Phạm Tín An Ninh
Tiểu Đoàn đang hành quân ở Ngân Sơn th́ có lệnh kéo ra quốc lộ để di
chuyển khẩn cấp. Đám lính tráng buồn thiu. V́ vùng này rất nổi tiếng
có nhiều cô gái quê làn da nơn nà xinh đẹp, mà mỗi lần đơn vị ghé
lại đây, thế nào cũng có vài chàng lính trẻ chấm dứt cuộc đời độc
thân vui tính. Lần này đơn vị đi xa, nên trên các chiếc xe GMC thấp
thoáng bóng vài cô con gái mặc áo lính. Thông cảm cho các đôi vợ
chồng mới, ông Tiểu Đoàn Trưởng bảo các sĩ quan lơ đi, để cho các cô
dâu được đi theo. Khi đến bờ biển Tuy Ḥa, Tiểu Đoàn tiếp nhận một
Chi Đoàn Thiết Quân Vận M-113 tăng phái, rồi tất cả xuống tàu Hải
Quân ra biển. Sau hai ngày đêm hải hành lênh đênh, chúng tôi được
lệnh đổ bộ lên bờ biển Phan Thiết, ngay phía trước một Phật đài đang
xây dang dở, nằm không xa phía dưới phi trường và Quân Y Viện Đoàn
Mạnh Hoạch.
Tiểu Đoàn chúng tôi, một đơn vị lưu động, đặt dưới sự điều động trực
tiếp của Quân Đoàn, có nhiệm vụ khai thông Quốc Lộ số 1 từ B́nh
Thuận ra đến Khánh Ḥa, đặc biệt quăng đường dài hơn 50 cây số chạy
dọc theo mật khu Lê Hồng Phong, địch quân đang kiểm soát, đồng thời
truy diệt mọi lực lượng địch trong vùng, giúp các Tiểu Khu b́nh định
lănh thổ. Sau một ngày dưỡng quân, nhận tiếp tế lương thực và đạn
dược, chúng tôi bắt đầu cuộc hành quân dài hạn từ tuyến xuất phát
Phú Long. Quốc Lộ số 1 là trục tiến quân chính. Tiểu Đoàn (-) mở
rộng đội h́nh hai bên quốc lộ, một đại đội tùng thiết và Chi Đoàn
Thiết Quân Vận vừa làm lực lượng xung kích, vừa làm lực lượng yểm
trợ hỏa lực di động cho các cánh quân c̣n lại. Ra đến làng Tùy Ḥa
th́ đụng địch. Chúng tôi nhận lệnh khai triển đội h́nh. Chi Đoàn
Thiết Quân Vận vượt lên đánh một trận thần tốc tiêu diệt một lực
lượng địa phương của địch cố thủ ở làng Sara, các cánh quân c̣n lại
nhanh chóng tiêu diệt mọi lực lượng địch trong vùng để tiến chiếm
mục tiêu Núi Tà Dôm, một cao điểm trọng yếu, lập đài tiếp vận truyền
tin, giao lại cho một đơn vị Địa Phương Quân trấn giữ trước khi tiếp
tục lộ tŕnh.
Lần đầu tiên bất ngờ đụng độ với một lực lương chủ lực quân hùng
mạnh, địch quân - mà đa số là đám lính địa phương và du kích - bị
đánh tan tác khắp nơi. Đơn vị chúng tôi dễ dàng làm chủ t́nh h́nh.
Giao trách nhiệm cao điểm Tà Dôm cho Tiểu Khu B́nh Thuận, chúng tôi
nhận lệnh tiếp tục di chuyển thêm hơn năm cây số về hướng Bắc đến
đóng quân tại xă Long Hoa, giữ an ninh cho một đơn vị công binh
thiết lập căn cứ Nora trên một đỉnh đồi nằm gần Quốc Lộ, để trung
đội Pháo Binh 105 ly di chuyển từ Phan Thiết đến căn cứ này trực
tiếp yểm trợ cuộc hành quân.
Đại Đội tôi trách nhiệm đi đầu. Nhưng vừa xuống chân núi Tà Dôm, qua
khỏi cầu Ông Tầm vài trăm thước, tôi nhận lệnh ông Tiểu Đoàn Trưởng
dắt đại đội rẽ về bên phải chiếm lại một khu làng hiện do địch kiểm
soát. Sau đó đóng quân tại đây để cơ quan Tỉnh thiết lập lại chính
quyền. Khi cùng đoàn quân vượt lên để đến Long Hoa, ông Tiểu Đoàn
Trưởng dặn ḍ tôi phải hết sức cẩn thận, v́ mục tiêu nằm sát mật khu
lớn của địch, số lượng du kích trong làng khá đông và hầu hết những
gia đ́nh ở đây đều có thân nhân theo VC. Sau khi nghiên cứu địa
h́nh, tôi cho ba trung đội tiến vào khu làng bằng ba hướng khác
nhau, tạo thành ba mũi giáp công. Dù chờ đợi, nhưng không hề có sự
kháng cự nào. Tôi nghĩ đám du kích đă biết cuộc hành quân qui mô
này, nên đă kịp chạy ra khỏi làng, nhưng nhất định chúng đang ẩn nấp
đâu đó ŕnh ṃ chờ những sơ hở của chúng tôi.
Khu làng nằm cách quốc lộ chừng 500 mét. Dọc theo con đường đất dẫn
vào làng là một hàng me cao. Chỉ có chừng một trăm nóc gia, lưa thưa
vài căn nhà ngói cổ, c̣n hầu hết là nhà tranh. Phía sau làng là một
con suối khá lớn, bên kia là khu rừng tiếp giáp với mật khu Lê Hùng
Phong của địch. Bất cứ ai cũng đoán được là đám du kích đang ẩn trốn
trong khu rừng ấy, v́ tương đối an toàn cho chúng, và nếu bị truy
kích sẽ chạy thoát vào mật khu rộng lớn. Tôi cho một trung đội khá
nhất thường xuyên hoạt đông bên ấy, và chấm sẵn các điểm tác xạ tiên
liệu Pháo Binh, để trường hợp có đụng độ, sẽ kịp thời yểm trợ, đề
pḥng lực lượng địa phương của địch có thể từ mật khu kéo ra tăng
cường cho đám du kích.
Sau khi đi một ṿng kiểm soát kỹ lưỡng, tôi chọn khu vườn của một
ngôi nhà ngói cổ nằm giữa làng, có nhiều cây cối chung quanh, làm
nơi đóng quân cho ban chỉ huy đại đội. Cũng như nhiều nhà khác ở
đây, trong nhà này cũng có một bàn thờ nghi ngút khói hương. Trên
bàn thờ là tấm ảnh chân dung của một người đàn ông trẻ. Chủ nhà là
một bà già khoảng 60, sống với một chị đàn bà trẻ là mẹ của một đứa
con trai chừng 7, 8 tuổi. Hai mẹ con đều để tang trên ngực áo bằng
một miếng vải trắng. Chúng tôi hỏi th́ được bà già cho biết người
con trai của bà là một nghĩa quân bị tử trận hơn 6 tháng. Bà đang
sống với người con dâu trẻ góa bụa và thằng cháu nội đích tôn. Bà
c̣n đưa cho tôi xem tờ khai gia đ́nh của chính quyền cấp đă lâu. Đọc
qua tôi thấy tên bà là Lê Thị Đúng và người con trai là Nguyễn Cho
được gạch ngang và ghi chú với nét chữ vụng về: tử trận.
Cả nhà rất tốt với chúng tôi. Ngày nào cũng mang củi về cho chúng
tôi nấu cơm. Nước đổ đầy các chum đất cho chúng tôi dùng. Lúc nào
cũng tỏ ra vui vẻ. Tôi luôn nhắc nhở lính tráng phải cẩn thận, đặc
biệt khi dùng nước uống, cảnh giác, theo dơi mọi hành động, nhưng
phải đối xử tốt với họ, đừng lộ ra điều ǵ để họ biết là nghi ngờ
họ. Thằng bé rất thích mấy anh lính. Một vài chú lính có con nhỏ
nhưng lâu lắm chưa gặp, nên thấy thằng bé thật thà cũng thương. Được
cho các hộp trái cây lương khô, có khi cả tiền nữa, nên thằng bé lúc
nào cũng lân la bên các chú lính. Cứ mỗi lần thấy con ḿnh gần gũi
với lính, bà mẹ thường canh chừng, lâu lâu gọi thằng con ra xa dặn
ḍ điều ǵ đó. Một hôm ngồi xem anh lính lau chùi khẩu súng tiểu
liên, thằng bé xin được mang thử và ra điều thích thú lắm. Rồi bất
ngờ buột miệng:
- Ba cháu cũng có khẩu súng, nhưng dài quá, cháu mang không vừa và
không đẹp bằng khẩu súng này của chú.
Nói vừa xong, thằng bé biết lỡ lời, nên vội đưa tay lên bụm miệng.
Được báo cáo, tôi bảo anh lính tiếp tục khai thác thằng bé. Và cuối
cùng chúng tôi biết được cha nó là trưởng mũi công tác, chỉ huy hơn
30 tay du kích trong làng này. Cùng lúc tôi nhận được báo cáo của
anh trung đội trưởng đóng ở b́a làng, cho biết là cứ mỗi buổi chiều,
bà già chủ nhà tôi ở đi kiếm củi dọc mé suối, nhưng thỉnh thoảng
hướng về phía bên kia rừng nói lớn: “Thằng Hai ơi! Cứ cho trâu ăn
bên ấy, bên này hết cỏ rồi!”.Tôi gọi máy báo cáo cho ông Tiểu Đoàn
Trưởng và đề nghị một kế hoạch “Điệu Hổ Ly Sơn”. Tôi được ông chấp
thuận.
Trưa hôm sau, tôi t́m vị trí thật kín đáo cho một trung đội ngụy
trang nằm mai phục bên bờ suối cùng lúc rút trung đội bên kia suối
về làng, và cho lệnh đại đội di chuyển ra khỏi làng, bảo lính tráng
nói lời cám ơn chia tay dân chúng, để lại biếu họ một số gạo vừa mới
được tiếp tế. Chúng tôi rời khỏi làng đi dọc theo Quốc Lộ tiến về
hướng Nora và nhanh chóng ẩn trong b́a rừng bên khúc quanh của đường
quốc lộ, trong tư thế sẵn sàng tiếp ứng. Đúng như dự đoán, khi trời
sắp tối, nghe tiếng ḿn Claymore và nhiều tiếng súng nổ trong làng,
tôi được anh trung đội trưởng báo cáo đă tiêu diệt toàn bộ toán du
kích, từ bên kia rừng lội suối về làng. V́ tưởng tất cả chúng tôi đă
di chuyển đi nơi khác, nên đă lọt ổ phục kích. Tôi báo cáo cho Ông
Tiểu Đoàn Trưởng và ra lệnh cho đại đội nhanh chóng quay trở lại
làng, nhưng thay đổi các vị trí pḥng thủ. Lần này tôi chọn một khu
vườn bên bờ suối làm nơi đóng quân cho ban chỉ huy đại đội và trung
đội vũ khí nặng, nhằm đối phó và yểm trợ kịp thời, nếu địch kéo từ
mật khu ra phục hận.
Sáng hôm sau, một số cán bộ chính quyền đến nơi để xác nhận và giải
quyết các tử thi. Anh cảnh sát cho tôi biết, trong số người chết có
tên trưởng mũi công tác, con trai của bà Lê Thị Đúng, chủ nhà tôi
đóng quân hôm trước.
Nghe mấy chú lính thám sát t́nh h́nh cho biết, ban đầu bà không nhận
người ấy là con bà, nhưng không khí trong nhà buồn thảm lắm, nhất là
chị vợ lúc nào cũng giấu nước mắt. Chỉ có thằng con trai th́ vẫn cứ
vô tư chơi đùa. Dường như không ai nói với nó điều ǵ đă xảy ra.
Buổi chiều, chính quyền thông báo nếu tử thi nào không có người
nhận, họ sẽ chôn cất, nhưng v́ không biết tên nên không thể làm bia.
Lúc ấy bà chủ nhà mới chịu đứng ra nhận lănh, và với sự giúp đỡ của
chính quyền, bà và cô con dâu lo xong mai táng. Dù người chết là kẻ
thù, nhưng trong hoàn cảnh này, nhất là vừa đóng quân trong vườn nhà
họ hai hôm nay, chúng tôi ai cũng động ḷng tội nghiệp cho người vợ
trẻ và nhất là đứa con trai vừa mới mất cha. Chúng tôi góp được một
ít tiền, cho một anh lính thân t́nh với thằng bé nhất, mang lại biếu
họ. Tôi h́nh dung tới cái bàn thờ hôm trước, bây giờ đă trở thành
bàn thờ thực sự. Hai hôm sau, Đại Đội tôi được lệnh bàn giao làng
lại cho chính quyền với một trung đội nghĩa quân mới tới.
Cuộc hành quân tiếp diễn về hướng Bắc và chỉ hai ngày sau, chúng tôi
đă đến Sông Lũy, bắt tay với Trại Biệt Kích Lương Sơn do một số sĩ
quan LLĐB chỉ huy. Giai đoạn 1 của cuộc hành quân hoàn tất, cả Tiểu
Đoàn được lệnh tập trung dưỡng quân tại Sông Mao. Bản doanh Sư Đoàn
5 BB của ông Ṿng A Sáng bỏ lại, sau khi di chuyển toàn bộ vào Vùng
3 CT. Bây giờ doanh trại trở thành một trung tâm huấn luyện Địa
Phương Quân.
Tôi đă từng tham dự nhiều cuộc hành quân, đơn vị tôi từng giết nhiều
quân địch, nhưng cuộc hành quân lần này làm tôi khó quên, ngay cả
cái tên của gả du kích Nguyễn Cho và bà mẹ Lê Thị Đúng, mà tôi đă
đóng quân ngay trong vườn nhà bà vỏn vẹn chỉ bốn ngày.
***
Hơn bảy năm sau, chiến tranh đến thời kỳ ác liệt nhất. Ngay sau khi
Bộ Tư Lệnh Tiền Phương SĐ 22 BB bị Cộng quân tràn ngập tại Tân Cảnh,
lần đầu tiên một vị Tư Lệnh Sư Đoàn khí phách và liêm sỉ chấp nhận
vùi thây nơi chiến địa, từ chối lên trực thăng thoát thân cùng với
đám cố vấn Mỹ, đơn vị chúng tôi được không vận khẩn cấp lên Kontum,
bây giờ là mục tiêu tiến chiếm của đại quân Cộng Sản đang tràn xuống
từ hướng Bắc. Lúc này tôi đă được điều về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn. Đơn
vị chúng tôi đă chiến thắng oanh liệt, giữ vững được Kontum và trở
thành tuyến đầu của trận chiến Cao Nguyên trong suốt mùa hè đỏ lửa.
Chiến thắng ngày ấy dù có vinh quang nhưng chúng tôi cũng đă phải
trả một cái giá không nhỏ. Trong năm 1972 riêng đơn vị tôi đă có hơn
300 đồng đội hy sinh. Số tân binh từ các Trung Tâm Huấn Luyện không
đủ bổ sung, nên Bộ Tổng Tham Mưu ban hành lệnh đôn quân khẩn cấp.
Đầu năm 1973, chúng tôi tiếp nhận một số khá đông những người lính
Địa Phương Quân từ các Tiểu Khu chuyển tới. Đại Đội Trinh Sát là một
đơn vị thiện chiến, lập được nhiều chiến công hiển hách, luôn được
dùng làm lực lượng xung kích cho Chiến Đoàn, đảm nhân các công tác
hiểm nguy và sẵn sàng tăng cường cho các điểm trọng yếu. V́ vậy đơn
vị này cần được ưu tiên bổ sung một số lính trẻ, thiện chiến.
Chúng tôi đă từng hành quân chung với các đơn vị đia phương quân
Tiểu Khu B́nh Thuận, và biết họ cũng được tôi luyện trong chiến
tranh tại lănh thổ địa phương, luôn phải đối đầu với một lực lượng
địch đáng kể. Số lượng đôn quân từ Tiểu Khu này khá nhiều so với các
Tiểu Khu khác trong Vùng 2. Vị Chiến Đoàn Trưởng ra lệnh ưu tiên
chọn các anh lính trẻ B́nh Thuận bổ sung cho Đại Đội Trinh Sát.
Được sự hướng dẫn của vị đại đội trưởng và các sĩ quan trẻ, nổi
tiếng đánh đấm trên chiến trường, cùng học hỏi kinh nghiệm, noi
gương gan dạ từ những người trinh sát cũ đă dạn dày chiến trận, một
số lính địa phương quân được bổ sung cho đại đội Trinh Sát, sớm trở
thành các chiến sĩ thiện chiến trên trận mạc. Trong số này có một
anh rất trẻ, đă lập khá nhiều chiến công lẫm liệt, luôn được vị đại
đội trưởng đề nghị cấp trên khen thưởng sau mỗi cuộc hành quân.
Thành tích xuất sắc nhất là khi anh t́nh nguyện một ḿnh ôm lựu đạn
ḅ vào tiêu diệt cái chốt của địch gồm nhiều ổ súng pḥng không, nằm
trong một hốc đá kiên cố trên đỉnh núi Chu Pao. Chính cái chốt quỷ
quái này đă gây cho các đơn vị ta nhiều thiệt hại và đe dọa không
nhỏ đối với các phi cơ đổ quân và chiến đấu hoạt động trong vùng.
Tôi đă gặp anh lính trẻ này vài lần và rất quí mến cậu ta. Không ngờ
với một khuôn mặt hiền hậu, khôi ngô mà lại là một chiến sĩ can
trường, dũng cảm. Có lần anh thú nhận với tôi là đă làm khai sanh
tăng thêm ba tuổi để xin đầu quân. Một đôi lần, tôi móc túi cho cậu
ít tiền để uống cà phê, khi nghe nói hằng tháng phải gởi tiền về
nuôi mẹ. Ngược lại, sau mỗi cuộc hành quân, cậu cũng t́m đến thăm
tôi, kể lại cho tôi những ǵ xảy ra trong trận đánh, và chăm chú
ngồi nghe tôi nhận định. Đôi mắt cậu lúc nào cũng sáng lên niềm kiêu
hănh về các cấp chỉ huy, cùng đơn vị mà cậu ta đang phục vụ.
Vào khoảng cuối năm 1973, Đại Đội Trinh Sát được trực thăng vận đổ
xuống giữa một trân chiến đang mịt mù lửa đạn để giải cứu cho một
đơn vị BĐQ Biên Pḥng đang bị vây hăm v́ đă cạn đạn dược sau hơn hai
ngày kiên cường chiến đấu, mà không thể nhận được tiếp tế. Một cuộc
chiến khốc liệt, đẫm máu, mà các chiến sĩ trinh sát phải đánh cận
chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, tạo thời cơ cho các chiến sĩ BĐQ/BP
bên trong phá ṿng vây, dũng cảm xông ra. Địch quân bị tiêu diệt
trong thế gọng kềm. Chiến trường kết thúc mau lẹ, đám địch c̣n sống
sót, một số bị bắt, một số tháo chạy bị các trực thăng vơ trang của
Phi Đoàn 235 Sơn Dương truy kích.
Anh trung úy đại đội trưởng Trinh Sát bị thương nhẹ, nhưng vẫn tiếp
tục điều quân chiến đấu. Ngay sau khi vừa được tản thương về QYV
Pleiku, anh được Ông Tướng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, nguyên là Chỉ Huy
Trưởng Binh Chủng BĐQ, đến gắn cấp bậc đại úy và anh dũng bội tinh
với nhành dương liễu. Khi ấy anh vừa đúng 25 tuồi.
Tôi tháp tùng ông Chiến Đoàn Trưởng đến thành Dak Pha dự lễ Tuyên
Dương Công Trạng toàn thể Đại Đội Trinh Sát, và trao gắn cấp bậc,
huy chương cho những chiến sĩ có chiến công xuất sắc trong trận
chiến hào hùng này. Buổi lễ dưới sự chủ tọa của ông Tướng Tư Lệnh
Quân Đoàn. Đại Đội được tŕnh diện bởi anh trung úy Đại Đội Phó, xử
lư thường vụ thay anh Đại Đội Trưởng c̣n đang điều trị trong QYV.
Sau khi quân kỳ của Đại Đội được vị Tướng Chủ Tọa trịnh trọng choàng
giây biểu chương màu Tam Hợp, các chiến sĩ xuất sắc được xướng danh
ra tŕnh diện trước thượng cấp.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi không nghe tên và cũng không thấy mặt
người lính trẻ có tiếng can trường đôn quân từ Tiểu Khu B́nh Thuận
trong số những người được tưởng thưởng. Chờ buổi lễ chấm dứt, tôi
hỏi anh đại đội phó. Tôi ngẩn người khi anh cho biết là cậu lính trẻ
ấy đă hy sinh khi t́nh nguyện xông vào diệt ổ đại liên cản đường, để
cả đại đôi tiến lên. Anh đă gục ngă ngay trên nắp hầm địch cùng lúc
tiêu diệt toàn bộ tổ đại liên của địch. V́ không có phương tiện đưa
thi hài anh về nguyên quán, hơn nữa anh chết không toàn thây, không
muốn cho thân nhân quá đau đớn khi nh́n thấy, nên đơn vị đă làm lễ
truy thăng và chôn cất anh tại nghĩa địa Kontum. Tôi hỏi kỹ vị trí
ngôi mộ và dặn ḷng sẽ đến thăm nơi an nghỉ của người lính trẻ can
trường đáng mến này. Bỗng một hôm, thấy anh đại đội phó đưa một
người đàn bà đến Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn để làm hồ sơ tử tuất. Tôi
hỏi, mới biết ngươi đàn bà này là mẹ của người lính trẻ vừa mới hy
sinh. Anh đại đội phó c̣n cho biết là sau khi làm hồ sơ xong, anh và
vị Thiếu tá CTCT của Chiến Đoàn sẽ đưa bà ra thăm lại mộ con lần
chót trước khi về quê. Tôi bảo anh đại đội phó là tôi sẽ tháp tùng.
Tôi muốn một lần đưa tay chào vĩnh biệt người lính trẻ mà tôi hằng
mến mộ.
Khi cùng với người mẹ đứng trước mộ, tôi ngạc nhiên khi thấy trên
tấm bia, dưới tên của anh có ghi nơi sinh quán: Làng Long Giang– Xă
Long Hoa - B́nh Thuận. Tôi nhớ tới khu làng quê có hàng me cao nằm
bên quốc lộ, mà tám năm trước có lần đại đội tôi đă đóng quân, và
tiêu diệt tất cả đám du kích có tiếng của làng này. Chờ cho người mẹ
thắp hương và bớt xúc động, tôi hỏi nhỏ: - Ở làng Long Giang, chị có
biết bà Lê Thị Đúng, có người con chỉ huy du kích, bị chết cách nay
khoảng tám năm?
Người mẹ ngạc nhiên nh́n tôi, thoáng ḍ xét rồi cúi xuống, nói thật
nhỏ chỉ đủ tôi nghe:
- Bà là mẹ chồng tôi, và con tôi đây là đích tôn, cháu nội duy nhất
của bà. Vừa nói chị vừa đưa tay chỉ vào nấm mồ mới toanh trước mặt.
Khi về lại đơn vị, tôi xin Ban Tài Chánh ứng trước nửa tháng lương.
Trích ra một phần, bỏ vào b́ thơ, tôi t́m đến đại đội trinh sát gặp
và biếu cho bà mẹ của người lính trẻ vừa mới lẫm liệt hy sinh. Bà
thoáng một chút xúc động ngạc nhiên nhin tôi nói lời cám ơn.Tôi nghĩ
là bà không nhận ra tôi, người đă chỉ huy cuộc hành quân năm xưa, và
từng đóng quân ngay trong vườn của nhà bà. Chia tay bà, trên đường
trở về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, tôi suy nghĩ mông lung. Trong cuộc
chiến này, quả thật, có những điều mà người ta không thể nào hiểu
được.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại