Nguyễn Vĩnh Long
Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền Nam đầy
máu và mồ hôi trên chính quê hương của mình, đã có bao nhiêu người
“sinh Nam tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim
lìa đàn rất sớm.
Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng 100
người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo hút
gió của tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái - Lào Cai, phía tây giáp
Lai Châu, phía đông giáp Phú Thọ - Hòa Bình, phía Nam giáp Lào,
chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh
bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm
trở có cái tên thật mộng mơ: “Khe Thắm” thuộc huyện Văn Chấn.
Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dãy núi trùng điệp.
Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dãy núi bên nầy, bên kia thung
lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà sàn là
chuồng nhốt trâu bò. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6. Về
sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập vào
nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đã cấy
xong vụ lúa Đông - Xuân. Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên xanh
phơi phới. Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay mỗi
người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là hết
hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng thình. Công
tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó vào
ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, còn Trương Đăng Sĩ ở
lán 4. Mùa đông năm 1976 là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt,
lạnh thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam. Có nhiều đêm,
hàn thử biểu rơi xuống chỉ còn một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng
váng, cá chết hằng loạt vì lạnh. Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng
bọn cán bộ cấm tù cải tạo đốt lò sưởi vì sợ cháy lán trại? Nửa đêm
về sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau
cho ấm. Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi
để sưởi ấm gia súc. Làm thân trâu bò còn sướng hơn tù cải tạo là cái
chắc! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng
không sao đủ ấm vì cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.
Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một hình thức tra tấn. Mỗi
tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật, sau
khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm. Ngồi bên cạnh tôi là
Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy mẹ
mà hắn còn làm thơ được thế mới tài. Nếu như chiều chúa nhật nào rơi
vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là đạt
tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm rồi!
Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn 776
do bộ đội csbv quản lý đều giống như nhau. Sau một ngày ăn đói, thực
phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của người
tù đếm được khoảng 700 hột và lao động khổ sai 10 tiếng một ngày kể
cả lúc trời mưa bão. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa nhật để
tắm giặt. Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, “ngồi đồng” hằng giờ
ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc “Quân Đội Nhân
Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và
chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn đủ
loại gỗ: gỗ làm cột nhà, gỗ làm đòn tay, gỗ làm kèo nhà...và một
toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà. Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập
trung trên một bãi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ
quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau,
toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo... để dựng nhà. Lê Xuân
Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với
tôi, vì cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng. Hắn rất
chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc bình
thường thì giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là
một tai họa khó lường...
Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dãy nhà sàn của dân tộc
thiểu số Thái Trắng. Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường hù
dọa là đồng chí “Bí thư xã” có vũ trang súng trường AK47. Phía sau
dãy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức hấp
dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm. Những lần chúng tôi qua dãy
núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu chuẩn:
phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau khi
vạt bỏ ngọn. Thường thì buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20 cây,
giấu đâu đó ở trên rừng. Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc chuyển
về trại.. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt khúc và
đập giập ra để lợp mái nhà.
Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại.. Chúng tôi ngồi
nghỉ mệt bên dòng suối vắng. Đèo nhìn qua đám ruộng mía, sau dãy nhà
sàn bên kia dòng suối, hắn thèm đến nhỏ dãi, trông thật tội nghiệp.
Hắn nói:
- “Ê, mầy! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời! Từ
ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy
cục đường tán nó tròn, nó méo ra làm sao! Tao chịu hết nổi rồi nghe
mậy,” Đèo tiếp. “Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao!” Tôi hỏi:
- “Vậy chớ, mầy định đi đâu?” Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng
ực:
- “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm! Mầy
còn phải hỏi lôi thôi!” Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói:
- “Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy kìa! Ốm nhom, ốm nhách
như con còng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát?
Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc!” Đèo quả quyết nói:
- “Tao đã nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình rồi! Trong nhà không có đàn
ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao còn biết chắc, giờ nầy bà ta
trên đường đến trường, đón con đi học về nhà.” Tôi nghi ngờ, hỏi:
- “Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ?” - “Mầy nhớ không? Xế trưa
hôm qua, lúc tụi mình trở qua đây, vác mấy bó nứa về trại.. Tao thấy
bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà!”
- “Phi vụ nầy mầy lo hay để tao?” tôi hỏi. Đèo nói, giọng quả quyết:
- “Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo! Mầy ngồi đó chờ tao!”
Tôi cười, nói:
- “Thôi được rồi, cha nội! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo! Cứ ngồi
đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh gì thì la báo động cho tao biết để
tao chuồn!”
Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên
khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua dòng suối.
Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà. Trước hết, tôi bám
lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng
mía hoàn toàn yên tỉnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía.
Tôi chọn một thật thẳng, tròn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia
một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía
xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hãi bên kia dòng suối:
- “Chờ tớ! Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tưởng hắn đòi lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy cây
mía vẹt lá rồi nhìn qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng lên
như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn
tiếp tục gào lên:
- “Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tôi thiệt bực mình, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn:
- “Xong rồi! Qua làm gì chớ! Thôi, ngồi đó chờ tao!”Nhưng, hắn vẫn
tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái giọng Nha Trang
của nó thật rõ ràng:
- “Chó tới! Chó tới....”
Thôi bỏ mẹ rồi! Bây giờ tôi mới hiểu ra là“Chó tới!” chớ không phải “Chờ tớ!” thì đã muộn.. Một con chó vện to lớn dùng để đi săn, xồng xộc lao tới và chỉ còn cách tôi vài mươi thước. Tôi thật sự hồn vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân, phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, ghì lại làm tôi té nằm xấp xuống đất. Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đã xuyên thủng đáy quần. Con vện gầm gừ, mõm của nó ghì chặt lại, giằng xé như muốn lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp! Cũng may, nhờ trời thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh nữa thì bây giờ tôi đã trở thành quan “thái giám” là cái chắc!!!! Tôi thét lên, cầu cứu:
- “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...”
Đến giờ phút nầy mà hắn còn hỏi đùa được:
- “Trúng chỗ nào vậy cha?”
Tôi bực quá thét:
- “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó ghì lại, không chạy được!”
- “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả?” hắn mách nước.
- “Tụt quần ra, vọt cho lẹ, thằng mắc dịch!”
Thôi thì cùng tất biến, biến tất thông! Tôi lòn tay xuống hàng nút
quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thung thình, con
vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần, đầu
giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh. Tôi
chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi phóng
như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước. Tôi
trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh như
vậy.. Thế là thoát nạn! Con vện phóng mình lên cây mấy lần, nhưng
lần nào nó cũng bị té đau. Vì thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất,
nghểnh mõm nhìn lên một cách hậm hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi
dài thượt liếm mép. Tôi phải lấy vạt áo che lại phần khẩu súng nước
phía dưới , sợ nó nhìn thấy “thịt tươi” thèm nhỏ dãi tội nghiệp !!
Đứng trên cây nhìn xuống mới thấy rõ hình thù con vện, màu lông hơi
vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang dã
ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải! Thú thật, trong suốt 13
năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đã
từng chà nát lên các mật khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ
Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần
nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra thì cũng nhục thật
đó! Tôi đứng trên cây, trợn mắt nhìn nó, rủa thầm trong bụng: “May
cho mầy, nghe đồ chó vện! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn
họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi!” Thế mới biết, chỉ sau một
thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với
tôi bây giờ nó đã trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp
chẳng xấu mặt nào!
Nhìn thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây, Đèo
đứng bên kia bờ suối, nói lớn:
- “Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống!”
Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng
khiu của hắn, tôi nản lòng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu
bồ thật, tôi lật đật can:
- “Thôi đi cha nội! Cứ ở yên bên đó đi! Tao nhảy xuống suối, lội qua
bển được rồi mà!”
Hắn đáp có vẻ rất tự tin:
- “Mầy yên trí đi! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi!”
Tôi miễn cưỡng nói:
- “Thôi được, mầy có tài gì thi thố cho tao coi!”
Con vện thấy hắn đang lội bì bõm, băng ngang qua dòng suối. Nó rời
gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới
suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ. Còn con vện nhìn hắn lườm
lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ
mồi. Tôi thấy còn phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút
nào cả thế mới là lạ. Bất ngờ, hắn huýt sáo miệng bản nhạc “bác cùng
chúng cháu hành quân” một cách ung dung. Con chó vện vừa nghe âm
điệu phần mở đầu của bài hát: Đêm nay trên đường hành quân ra mặt
trận... nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch,
ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo”!!!! Mẹ kiếp! Sống ở
miền Bắc XHCN nầy, đến con chó còn bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói
chi là con người. Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó
mấy cái. Đồng chí vện chồm lên, vật ngã hắn xuống rồi liếm cùng mặt.
Thế rồi, người tù cải tạo và “đồng chí vện” ù kết thành đôi bạn sống
chết có nhau từ dạo đó! Hắn ôm chặt con vện cho tôi leo xuống. Tôi
vội vã lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây
mía. Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội
suối qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía. Tôi chỉ
ăn 2 lóng, phần còn lại của hắn vì Đèo thèm ngọt. Còn tôi, tôi thèm
thứ khác hấp dẫn hơn nhiều: “Thịt! Thịt! Thịt!”... Tôi nhìn con vện,
tưởng tượng đến dĩa “rựa mận” đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu
nước miếng. Bất chợt, con vện ngước lên nhìn tôi. Bốn mắt lườm nhìn
nhau....tóe khói; hình như, cái giác quan thứ sáu của nó, nhìn thấy
ý đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng: “Coi chừng thằng cha
tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt mình đấy!” Vì vậy, con chó vện chỉ quấn
quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với tôi. Cứ
mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ khác
chơi và nhìn tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Cách đây ba hoặc bốn tháng gì đó. Tên thiếu tá Khoát – trại trưởng –
có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi: “Trại ta có kế
hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh có đủ
sức thâm canh, tăng năng suất, chuẩn bị trồng sắn đại trà.” Thế là
cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ trong
vòng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên cạnh bờ
suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại. Nhưng, tên Quang
chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân nặng
khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2 được
giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”.. Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang một
cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận cơm
thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng
cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom. Ngược lại, trông
anh càng ngày tròn trịa ra !! Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra
chuyện rùng rợn, khó tin nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy
chuột rừng moi ruột cho đến chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại
được ăn cơm trắng với thịt heo kho với nước muối. Gần 2 tháng nay,
chúng tôi mới được ăn một chén cơm trắng và một miếng thịt heo to
bằng hai lóng tay út, cho đến bây giờ miệng tôi vẫn còn thòm thèm
thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch thịt con vện...
Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai đứa
tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung thành
với anh Đèo. Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng, rồi
lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi định
thịt nó, nhưng Đèo cương quyết ngăn cản. Hắn nói:
- “Mầy muốn thịt con vện nầy thì phải bước qua xác chết của tao!”
Nửa năm sau đó, những dãy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên
chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù
cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng
phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại,
lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo
để kiếm gỗ.
Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường mòn băng
qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đòn tay. Khi
những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên thủng
làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành những
chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến khá sâu
trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, còn con vện biến đi đàng
nào không biết. Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua những gềnh
đá rong rêu, hòa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy chim rừng,
trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây Bắc, thoang
thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa phong lan,
nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc của lá rừng
ẩm mốc. Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo
cái lạnh tái tê từ dãy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn
thổi về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương
rơi nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh. Đang mơ
màng trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung
ấy....Bỗng một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm
bầy chim rừng cũng phải giựt mình, bay tán loạn: “Con mẹ nó! Coi
chừng vắt nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!”
Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một chút và
chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có chửa nên
đặt cho nó cái tên là “vắt nái”. Khi đánh được hơi người là nó
giương lên như cây “anten”, rồi bún mình lên như cái lò xo, bám vào
đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi tự
động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai cỏ
mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được. Có nhiều anh bạn bị nhiểm
trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tròn bằng đồng tiền, nhức nhối
tàn bạo.. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, tìm khoảng
đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn, năm
con vắt xanh.. Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ
đâu đưa tới, âm thanh ai oán, não nùng như khóc như than. Tiếng khèn
trôi bồng bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi tò mò rũ Đèo đi
ngược lên thượng nguồn con suối để tìm người thổi khèn. Đó là cụ già
thuộc bộ tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, chòm râu bạc thả lỏng
phất phơ trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới
một gốc đại thụ, chừng đã mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây
sần sùi phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng
chịt vào thân cây. Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần
đang cuốc một hố đất.. Thấy có người đến, ông lão ngưng thổi khèn,
ngước mắt nhìn chúng tôi, hỏi:
- “Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à?” ông cảnh báo. “Khu
rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận! Cách đây mấy
hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy!”Tôi
nói:
- “Cám ơn cụ đã chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề phòng!” Đèo phì
cười khi nghe cụ gọi mình bằng ông, hắn nói:
- “Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế còn cụ?”
- “Tôi tên Phạm công Trừng,” ông lão buồn rầu, than thở. “Nhà tôi bị
ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ!” ông chỉ hai thanh niên,
tiếp. “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!”
- “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh gì vậy?” Đèo hỏi.Ông cụ thở dài,
nói:
- “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đã hơn hai tuần nay! Uống đủ loại cây cỏ,
nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết
đấy, các anh ạ!” Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây
lát rồi nắm tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:
- “Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao?” Tôi trợn mắt nhìn hắn, hỏi:
- “Mấy lấy cái gì cứu bà cụ chớ?”
- “Nói cho mầy biết, tao còn cất giấu được 10 viên “Reostop”, chôn
dưới sạp nứa chỗ tao ngủ,” Đèo lấy ý kiến tôi lần chót. “Mầy thấy
tao có nên giúp họ không?”
- “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy! Tự quyết định đi,
đừng hỏi tao lôi thôi!” Tôi nói. - “Tao quyết định cứu họ!” Đèo trả
lời một cách dứt khoát. “Thấy người sắp chết mà không cứu là đắc tội
với Trời Phật rồi! Hơn nữa, tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và
truyền thống tốt đẹp của người lính Việt Nam Cộng Hòa cho đồng bào
miền Bắc thấy rõ điều nầy!”
Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:
- “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10
viên thuốc “con nhộng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!”
Ông cụ nghe đến thuốc “con nhộng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng và
cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn gỗ
đòn tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó uống
nước trà xanh. Căn nhà sàn của gia đình cụ gồm ba gian, nằm trong
bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao
để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia
súc. Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái,
Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh,
tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con sò gỗ và lạt buộc,
sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập
ra để lót sàn. Leo lên mấy bậc thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang
nằm trên cái chõng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ. Bà cụ
gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở
thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông. Sau khi uống xong
chung trà xanh, thì hai người con cũng về tới nơi. Thấy mặt trời lên
thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra về.. Cụ đi trước dẫn
đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh dấu, cho chúng tôi
biết đường trở lại. Tới bìa rừng, họ chuyển 6 cây gỗ làm kèo lên vai
hai đứa tôi và chúng tôi từ giã nhau ở đấy. Con vện đi sục sạo ở đâu
đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mõm ngoạm một con chuột
lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn Đèo. Trước khi trở về
trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách thành thạo, rồi dùng lá
chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong túi quần mang về trại.
Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một cách vội vã, khi nào có
chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi một nửa.
Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực. Đèo
đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc
“Reostop” còn đủ 10 viên rồi giấu dưới gối. Sáng hôm sau, chúng tôi
trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm kèo nhà. Lần theo vết dao đánh
dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở lại chỗ cũ rất dễ dàng. Đến chỗ
hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng
tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông
cu, rồi chỉ cách dùng. Ông cụ vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói
không nên lời. Trước khi chia tay nhau, ông cụ dặn dò:
- “Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải
cảnh giác chúng nó đấy!”
Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nhìn
thấy cái huyệt đã được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đã bắt đầu bén
rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đã được cứu thoát khỏi bệnh kiết
lỵ. Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đã hoàn thành công tác “dân vận”
một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính mình. Vì ba tháng
sau đó, anh từ giã cuộc đời vì bịnh kiết lỵ vì không thuốc chữa cho
chính bản thân mình.
Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến
trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN. Một người bạn cùng đơn vị
là cựu thiếu tá Trần Sĩ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác
vào năm 1978 vì bệnh kiết lỵ và rồi còn biết bao nhiêu người khác
nữa? Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự
trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và
nhất là trụ sinh để phòng thân. Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe
Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đã đâm sau lưng chiến
hữu, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để
lấy điểm. Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị
xuất trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường,
đích thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn
trương đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá
Khoát - trưởng trại - ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi
người được thông báo, chỉ còn có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lý
cần thiết mang theo người. Vì quá vội vã, nên Đèo không kịp đào lấy
10 viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.
Tại sân đá bóng của xã, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến chở đi
một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế yêu cầu
tất cả tù cải tạo “bày hành lý bán chợ trời” - tiếng lóng - một hình
thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của. Sau đó, chúng
phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba người, tù cải
tạo còn phải trải qua một màn “thoát y vũ” bất đắc dĩ để chúng lục
soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số dược phẩm của
anh em mang từ trong Nam ra, chỉ còn sót lại 10 viên “Reostop” của
Lê xuân Đèo. Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày tiu nghỉu trở
về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá Khoát và tên tù
phản bội P. T. K. mặt mày hớn hở vì chuyến nầy thắng lớn... Bọn cán
bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng Liên Sơn bán
lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc dõm trị bá
chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù. Đến năm 1982, nhà
nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở các tế bào
não, tim và thận và ngưng sản xuất thì đã muộn. Không biết có bao
nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở vì uống phải loại thuốc nầy?
Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn bệnh
kiết lỵ hiểm nghèo. Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô héo
dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ còn da bọc xương, rồi
nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ.. Mỗi ngày tên y công tên
Lương phát cho vài viên “Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loãng như
nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị ghép
vào tội “chây lười lao động”. Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người anh
tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn
nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh
ngắt như đồng. Anh chỉ còn thở thoi thóp, máu hình như bắt đầu đông
lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai
cái hốc mắt lõm sâu. Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ,
tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô.Tối hôm đó, tôi
ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh,
trước khi trở lại chỗ nằm.
Kỳ lạ quá! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm cây
nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn đâu
đây, làm tôi rùng mình. Gió từ dãy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào làm
rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh mấy
cái phên cửa... Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những
tiếng ngáy khò khò khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như
giọng nam “tenor”, những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở mình
của bạn nào đó trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ
lẫn tiếng thở dài não nuột. Đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy mình
đang đánh nhau với Việt cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán
dậy: “Diều hâu! Diều hâu! Đại Bàng ghe rõ không trả lời! Việt cộng
tràn ngập căn cứ hỏa lực rồi! Rót pháo xã láng! Nổ chụp trên đầu
chúng tôi! Lẹ lên đi mấy cha...” và tất cả âm thanh đó quyện vào
nhau hợp thành một “bi trường khúc” đầy ấn tượng sâu sắc trong lòng
người tù cải tạo.
Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru
buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch.. Tôi mệt
mõi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng
báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao
động khổ sai.. Tôi nghe cả lán hoảng hốt, thét lên: “Đèo chết rồi!
Đèo chết rồi!...”.. Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn sang chỗ
Đèo nằm, hai cái chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông
thòng xuống đất, bị gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, còn
thân người của anh nằm vất vưởng trong mùng. Tôi vội vàng chạy đến,
vén cái mùng lên. Tôi thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng,
hai giọt lệ khổ đau chắt chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận
cùng đáy địa ngục, ứa ra từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, còn đọng lại
chưa khô; hình như, anh mới từ giã cuộc đời cách đây không lâu. Tôi
lấy tay vuốt mắt người bạn tù...
Một cái chòi lá đơn sơ được vội vã dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần
khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại. Bốn
cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn chòi, hai khúc gỗ gác song
song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng. Thi hài của Đèo
trong bộ quân phục Biệt Động Quân đã bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ
những vết máu khô vì tai nạn lao động. Tôi phủ kín hình hài của anh
bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận
đào huyệt còn có Trương Đăng Sĩ và Nguyễn Minh Thanh... Chỗ anh nằm
an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh dòng suối, cách
trại khoảng 2 cây số.... Đến xế chiều, mọi việc đã hoàn tất. Sau khi
tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở
lại qua đêm để canh giữ xác của anh.
Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi. Vừa
chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh còn mở trợn trừng...Quá nửa đêm
về sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn nhau
thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía bìa rừng văng vẳng đưa về; hình
như, chúng đang tranh ăn thì phải. Điều nầy đã khiến tôi phập phòng
lo sợ, không biết chuyện gì bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo. Tôi thầm
cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của anh đi!
Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi đã
thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vã đi về phía cổng trại. Tên lính
canh cho phép tôi xuất trại, ra bìa rừng thăm xác bạn. Tôi lật đật
bước vào cái chòi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vã bằng sáu
tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suýt chút
nữa thì đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay. Sau khi đẩy
cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát hiện
trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái chòi bị ngã rạp xuống,
loang lổ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay chỗ nầy,
đêm qua đã xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó rừng,
tranh xác anh Đèo để tha vào rừng.
Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động
gần đó, nó ngước đầu lên nhìn tôi, cố gắng chống hai cái chân trước
xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngã quỵ
xuống, mồm rên ư ...ử vì đau đớn. Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy
nó vào lòng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách trìu mến, rồi mệt lả,
nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát: con mắt bên
phải bị lột một mảnh da, còn bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy
xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một mãng thịt to, vết thương còn
rỉ máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nhìn nó một cách cảm phục và
thương mến. Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đã
liều mạng sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một còn
với cả một bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân
Đèo, người bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dã thú. Đối với
tôi, con chó vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang hình hài của
loài thú bốn chân, nhưng có một trái tim rất “người” dám vì nghĩa
quên mình, chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù. Tinh thần
quyết đấu của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với
đồng loại của nó: “Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua
xác chết của tao!”.
Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương còn
đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách
thân ái. Tôi thì thầm bên tai nó: “Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở
lại tìm cách đưa mầy về nhà chủ của mầy!” Tôi đứng dậy lui gót, nhìn
trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào
quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh
biệt, khiến tôi có cảm tưởng; hình như, nó muốn trối trăn điều gì đó
với tôi chăng? Tôi từ giã nó, trở vào trại để cùng với anh em lo
việc mai táng Lê Xuân Đèo. Toán chung sự có bốn người: Minh Thanh,
tôi và hai bạn tù nữa. Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải
tiến cũ kỹ đi ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên trung úy Quang lùn
tịt, ngoắc chúng tôi dừng lại, nói: “Này, nhớ đấy nhé! Giữ cái áo
quan lại, dành cho những người kế tiếp! Các anh phải biết bảo vệ tài
sản xã hội chủ nghĩa đấy!! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu” !!!!
Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh cầm
càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên con
đường đất gồ ghề còn đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt, một
cái nghiêng bên nầy, một cái ngã bên kia, phát ra những tiếng kót
két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ. Hai anh bạn phía trước gồng
mình, ấn cái càng xe xuống, còn tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa nâng
phần sau xe lên, vì sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi ra
cái xe cải tiến bất cứ lúc nào. Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn
qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối. Sau vài phút nghỉ giải lao,
chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ
an giấc ngàn thu của anh, rồi chia nhau vô rừng kiếm dây rừng bện
lại như hai sợi dây thừng. Đặt quan tài lên trên hai sợi dây đó, rồi
mỗi người nắm một đầu dây, thả từ từ xuống đáy huyệt. Xong rồi,
chúng tôi lấp đất lại, vun thành một nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng
trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một
ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn.
Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM MỒ
HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.
Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng
Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung
Quạnh hiu vằng vặt vây quanh mộ
Rên rỉ bầy ve tiếng não nùngGởi xác ốm nhom tận chốn nầy
Bao la rừng núi, suối trời mây
Người đi vĩnh viễn đã yên phận
Ngàn dặm người thương đâu có hay!
Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời
Công danh phú quí lá vàng rơi
Than ôi! Thành bại đều chung cuộc
Tuần tự rồi ai cũng thế thôi!
Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh
em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện. Tôi vô cùng sững
sờ nhìn thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị
căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ
từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất. Tôi quỳ xuống
nâng đầu của nó lên, cả thân mình con vện khẻ run lên lần cuối cùng,
rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước
mắt. Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay.
Hắn lên tiếng làm tôi giật mình:
- “Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm gì thế?”
Tôi nhanh trí, đáp:
- “Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân.”
Hắn nói:
- “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay.”
- “Được, việc gì thế?” tôi hỏi.Hắn nói như ra lệnh:
- “Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi!”
Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây rừng, ôm
con vện vào lòng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống sau một
trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà lòng quặn
đau. Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những
mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại
cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng
dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên
cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.
Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi rừng
Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng giăng
khắp nơi gần như bất tận.. Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn kín
mít, ngồi co ro trong lán, nhìn những cơn mưa bụi bay bay trong
hoàng hôn, ai nấy đều chạnh lòng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ
con, nhớ vợ da diết. Gọi là mưa bụi vì lượng nước mưa quá yếu không
thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những
cơn mưa bụi.
Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có thể
rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo thành
những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa phùn mong
manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng đục, giăng
kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ ... Trời đất nhạt nhòa
trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên vùng đất khó.
Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy lộc, đâm chồi,
chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến. Chỉ tội cho bọn tù cải tạo
phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê cóng vì đói và
lạnh đến rét run. Thượng tuần tháng 2 năm 1978. Trại chuẩn bị ăn
mừng Tết Nguyên Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào
đội cắt lá dong dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở
những vùng đất ẩm ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng
một mình để tìm lá dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân
thương.
Mới hừng đông sáng mà tôi đã nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang lên
rộn rã từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi lần
theo con đường mòn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản
Thái. Ô hay! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết
như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng
khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm
hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm
cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím. Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt
thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh
bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí. Tôi đi lần theo con
đường mòn tìm gia đình cụ Trừng không mấy khó khăn. Tôi đoán, hôm
nay là ngày hội làng thì phải. Trước sân nhà của cụ các bếp đỏ lửa,
rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm hai phái: phái nữ đang
lo nấu thức ăn, còn phía nam đang chơi nhạc cụ dân tộc như thổi
khèn, khua chiêng, trống...rất vui nhộn. Thấy tôi đường đột bước vào
sân, tất cả đều dừng tay, nhìn tôi trân trối. Chỉ cần nhìn thấy bộ
đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đã biết tôi là ai rồi. Một thiếu phụ
vội vã chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:
- “Bố ơi! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà mình nầy! Con tống cổ
nó đi nhá!” Có tiếng quát vọng xuống:
- “Khách quý nhà mình đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!” Đứng trên cầu
thang, nhìn thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ quay vào trong căn
nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới:
- “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!” Cụ vội vã chạy xuống cầu
thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ ôm chầm lấy tôi, trước con
mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói với vợ:
- “Bà còn sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo nầy đấy!”
Tôi vội vàng đính chính ngay:
- “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!” Cụ Trừng
vỗ trán một cái thật mạnh, nói:
- “À, tôi nhớ ra rồi! Anh Lê Xuân Đèo đâu?” Tôi buông thỏng một câu:
- “Đèo chết rồi!” Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn:
- “Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo,, phải thế không?”
- “Không phải vậy, anh Đèo chết vì bệnh kiết lỵ!”
Bà cụ nói:
- “Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhộng” của
anh ấy biếu! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho mình
nhỉ?”
Tôi buộc lòng phải thú thật, nói:
- “Đó là 10 viên thuốc cuối cùng mà anh Đèo đã biếu cho cụ!”
Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run:
- “Anh Đèo đã hy sinh cái mạng của mình để cho tôi được sống! Thế
mới rõ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ
chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả! Chúng nó còn bảo “lính
ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả
máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy!”
Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đã hiểu biết mọi chuyện, họ
bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh bạn trẻ đến
nắm tay tôi mời mọc rất chân tình:
- “Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ
hội “Kin Chiêng Bók May” của dân tộc Thái chúng em!”
Tôi hỏi:
- “Mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” là lễ hội gì vậy?”
Cụ Trừng giải thích:
- “Đó là ngày “Hội Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón mùa
xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi rừng
trên các bản Thái. Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng, tượng
trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của tình yêu và hạnh phúc lứa
đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy vào
hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà. Mấy cô gái sẽ thay
đổi xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc hình bướm trên
chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần “sin” (giống như xà-rông) vải
xanh thắt ngang lưng để múa xòe,” cụ Trừng cố mời. “Anh ở nán lại
đây chơi với chúng tôi.”
Mặt trời đã lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giã họ để còn kịp
đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại nhìn,
đó là một cô bé Thái còn rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí lót,
mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là người
Kinh. Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở trong rừng
về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây giờ tôi mới
biết loại hoa màu trắng nõn nà đó chính là hoa ban. Cô bé thỏ thẻ,
nói đùa:
- “Bao giờ anh về Sài Gòn, cho em đi theo với nhá!”
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, còn biết
chối bỏ cái tên Thành phố Hồ Chí Minh do tập đoàn lãnh đạo cộng sản
áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ “Sài
Gòn”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam . Sau khi cắt xong một mớ
lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé viếng thăm mộ bạn Lê Xuân
Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi thì thầm báo cáo với hắn:
“Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không phải của tao!” Nghĩ cho
cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo không đến nỗi vô ích.
Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh. Những người lính QLVNCH thuộc mọi
Quân, Binh chủng đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận trong thời
chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong lao tù cộng sản,
đều có giá trị cao quý như nhau! Thật vậy, anh nằm xuống để thắp lên
một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy hận thù bên kia
“bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng lên tại miền Bắc XHCN, bằng những
thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu. Cái chết của Lê
Xuân Đèo đã làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của người lính thuộc
QLVNCH. Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận tụy ngày đêm đi gìn
giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ Quốc.
Sau Tết Mậu Ngọ 1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên đường, di
chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy thì di chuyển thật. Và
chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng hoa màu
ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về đó, xây
dựng nông trường. Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng Sĩ,
Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi
cùng hướng về rặng núi Phu Luông còn phảng phất sương mù, vẫy tay
chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo: NGƯỜI Ở LẠI
HOÀNG LIÊN SƠN!
Nguyễn Vĩnh Long
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện tình trái
ngang
Khối diễn hành
Bãi tập
Lễ mãn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
Tình Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
Vì hai chữ Tự Do
Nghìn trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào lòng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển bão tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vuì quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giã từ
vũ khí
Mối tình đầu
Tình lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện tình
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc tình
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người còn
nhớ hay người đã quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
BÌNH-TUY,
những ngày cuối cùng...
Tình Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và hòa bình
Tây
Ninh, chút còn lại trong lòng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi dòng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Trìu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Bão Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một dòng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện tình của một
Phi Công
Hai vì sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người tình
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái Bình Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Ðội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện tình
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
Tìm
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Gãy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ Hình Của Chính Mình
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy còn
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Dòng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa qua những tình khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn còn đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hãy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương tình
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những giòng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư tình của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nhìn được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư tình
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời còn dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba dòng nước mắt
Những xác chết trên mãnh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính gãy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện tình khoai lang
Tâm tình
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm tình
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xã đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi tìm Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất tình
Dấu "Hỏi Ngã"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ý yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
Tình... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ tình
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi dòng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi tìm tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hãy giúp tôi
Con còn nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ tình
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà nòi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái tình
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ còn một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một mình
Hãy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Hòa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc tình
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nhìn những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời còn vui vì có
chút tòm tem
Đôi mắt Phượng
Ngưòi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
Tình già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân tình
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài vòng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
Tình người
Hồi ký của một người Hà
Nội
Tình nghĩa, nghĩa tình
Đôi đũa
Giòng đời... và hồi âm
giòng đời...
Không cho phép mình
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
Tình ngây dại