để nói lên ư chí tang bồng hồ thỉ” -như bạn đă viết- tại vũ
đ́nh Trường Vơ Bị Quốc Gia, nay đă gần như tê cứng v́ thấp khớp, hậu
quả của mười mấy năm ngồi tù CS. Nhưng tinh thần và lập trường quốc
gia của Thứ luôn vững chắc, minh bạch, càng lúc càng bền vững, càng
lúc càng rơ rệt, dứt khoát với CS. Danh, thoát chết trong gang tấc
sau một cơn đau tim đột biến, giờ cũng ngất ngư con tàu đi nhưng
chẳng bao giờ thèm chơi tṛ tâng bốc, xu nịnh các quan kách mệnh an
nam ta “kiếm chút cháo”, rất thịnh hành trong đám việt kiều kéo nhau
về VN “vô tư” ăn chơi phè phỡn. Kiệt th́ Quâng đă quá rơ, vào ra
bệnh viện tâm lư đều chi. Tôi th́, như Quâng biết, tưởng đă đi
chuyến tàu suốt sau cơn giải phẫu tim cách đây hơn 14 năm…
Nói tới HTA, KT mà không nhắc Huỳnh Quang Nhựt là một thiếu sót đáng
kể. Bởi lẽ bộ ba nầy thuở c̣n mài đủng quần trên băng ghế học đường
đă nổi máu…văn nghệ! Hăy nghe HTA kể về người bạn vừa nằm xuống:
“Hồi học ở Cao Tiểu Vĩnh Long, nó học trên tôi một lớp. Khi học
Triết ở Sàig̣n (và sau đó ở Yersin-Đà Lạt), nó làm thơ rất nhiều,
tṛm trèm 200 bài. Nó lấy bút hiệu là Nguyễn Triết Vũ. Triết là môn
Triết nó đeo đuổi. Vũ là cô vũ nữ. Thuở đó, Nhựt say mê một cô vũ nữ
nên thơ nó có hồn lắm. Càng lớn nó càng đẹp trai giống giống Tony
Curtis. Thơ của nó được tôi và Kiệt Tấn đọc hoài hoài. Sau đó Nhựt
học Dược Khoa với tôi. Nó được tốt nghiệp, lao vào ngành doanh
thương, giàu sụ. Tôi học tới năm thứ hai th́ trượt vỏ chuối, phải đi
lính với số lương tiền lính tính liền”.
Thố tử hồ bi, nói chi tới một trong năm con hổ quị ngă! Có điều Nhựt
vĩnh viễn ra đi mà măi nửa năm sau t́nh cờ chúng tôi mới được biết.
Khi sống trên đất tạm dung, “cá tḥi ḷi” -hỗn danh của Nhựt, v́
Nhựt bị bướu cổ, mắt lồi- thường mai danh ẩn tích. Có lẽ v́ thế tang
quyến mặc nhiên muốn bạn bè thân thương coi như bạn tôi “âm thầm qua
đời, tội ác c̣n vương mang” chăng?
Khung trời thơ mộng xứ anh đào Đà Lạt đầy ắp kỷ niệm khó quên giữa
Nhựt, Kiệt, Thứ, Trinh, HNBiên, Lưu, tôi…với
Tú-nữ-bá-tước-chân-trần, nửa thế kỷ về trước, giờ đây măi măi vắng
bóng hai cánh chim thân thương: Trinh, năm 1961, tức tửi gẫy cánh
trong một phi vụ vào độ sức sống đang lên; Nhựt, năm 2008, ấm ức ĺa
đời v́ thiếu dưỡng khí cần thiết cho hơi thở trợ lực chuyển máu luân
lưu trong cơ thể, hụt hẫng, chao đảo rơi rụng xuống vực sâu đỉnh Lâm
Biên…
***
Đă nhắc tới Đà Lạt không thể không nghĩ tới hai khuôn mặt rất
“văn(học)nghệ (thuật)” của Viện Đại Học Đà Lạt thời xa xưa, cho tới
nay vẫn c̣n đậm nét trong kư ức ngày càng hao gầy của tôi, “chàng”
thư sinh năm nào c̣n ngơ ngơ ngáo ngáo rời Sàig̣n lên chốn muôn thuở
mù sương, với đồi non thung lủng chập chùng vây quanh thành phố, với
rừng thông ŕ rào, với suối reo róc rách, với thác đổ cuồng nộ không
ngưng nghỉ: Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Xuân Hoàng!
Hai mươi chín năm trước, ra trại tù “cải tạo”, tôi gặp lại Biên và
Hoàng tại toà soạn báo Tin Sáng, nơi trú-ẩn-giả-dạng-qua-ải của một
số lớn đồng-nghiệp-mất(nghề)-dạy(học) của tôi, để tránh bị tống đi
“kinh tế mới”. Hai đứa bạn xưa ráo riết “ vận động” cho một tay có
“lư lịch xấu” như tôi được chen chân vào tổ “thầy c̣” (sửa lỗi bản
vỗ). Tại đây, tôi giáp mặt chủ bút Hồ Ngọc Nhuận: Năm 1961, Nhuận
cùng trung đội sinh viên khóa 14 SQTB Thủ Đức với tôi. Thuở ấy, hai
chúng tôi cùng chung một giường hai tầng, thường tâm sự; chẳng có
dấu hiệu nào cho tôi thấy HNN “thân cộng”. Trước đây tôi vẫn nghĩ
Nhuận công giáo v́ ở trong Phong trào Thanh-Sinh-Công (JEC). Cho nên
khi Nhuận cải chính và xác nhận với tôi anh là đảng viên cộng sản từ
lâu, chứ không phải mới sau nầy, tôi…sững sờ giây lâu! Rơ ràng các
bạn tôi và tôi quá “ngây ngô” về việc cài người của Việt Cộng!
Cũng tại đây tôi chạm mặt khá nhiều đồng nghiệp cũ, nhưng họ “bơ đi”, làm như không hề quen biết. Kể cà nhà-văn-nhớn từng dơng dạc tuyên ngôn: viết là… “thách-thức-thần-linh”, là …“đâm-nổ-mặt-trời” HPA! Cũng dễ hiểu thôi. Sợ vạ lây “liên hệ” với phần tử “phản động”!
Duy có Biên và Hoàng là ngang nhiên tiếp xúc và “giúp đỡ” tôi khi bị
“lănh đạo” gọi lên “làm việc”…Cho đến lúc tôi vượt trùng dương t́m
đất sống, liên lạc với hai bạn tôi bị gián đoạn một thời gian dài…
Hai lần gặp lại NXHoàng tại Montréal, một lần ở Westminster, trước
năm 2000, nhưng không lần nào tôi có dịp gặp riêng Hoàng. Bạn tôi
luôn bận rộn và bị vây khổn! Tôi nghĩ Hoàng cũng tiếc tiếc như tôi,
v́ thuở c̣n là “đồng nghiệp-đồng-nghề-đồng-ngành”, cùng với Tạ Kư,
Tôn Thất Trung Nghĩa (về sau có Kiệt Tấn gia nhập), chúng tôi rất
thân thiết. Có lúc tôi nghĩ biết đâu v́ tôi không thuộc loại
“đồng-nghiệp-làng-văn-chuyên-nghiệp” mà Hoàng không tiện giao du với
tôi như xưa chăng? Có thể tôi nghĩ sai nên chưa vội kết luận nhân
t́nh thế thái là…chuyện dài nhân dân tự vệ!
Cho đến lúc, nhân một bài viết về vài kỷ niệm vui buồn liên quan đến
tiểu thuyết mới, do HNBiên -vừa từ VN sang định cư ở tiểu bang Utah-
đánh máy giúp rồi chuyển cho NXH đăng trên Văn, tôi mới có dịp liên
lạc trở lại với Hoàng. Lần đó Hoàng nói úp úp mở mở với tôi rằng
HNBiên đau nặng mà không muốn cho bạn bè biết. Tôi điện thoại viễn
liên cho Biên nhưng Biên cũng không muốn cho tôi biết bịnh trạng.
Cũng lạ! Ngày xưa cùng trọ ở đường Phan Đ́nh Phùng Đà Lạt, hai đứa
thân thích như ruột thịt và chẳng có điều ǵ giấu nhau. Hay bạn tôi
cũng ở trong t́nh trạng “không tiện giao du” với tôi, như NXH? Có
thể tôi lại nghĩ sai nữa...
Rốt cuộc rồi tôi cũng biết được cả hai đứa bạn cùng ḷ Đại Học Sư
Phạm đều có vấn đề sức khỏe khá trầm trọng, nhân dịp tôi sang San
Jose năm 2005 thăm Danh “trại gà”, cũng vừa thoát hiểm sau cơn heart
attack! Lần đó tôi không gặp Hoàng, đang lu bu “tẩn liệm” tờ Mercury
News. T́nh cờ, hết sức t́nh cờ, tôi gặp Biên nhờ bạn Nguyễn Đồng
-cũng ḷ ĐHSP- cho số phone. Biên rời Utah mà tôi chẳng hề hay biết.
Cả Hoàng cũng không rơ…
Biên lái V.U.S. đến đón tôi tới nhà riêng, dọc đường ghé hiệu bán
bánh ḿ Pháp mua croissant au beurre, confiture, bánh ḿ baguette
v.v…của Tây chính cống. Bạn tôi vẫn không thay đổi goût ưa điểm tâm
“à la française” như thuở hay ghé La Pagode, đường Tự Do. Cũng có
thể Biên nghĩ thằng bạn “parigo” xa xưa của ḿnh muốn nhớ lại thời
hai đứa chia tay ở Đà Lạt, tôi đi “Tây” bỏ Biên ở lại một ḿnh trên
gác trọ Phan Đ́nh Phùng đầp ắp kỷ niệm buồn vui đều có nhau, cùng
chia sẻ...Hoài niệm về “la comtesse-aux- pieds-nus” chỉ một đêm duy
nhất ghé qua gác trọ cùng tôi nghe nhạc thính pḥng, trong lúc Biên
đi xem nữ danh cầm Supitra tŕnh tấu piano, vẫn c̣n sống động trong
tâm tư hai thằng giờ đây đă hom hem, lụ khụ nhưng chưa đến độ nghễnh
ngăng!
Khó khăn lắm tôi mới nh́n ra HNB dưới lớp áo “cư sĩ” đạo Phật, râu cḥm lất phất trông rất…“thiền sư”! Bạn tôi vẫn giữ nguyên vẹn sở thích ăn mặc khác thường thiên hạ…Thiếu chút tôi đă khoanh tay cúi đầu … “Bạch Thầy”!
Cách trang hoàng, bày biện nội thất của Biên gợi nhớ cách trang trí căn gác Phan Đ́nh Phùng-Đà Lạt, 1959. Rất điệu nghệ, tinh túy! Cái mới lạ với tôi là giàn computers quá chuyên nghiệp trong pḥng làm việc. Tôi nghĩ, trừ giờ ăn uống, tắm giặt, nghỉ ngơi, Biên ít khi rời giàn máy, tay luôn di động trên bàn phiếm. Dám ăn ngủ tại chỗ lắm! Biên chủ trương nhà xuất bản Tŕnh Bày từ thuở c̣n ở VN và Web Tiền Vệ hiện nay, nên hầu như không lúc nào rỗi rảnh.
Vài năm trước Biên bị tai biến mạch năo, rất may chỉ một phía trên mặt bị tê cứng, nhưng mặt mũi không bị “xiêu vẹo”! Lúc bấy giờ Biên phụ trách một tờ báo cho Đại học ở Utah. Sau “tai nạn”, Biên buồn t́nh dời nhà qua San Jose.
Câu chuyện trao đổi giữa hai thằng vẫn đậm t́nh như xưa. Nhưng hai đứa cố gắng né tránh các vấn đề liên quan tới chính trị và văn học. Cho khỏi sanh giặc! Về điểm nầy, tôi cũng e ngại như đă e ngại với NXH (và sau nầy với cả KT, em tôi): Tôi tự cảm thấy ḿnh không thuộc giới cầm bút chuyên nghiệp, không muốn các bạn ḿnh “lúng túng” trong giao tiếp với thế giới làng văn …v́ ḿnh!
Thế mà cũng không tránh khỏi buồn ḷng nhau. Một vài lần chuyển tiếp
bài vở của thân hữu cho Biên “coi chơi” (những bài vạch trần những
chuyện quá lố ở quê nhà và trong hàng ngũ Việt kiều “bưng bô” cho
cán bộ CS), bạn tôi “lưu ư” tôi nên ngưng gửi. Từ đó, chẳng những
tôi ngưng gửi mà ngưng liên lạc luôn, tránh cho bạn tôi khó xử trí!
Nhưng cho dù ai có nói xa gần ǵ về HNB th́…tôi khẳng định bạn tôi
không thể nào là…cộng sản. Cho dù trước đây Biên thường hay đeo ảnh
Che Guevara trước ngực, tôi vẫn cứ xem đó cũng chỉ là một h́nh thức
lập dị, thách thức, chọc đời cho vui vậy thôi! Ngay từ lúc c̣n là
sinh viên ĐHSP, Biên đă để lộ phong cách “khác thường” như thế rồi!
Với NXH cũng thế. Ngoài lănh vực văn chương, Hoàng c̣n là một giáo
sư triết có tầm vóc. Chắc chắn không thể là loại giáo sư “chết” lư
như các “đấng”chuyên-viên-mị-dân Lư Chánh Trung và “ngài” cực kỳ đểu
cáng Nguyễn Trọng Văn. Và cũng chẳng xỏ lá ba que như đám đồ tể
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân luôn
trịch thượng chối leo lẻo đă tàn sát đồng bào hôm Tết Mậu Thân! Cho
dù ít nhiều có liên hệ với gia đ́nh “kách mạng”, tôi tin NXH không
thể là loại lợi dụng thời cơ, theo đóm ăn tàn, trở mặt hại bạn để
vinh thân ph́ gia…Hoàng cũng chẳng thể là “đặc công nằm vùng” như
một số người ác ư chụp mũ.
Mấy lúc sau nầy, tôi vô cùng xót xa đọc điện thư của NXH: Toàn những lời trối trăn, chán chường. Tôi gạn hỏi nguyên do, Hoàng chỉ vơn vẹn cho biết “NXH chỉ c̣n chờ ra đi thôi!”. Cho tới nay, tôi chỉ được KT cho biết lờ mờ là Hoàng mổ mắt gặp problème về thị giác…Chẳng lẽ NXH bô trai, cường tráng (viril) trước đây -như Casanova tái sinh- giờ đă trở thành Lục Vân Tiên hay Moshe Dayan? Tai hại bạc triệu!..
Mới đây, đọc những gịng chữ nầy, tôi càng chua xót, nhưng cùng lúc,
rất nghịch lư, tôi cảm thấy vui vui v́ nghĩ là bạn tôi chưa thể ĺa
đời…
“Nhưng người làm tôi‘shock’ khi gặp lại là nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng
của tạp chí Văn ở San Jose. Anh vẫn duyên dáng nhưng tôi không nhận
ra anh v́ mái tóc anh bạc trắng, trắng như tuyết. Khi nhà văn Mai
Thảo c̣n sinh thời, ông vẫn gọi nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng là Don
Juan của Việt Nam. Don Juan nay đầu tóc bạc phơ, rất siêu thoát. Anh
cho biết bị ngă ở Pháp, gẫy bốn cái ba sườn v́ đêm trước nhậu múc
mùa lệ thủy với nhà văn Kiệt Tấn, hôm sau đang đứng trong tiệm sách
th́ ngă cái rầm”. (Hoàng Dược Thảo, Tân Văn, số 23, tháng 6/2009).
“Cảm xúc c̣n, đam mê c̣n là sức sống c̣n vươn lên”, tôi đă viết như
vậy trong một lần toan tính…tự tử trong trại tù cải tạo. Với NXH,
tôi muốn nhắn gửi: C̣n uống được rượu, c̣n thích thú uống, uống c̣n
thấy “đă”, cho dù có ngă ngựa gẫy vài cái ba sườn (chuyện nhỏ!) cũng
vẫn c̣n có thể ngồi dậy, đứng lên cười khanh khách: Anh chưa chết
đâu em!
****
Cũng trong chuyến thăm thú bạn bè nầy, tôi dọ hỏi khắp nơi để t́m gặp Nguyễn Đ́nh Toàn mà tôi rất nôn nóng muốn choàng ôm sau 30 năm mất dấu. V́ tôi nghe rất nhiều chuyện về bạn tôi nhiều lần vào tù ra khám CS cùng với Duy Trác, bạn đồng tù, đồng nhà giam với tôi tại trại cải tạo Hàm Tân Z30D …
Ngày 2 tháng 5/1975, Toàn và nhà văn “đâm nổ mặt trời” ghé “vấn an”
tôi, sau khi bị “kách mệnh” trục xuất khỏi nhà ḿnh trong Làng Báo
Chí, do VNCH cấp. Lúc bấy giờ tôi cười mỉa, “chêm” hai nhà văn nhớn:
-Mới đây, khi Sàig̣n chưa lọt vào tay VC, hai bạn theo đoàn biểu
t́nh do Hồ Ngọc Nhuận xách động xuống đường làm kư giả xách bị chống
gậy đi ăn mày. Bây giờ th́, nhờ kách mệnh “rải fóng” hai bạn mới
thực sự “tṛn mộng ước”, dắt díu nhau chống gậy xách bị ngửa tay kêu
xin ông đi qua bà đi lại…
Thế nhưng, vượt thoát địa ngục sang được miền đất tự do, tuy đau
ḷng nghe tin Toàn bị CS bắt đi bắt lại, hành hạ, khủng bố chí cốt,
ḷng tôi nhẹ nhỏm nhận thấy bạn tôi sớm thức tỉnh trong khi anh bạn
kiên-tŕ-thách-thức-thần-linh kia th́…chưa thấy có dấu hiệu nào rơ
nét cho tôi được an ḷng đôi chút “người” đă thấm đ̣n “ma giáo” mập
mờ đánh lận con đen của nhóm tự nhận là thành phần thứ ba -danh từ
b́nh dân gọi là thành phần “chàng hảng”, cho tới nay vẫn chưa chịu
nhận ra ḿnh chỉ…“ăn ké” theo MTGPMN cầm c… chó đái cho CSBVthôi!
Gặp nhau nơi quán cà phê trong khu Sàig̣n Nhỏ, tôi nhận thấy, không
như Hoàng và Biên, dáng dấp bên ngoài của Toàn và người phối ngẫu
không thay đổi nhiều. Tôi hơi bỡ ngỡ cảm thấy sự vồn vă của tôi h́nh
như khiến bạn tôi không được thoải mái lắm. Và tự thấy ḿnh vô
duyên.
Có lẽ -tôi lại suy diễn- bạn tôi “không tiện” giao du với người bạn
cũ không có sau lưng “quá tŕnh tranh đấu” hay “sự nghiệp văn
chương” như ḿnh chăng? Một lần nữa, tôi lại nghĩ rằng biết đâu tôi
chẳng nghĩ sai…
***
Bạn bè cũ ở Sàig̣n ngày xưa nay chẳng c̣n bao nhiêu, trên xứ người cũng như nơi quê nhà. Tôi tự nhủ phải cố gắng nén cơn buồn ḷng để ǵn giữ tối đa t́nh bạn. Nhưng…sức người có hạn, tôi chưa phải là thánh, bụi hồng trần vẫn c̣n vương mang. Mấy lần định sang Saint-Paul (Minnesota) thăm vợ chồng anh bạn nhạc sĩ thời danh họ C. -bạn thân với cố nhạc sĩ Phạm Đ́nh Chương và cố thi sĩ Thanh Tâm Tuyền- vốn có mối thâm giao từ lâu với KT và tôi, trước 1975. Nhưng tôi chùn chân v́… nghe đâu bạn tôi có lần muốn hạ cờ vàng ba sọc đỏ, thượng cờ đỏ sao vàng để rước phường hát-chèo-hát-chống-hát-cổ-hát-họng ǵ ǵ đó từ Hà Nội sang, bị các hội đoàn kịch liệt phản đối! Giao dịch với nhà thơ nhớn chuyên viên ś-lát/ś-lát/ś lát, chặt câu thơ ra từng khúc/từng khúc/từng khúc, cũng được đi, dù trước đây bạn tôi coi tay nầy không ra ǵ, không đáng kể (quantités négligeables). Đằng nầy…
Ngoài ra, nghe đâu anh bạn nhạc sĩ của tôi c̣n hết lời ca tụng “bại”
tướng “chạy” râu mép Nguyễn-Cao-Kỳ-Nhông và sẵn sàng suy tôn “người”
làm lănh tụ anh minh! (Cụ “chơi” thế nầy th́ nhà cháu c̣n mong chi
hoài cảm được chút hương xưa của thu vàng!). Đó là chưa kể chàng
nhạc sĩ nhà ta nổi tiếng cực kỳ khó tính. Không khéo tôi dám mang
đầu máu ra về lắm! Tội vạ ǵ! Đành chịu thua, bỏ số de thôi!
Chợt nhớ lời một bạn hiền: Chớ buồn phiền thiên hạ thay đổi. Ḿnh
cũng đổi thay mà. Tất cả đều Vô Thường! Thôi th́…
Cũng đành thôi cũng đă đành!
Nghĩ cho cùng, c̣n gặp lại được bạn cũ đă là quá may mắn và…ít nhiều
cũng đă mát dạ lắm rồi. Vẫn hơn phải chạm mặt hằng ngày, ngoài ư
muốn, với đám điếu đóm cán bộ Cổng(tư)Sản của thiên hạ! Thế nhưng,
thật bất ngờ, một vài mối sơ giao (hay thâm giao mà tôi lạc mất hoài
niệm, cũng chẳng thể nhớ hết) bỗng nhiên đem đến cho tôi nhiều ủi an
ở tuổi già thất thế nơi xứ người… “Ấm ḷng chiến sĩ” xiết bao!
Ngày tôi ra tù cải tạo…từng người t́nh bỏ ta đi như những gịng sông nhỏ…Những người t́nh mà tôi yên chí lớn, cả tin vào lời rên rỉ thê thiết là thiếu tôi họ sẽ…chết liền!!!
Đột nhiên, một buổi sáng đẹp trời, người bạn xa xưa chỉ một lần đối
mặt nửa thế kỷ về trước t́nh cờ “t́m ra” được người bạn sinh viên
năm xưa mà ḿnh đă có duyên hội ngộ chớp nhoáng trong đêm thanh
vắng, cùng lặng im nghe nhạc cổ điển Tây phương trên gác trọ Phan
Đ́nh Phùng (Đà Lạt), tuyệt nhiên không có mục ngày đó có em đi nhẹ
(hay đi nặng) vào đời chi hết. Người sinh viên sau đó âm thầm ra đi
biền biệt suốt…50 năm!
Nhưng rồi câu chuyện trên điện thoại viễn liên đă nối lại nhịp cầu
tri âm giữa hai người bạn sơ giao, nay trở thành thâm giao. Thú
thật, lúc nghe tiếng bạn cách xa những 3 múi giờ, tôi bàng hoàng ngớ
ngẩn giây lâu…Không chờ mà gặp, không hẹn lại đến! Tuổi đời chồng
chất xấp xỉ tôi, bạn tôi quả thực quá can đảm vượt 7000 cây số đến
tận căn nhà ngoại ô “Thôn Trang Rêu Phong” t́m gặp
người-bạn-cố-tri-chỉ-một-lần-gặp! Người t́nh th́…bỏ đi. Người bạn
lại… ở lại, chí cốt t́m ta! Không ngạc-nhiên-thích-thú sao?
Hai mươi mốt ngày d́u chân bạn dạo khắp thôn trang, ôn kỷ niệm rất
hiếm hoi nhưng khó quên thời sinh viên, chúng tôi bỗng nhiên như trở
thành hai thiếu niên tung tăng đùa giỡn, nghịch ngợm chơi tṛ cúp
cua trốn học! Chỉ tay về hướng một trũng sâu cỏ cây um tùm, ven
sông, tôi ghẹo bạn:
-Nếu ngày trước, thay v́ cùng bạn giam ḿnh trên căn gác, nghiêm trang thưởng thức nhạc thính pḥng, tôi hẹn Nữ-bá-tước-chân-trần ra Hồ Than Thở mà ven bờ có bụi rậm như thế nầy để trốn học (faire l’école buisonnière) th́ chưa chắc giờ nầy ḿnh c̣n là…bạn tốt với nhau đâu!
Bạn tôi cười ngất. Tôi cùng cười theo, tin rằng ḿnh đă nói lên điều
thực sự nghĩ ra.
Rồi khách và chủ lững thững quay về căn nhà ngoại ô khuất dạng sau
rặng anh đào trổ bông hường đặc gật. H́nh như tôi nghe bạn tôi th́
thầm:
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
T́m hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ…
H́nh hài, dáng dấp chúng tôi dĩ nhiên mang dấu vết tàn phai của thời
gian, nhưng h́nh như tâm hồn th́ không. Cổ nhân đă chẳng thừa nhận:
Tim bao giờ có vết nhăn (Le coeur n’a point de rides) sao?
***
Tưởng rằng không c̣n ǵ trong giao tiếp của tôi với tha nhân có thể
gây ngạc nhiên cho tôi nữa. Nhưng mấy ai học được chữ ngờ: vô số
giao tiếp xa xưa ở quê nhà mà tôi chẳng thể nào chờ đợi c̣n nhớ đến
“ông đồ già kiêm lính yếu” lưu lạc trên đất khách nữa… Bỗng dưng,
không báo trước, một điện thư đáp xuống mail-box của tôi:
“Em xin tự giới thiệu là học tṛ của thầy , môn triết tại trường
Phục Hưng 73-74 , nhân đi dạo trên web t́m dấu tích trường xưa vô
t́nh gặp được trang blog của thầy rất vui v́ nh́n được h́nh ảnh của
thầy sau hơn 30 năm .
Nếu được sự đồng ư của thầy, em xin phép được đăng những bài viết
trong blog của thầy vào trang web của đại học khoa học Sài G̣n.
(…)Nhờ có 1 kư ức tương đối khá nên những lời nói về Paris của thầy
trong trí tưởng tượng của một cậu học sinh trung học em đă được nh́n
bằng hiện thực , chỉ tiếc rằng lúc đó rời bỏ tất cả ra đi với 2 bàn
tay trắng và phải bắt đầu một cuộc đời không định hướng nên cảm xúc
đó không có được lâu . Nên cũng hiểu thầy có nhiều kỷ niệm với Paris
.
Em cũng không nghĩ rằng sẽ liên lạc được với thầy , chỉ v́ chiều chủ
nhật buồn chui vào google gơ bâng quơ " trường Phục Hưng đường Lê
ngô Cát " hy vọng có một ai đó tạo 1 website Phục Hưng , và t́m được
blog cuả thầy cùng với h́nh ảnh nên mới mail thử xem .
Em đă đăng bài Lệ đá xanh và sửa lại h́nh cô gái khóc , gửi lại thầy
xem cho vui , nhờ bài này chắc sẽ có nhiều người biết Nửa hồn thương
đau ra đời như thế nào…
http://www.khoahocsaigon.com/lang-thang-do-day/lang-man-tho-van/van-suu-tam/le-da-xanh
-Trần Đức Diên-”
Quá may mắn c̣n có người nghĩ đến tôi, dù chẳng thể nào tôi h́nh
dung nổi khuôn mặt hay dáng dấp môn sinh Diên trong hàng vạn cựu môn
sinh thuở đó của tôi. Bạn bè thâm giao phần lớn phai nhạt ân t́nh,
lắm khi c̣n lánh mặt. Thế hệ con em xưa kia, nào tôi dám nghĩ chúng
c̣n nhớ tới ḿnh. Thế mà…
Làm sao tránh khỏi bồi hồi, xúc động?
Chưa hết đâu! Lại một ngạc-nhiên-thích-thú nữa rơi vào hộp điện thư
ông đồ già: một cựu môn sinh mách tôi vào website trường Trịnh Hoài
Đức t́m lối… “Trở Về” chốn cũ B́nh Dương ân sâu nghĩa nặng…do cựu
môn sinh Thùy Vương đưa lên mạng. (Bài viết nầy sau đó được bán tuần
san Việt Luận chọn đăng, số 2380, ngày thứ sáu 24.7.2009).
Lần nầy th́ tôi nhớ “người xưa”, v́ thời điểm đó tôi phải đương đầu
với hiểm nguy xách động gây xáo trộn trong sinh hoạt học đường mà
tác giả bài viết vô t́nh hay cố ư ít nhiều liên can tới.
Chuyện xảy ra vào năm 1971, lúc tôi sắp sửa rời trường Trịnh Hoài Đức nhận nhiệm vụ mới. Chúng tôi chuẩn bị một chương tŕnh văn nghệ rất công phu và khá phong phú -mà Thùy Vương là giọng đơn ca chính trong trường ca Lửa Thiêng của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ- nhằm giới thiệu Trường trên đài Truyền H́nh Sàig̣n. Lúc bấy giờ chỉ có Trường Mạc Đỉnh Chi và Trường Trịnh Hoài Đức được chọn tŕnh diễn trên màn ảnh nhỏ. Và trường tôi được ưu tiên khai pháo.
Ṛng ră đôi ba tháng tập dượt, biết bao công sức… Mọi việc đang diễn tiến suông sẻ th́…đột nhiên có người rỉ tai tôi âm mưu lợi dụng cơ hội nầy để…ra ứng cử dân biểu! Và có một vận động ngầm thuyết phục Thùy Vương…rút lui. Lập tức, tôi cho họp Hiệu Đoàn với đầy đủ các thành viên trong Ban Văn Nghệ và long trọng tuyên bố với các em học sinh, nếu tôi ra tranh cử dân biểu các em có quyền khước từ coi tôi là thầy! Rồi đích thân tôi đến nhà ba má Thùy Vương xin phép cho em tham gia văn nghệ.
Tưởng đă yên. Nào ngờ, chiều hôm trước ngày lên đài Truyền H́nh, em đại diện học sinh, không rơ do ai xúi giục, gần như “hiên ngang” nói thẳng với tôi ngày mai các học sinh không…lên Sàig̣n! Không khí cực kỳ căng thẳng…Tôi không c̣n sự lựa chọn nào khác, ngoài việc xác định lập trường của một ông thầy trách nhiệm Hiệu Trưởng kiêm Hiệu Đoàn Trưởng:
-Các em nghe kỹ đây! Ngày mai, đúng 6 giờ sáng, xe đ̣ do Ban Giám Đốc thuê bao sẽ đậu trước cổng trường. Các em suy nghĩ cho thật chính chắn đi, rồi tùy nghi quyết định lên hay không lên xe. Nhưng, tôi xác quyết với các em: cho dù ngày mai chỉ có một em hay chẳng có em nào lên xe, tôi cũng sẽ cho xe lên đường đúng 8 giờ. Bởi v́ thành công hay thất bại trong chuyến đi nầy liên quan đến danh dự chung của tập thể Trịnh Hoài Đức. Và trách nhiệm nầy nằm trong tay của tất cả chúng ta…
Sáng hôm ấy, Thùy Vương và tất cả thành viên trong Ban Văn Nghệ có
mặt đông đủ!
Chuyện xảy ra đă quá lâu, bao nhiêu nước chảy qua cầu…Không ngờ 38
năm sau Thùy Vương c̣n “ray rức” nhắc lại:
“Gặp được thầy nơi đây, ḷng chỉ mong nói lên lời tạ-lỗi sau
những năm dài ray-rứt trong đời. Dù em vẫn biết, với tâm-hồn dung-dị
thanh-thản cùng những trải-nghiệm nghiệt-ngă của đời sống chắc không
có chỗ cho thầy nhớ chi đến cái chuyện nhỏ-nhặt, tầm-thường và
tẻ-nhạt thế nầy. Có chăng, chắc thầy cũng đă bỏ qua, cũng đă tha-thứ
từ lâu… Nhưng riêng em, giây-phút được nói với thầy, với các bạn, là
lúc hạnh-phúc thật ḷng… Trong nỗi mong chờ dường như vô-vọng,
hun-hút, chơi-vơi; nhiều khi tưởng chừng phôi-phai, mờ-nhạt, nhưng
nghe sao nó vẫn loi-nhoi ẩn-tiềm trong kư-ức làm con người khó nỗi
an ḷng. Cho nên, chuyến hành-tŕnh nầy với em mang thêm giá-trị
ngoạn-mục của một cuộc vượt-thoát, con tim đă được vui lại như thời
bé dại...”
Thùy Vương nhận định rất chính xác: Làm sao tôi c̣n để tâm oán trách
những con em trong một tập thể mà từ lâu tôi đă xem như gia đ́nh thứ
hai của tôi!
Nhưng điều khiến tôi rạt rào thương cảm là Thùy Vương đă thấu hiểu
tâm trạng của tôi khi cầm bút. Chưa bao giờ tôi nghĩ ḿnh là cây bút
chuyên nghiệp, có “triển vọng”, đến độ tất cả điệu bộ hằng ngày như
ăn uống, bài tiết, hít thở, đi đứng, nằm ngồi, yêu đương, thù hằn,
v.v…nhất nhất đều biểu lộ “ngụy tín” (mauvaise foi) “đóng kịch đạo
mạo-esprit de sérieux” ta là nhà văn…nhớn, như anh hầu bàn rất ư
“nghiêm chỉnh” đóng vai hầu bàn trong “Hữu thể và Hư vô” của Sartre!
Nhân vật trở thành nhân cách!
“Người ta đâu dễ đồng-hành trên cùng một vuông chiếu ấy, dù là
vuông chiếu của nàng văn-chương. Có chăng, c̣n đứng chân trên đó,
chỉ c̣n một nước là "đồng-đấu", "đồng-đá" với nhau thôi, để dành một
chỗ đứng, để kiếm một chỗ ngồi, hay để bồi thêm chút lợi-nhuận.
Nhưng thầy(…)th́ không, nên(..)đă giă-từ, dứt bỏ, quay đi... Vẫy
chào những người đă một thời "đồng..." đủ thứ, chỉ giữ mỗi nàng
văn-chương v́ cái nghiệp muôn-thủa của ḿnh thôi”.
Nếu được thêm một độc giả chia sẻ nỗi niềm của tôi -cây bút “tài
tử”- như thế nầy th́ thật vinh hạnh cho tôi biết bao!
***
Tôi nhớ có lần một cây bút thân quen đă thố lộ chỉ viết khi trong t́nh trạng mất thăng bằng. Nếu thăng bằng th́ anh không cần viết. Hiện giờ tôi cảm thấy nội tâm không an b́nh. Tuy không hứng khởi lắm, nhưng tôi cảm thấy có nhu cầu gơ trên bàn phiếm. Cho đỡ buồn, cho vui vậy mà!(chữ của Nguyễn Mộng Giác)
Và quả thật, tuy sắp đi tới nơi hết mọi ưu phiền, trải qua cũng lắm gian truân, nếm khá đủ các món ăn chơi trong chuyện-dài-nhân-dân-tự-vệ-thế-thái-nhân-t́nh, tôi vẫn thấy được đời ưu đăi…
Tôi thành thật nghĩ rằng chính tôi phải cảm ơn cựu môn sinh Thùy Vương đă cho tôi sống lại những giây phút khó quên qua bài viết Trở Về. Vào buổi xế chiều của cuộc đời, tôi muốn chia sẻ niềm vui với quí bạn đọc ít nhiều c̣n ǵn giữ, trân quí vùng kỷ niệm xanh thời nền giáo dục nước ta c̣n tôn vinh những giá trị nhân bản, khai phóng, tự do…
Trước 1975, Trường Trịnh Hoài Đức nằm trong “vùng xôi đậu”. Sau
1975, “xôi” ngă theo chính sách bao tử trị, tràn đồng trấn áp “đậu”.
Nhưng dần dần có dấu hiệu, tuy khiêm nhường nhưng rất khích lệ, cho
thấy hạt “đậu” nhân bản, vốn được ấp ủ từ lâu trong truyền thống tôn
sư trọng đạo, đă bắt đầu chuyển ḿnh dưới lớp “xôi” (thịt) dầy cộm
phủ che bấy lâu, nẫy mầm triển nở, sanh sôi …
Xin cho tôi kết thúc bài viết bằng những ḍng chữ chan chứa T́nh
Người dưới đây để tạ ơn đời đă cho tôi niềm hân hoan sâu đậm
trước khi vẫy tay giă từ cơi mộng:
Thưa thầy,
Đọc tâm-t́nh tha-thiết của thầy về những giá-trị t́nh-cảm và
tinh-thần trong cuộc sống, em không khỏi hổ-thẹn và chạnh ḷng...
Cái giá-trị hôm nay lại có từ những phút lỗi-lầm ngày xa-xưa. Chính
cái phút lầm-lỗi ấy đă mang thầy tṛ ḿnh gặp nhau và gần nhau thế
nầy sao? Em cảm thấy lạ-lùng v́ cái cơ-duyên kỳ- cục đó.
Đúng là cuộc sống muôn trùng. Trong cái phúc vẫn ngầm có họa, th́
ngược lại, trong họa vẫn ngầm có phúc đó phải chăng?
Đời trôi qua bao nghịch-cảnh, có khi thật trớ-trêu mà ḿnh không
lư-giải nổi. Bây giờ em nghe ḷng đầy ấp niềm an-ủi vỗ-về, vượt quá
những ǵ hằng mong đợi. Chỉ biết cảm ơn, cảm ơn tấm ḷng bao-la rộng
mở, thầy đă dành cho những đứa học tṛ trở về sau bao năm xa cách,
tấm ḷng của người cha đón đứa con trở về sau những ngày tháng hoang
đàng. Em hạnh-phúc được ngồi vào bàn tiệc của cha, với áo mới, quần
mới, niềm vui mới...
học tṛ cũ,
Vương
Thôn trang Rêu-Phong, mùa hè 2009
Lê Tấn Lộc
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại