Những người tù cuối cùng

Hồi Kư: Phạm Gia Đại

Khu Rừng Lá Buông

Trời đă sẫm lại từ lúc nào, bóng tối đă bao phủ cả khu vực trại giam Z-30D Hàm Tân,Thuận Hải, tất cả đều yên tĩnh và chỉ c̣n nghe vẳng từ thật xa tiếng gió xào xạc qua những khu rừng lá.

Bên phía các buồng giam tù h́nh sự im ắng lạ thường bởi v́ hầu hết đều kéo lên hội trường để xem phim bộ và những ngọn đèn vàng không đủ chiếu sáng cái sân trại quá rộng.

Tôi ngồi trên chiếc ghế đá trước cửa buồng và nh́n lên bầu trời xanh thẳm không một gợn mây với những ngôi sao lung linh như muốn đem thêm chút ánh sáng xuống cho một vùng trái đất đang đi vào bóng đêm.

Chợt một ngôi sao đang đổi ngôi. Tôi nhớ có ai đó nói với tôi rằng nếu ḿnh ước nguyện điều ǵ khi có một v́ sao đang đổi ngôi th́ sẽ được toại nguyện, nên vừa nh́n ngôi sao đó tôi vừa cầu nguyện cho tất cả các tù nhân chính trị chế độ cũ đang bị giam giữ ngay chính trên quê hương họ sẽ sớm được trả tự do.

Sau bữa cơm chiều, tôi đă ngồi đó một ḿnh trên ghế đá.
Trong buồng, các bạn tôi đang đọc sách báo, nằm nghỉ trên giường, hay đang ngồi uống trà hàn huyên để chuẩn bị đi ngủ.

Phía bên phải căn buồng là một căn pḥng được xây cao hơn với bực tam cấp và dành cho bốn ông Tướng c̣n lại là Lê Minh Đảo, Trần Bá Di, Lê Văn Thân và Đỗ Kế Giai.

Mỗi ông tướng đều có một nét riêng mà anh em chúng tôi đều kính mến như những người anh cả trong gia đ́nh.

Anh Đảo th́ văn nghệ, và là người hùng của trận Xuân Lộc nơi mà sư đoàn 18 bộ binh của ông dù súng đạn đă cạn nhưng tinh thần vẫn bất khuất và vẫn anh dũng chặn đứng và cầm chân bốn sư đoàn Bắc Việt trong tỉnh Long Khánh hơn hai tuần lễ và chúng đă không thể tiến thêm được một bước nào về Sàig̣n như kế hoạch đă chỉ thị. Anh Di th́ luôn tươi cười khi nói chuyện với anh em. Anh Thân th́ hoà nhă, và anh Giai th́ luôn thâm trầm nhưng lại rất cởi mở và rôm rả khi chúng tôi ghé lên mấy bậc tam cấp thăm các anh.

Tôi nghe thấy tiếng sáo du dương của ông Thân ḥa với tiếng đàn ghi ta của ông Đảo vẳng xuống trong một bản nhạc mà ông Đảo đă sáng tác riêng để tặng cho Mẹ. Chợt tôi thấy ḷng ḿnh như lâng lâng theo tiếng đàn và tiếng sáo và một nỗi buồn man mác từ đâu đưa tới v́ mới đó mà đă bốn năm rồi kể từ khi chuyển trại vào miền Nam và chúng tôi vẫn c̣n ở lại nơi đây.

Tướng Lê Minh Đảo và bạn bè đồng đội cùng thân nhân

Quả là thời gian thật vô t́nh và lạnh lùng như gịng suối ngày đêm róc rách không ngừng chảy qua khu rừng lá Buông này vậy.

Bây giờ là tháng Tư năm một chín chín hai và chúng tôi vỏn vẹn chỉ c̣n đúng hai mươi người trong đó có bốn tướng và mười sáu anh em từ cấp đại tá, trung tá, thiếu tá, trung úy, một anh hồi chánh viên, một thiếu úy trinh sát tỉnh (PRU), hai anh trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo (PĐUTƯTB) và một anh về từ tầu Việt Nam Thương Tín (VNTT).

Mỗi người đúng là một vẻ khác nhau nhưng thẩy đều có một điểm chung là đang đi trên quăng đường gian nan cuối cùng của một cuộc hành tŕnh tưởng rằng sẽ không bao giờ tới đích.

Đây là những người tù cuối cùng đă bị bắt hay "tập trung cải tạo" từ sau khi mất miền Nam, những người đă cùng tôi đi suốt chặng đường dài lịch sử của mười bẩy năm "tập trung cải tạo" ṛng ră. Một quăng thời gian mà không một ai dù là có một trí tưởng tượng phong phú đến cách mấy có thể h́nh dung được chiều dài của nó với bao nhiêu là biến động thăng trầm và sóng gió của một đời người trong trại giam Cộng Sản, nhất là ở một đất nước nghèo đói và lạc hậu nhất thế giới như tại Việt Nam dưới chế độ xă hội chủ nghĩa.

Ngoài các vị tướng lănh và đại tá, trung tá An Ninh Quân Đội (ANQĐ) hay các thiếu tá Cảnh Sát Đặc Biệt (CSĐB) là những người mang "nợ máu với nhân dân" như Cộng Sản vẫn tuyên truyền th́ anh Hoà chỉ là thiếu úy trinh sát tỉnh (PRU) và anh Miên một hồi chánh viên hay anh Bửu Uy, một nhân viên PĐUTƯTB mà không hiểu v́ sao cũng mang một lư lịch thật "nặng kư" mà Bộ Nội Vụ họ không muốn thả.
Cũng như anh Hiểu, người về từ tầu VNTT, chỉ v́ nhớ vợ nhớ con mà đă nhất định bỏ bến bờ Tự Do mà ḿnh vừa đặt chân tới để bước lên con tầu định mệnh mà trở về.

Nhưng than ôi khi tầu vừa vào hải phận Nha Trang th́ các người trên tầu đều bị điệu ngay vào bờ và nhốt ngay vào trại giam không cần xét hỏi ǵ trước. Anh Hiểu th́ bị kiên giam ngay trong điều kiện vô cùng ngặt nghèo bởi v́ lư lịch anh là làm việc cho toà lănh sự Mỹ tại Vùng II trước đó, cho nên họ nghi anh và các người trên tầu đều là gián điệp của Mỹ gửi về để đánh phá "Cách Mạng"?

Anh không những không về được căn nhà cũ để thăm vợ con để được nh́n mặt những người thân yêu một lần nữa mà cũng không ra khỏi khu biệt giam để rồi bất ngờ bị ném vào một cuộc hành tŕnh kéo dài tới mười bẩy năm "tập trung cải tạo" tưởng như dài vô tận đầy những gian nan và uất hận.
Tổng kết một cách sơ lược th́ thấy số tù nhân c̣n lại đều thuộc về những ngành dính dáng đến an ninh và t́nh báo như ANQĐ, CSĐB, và PĐUTƯTB, họ được xem như những nhân vật "nặng kư" nên được "chiếu cố" một cách kỹ lưỡng suốt mười bẩy năm, qua bao nhiêu là trại giam từ Nam ra Bắc và lại từ Bắc xuôi về Nam.

Nhưng nh́n những nét mặt b́nh thản có vẻ vô tư của họ và những nụ cười mà họ trao đổi với nhau, ít ai hiểu được bao nhiêu là gian truân hiểm nguy, nhọc nhằn, và tủi nhục mà họ đă phải đi qua trong suốt chiều dài của mười bẩy năm tù đầy và lao động khổ sai triền miên trên chính đất nước và quê hương của họ dưới mũi súng của quân thù nay là kẻ chiến thắng. Nhiều lúc nh́n lại chính tôi cũng không hiểu tại sao mà ḿnh c̣n sống sót đến giờ phút này.

Phải chăng ông Trời phú cho con người một sức chịu đựng phi thường, một tiềm năng vô tận để đáp ứng lại mọi t́nh huống khó khăn nhất, căng thẳng nhất cả về tinh thần lẫn vật chất?

Phải chăng những lời cầu nguyện của chúng tôi hằng đêm đă động đến ḷng thương xót của Trời Phật và Ơn Trên đă cứu giúp?

Có những tai nạn xẩy ra hầu như hàng ngày mà chúng tôi vẫn thoát khỏi trong đường tơ kẽ tóc bao nhiêu năm qua có phải đă có bàn tay mầu nhiệm nào che chở?

Tôi chợt nhớ tới một đoạn trong thông điệp gửi nhân dân Mỹ vào dịp Giáng Sinh vào khoảng năm một chín tám ba, Tổng Thống Ronald Reagan "đă đề cập đến t́nh h́nh thế giới, chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Sô, và cuối bản thông điệp Tổng Thống có gửi lời thăm hỏi đến gia đ́nh và những tù nhân chính trị tại Việt Nam; những con người trước kia đă hằng ngày đối mặt với quân thù ngoài chiến trường, và nay trong trại giam vẫn hằng ngày đối diện với kẻ thù, đang phải chịu những sự trả thù một cách tàn bạo và hy sinh trong lặng lẽ âm thầm, và Tổng Thống nhắn nhủ rằng ông và chính phủ Hoa Kỳ không bao giờ quên họ - những vị anh hùng".

Sau đợt thả Tết năm Nhâm Thân đầu năm một chín chín hai th́ tổng số những người tù cuối cùng của Ba Sao chuyển vào Hàm Tân bốn năm trước từ một trăm năm mươi tư người bây giờ chỉ c̣n lại đúng hai mươi người. Hai mươi người này được tập trung hết vào đội 23 để tiếp tục lao động mỗi ngày, nhưng t́nh h́nh đă hoàn toàn đổi khác thuận lơị một cách bất ngờ. Chúng tôi chỉ đi ra hiện trường lao động cho có lệ chứ không c̣n phải lao động theo chỉ tiêu như trước.

Quân số đội 23 là hai mươi người, nhưng đúng ra phải kể cả con chó Pepsi rất là dễ thương của Hoàng Hiểu -người về từ VNTT- nữa là hai mươi mốt.

Con Pepsi này anh Hiểu đă xin khi nó mới sanh ra và nuôi nó lớn lên thành con vật được cưng chiều nhất của đội, được mọi người yêu thích và mỗi khi đội xuất trại lao động là nó chạy theo.

Anh đặt tên cho nó là Pepsi không biết có phải để nhớ lại vùng đất Tự Do mà anh vừa đặt chân đến nhưng đă chối bỏ nó rồi bước lên tầu VNTT để t́m về với vợ con và sa chân vào gông cùm xiềng xích?
Khi anh Hiểu vào rừng đi đốn củi cho đội th́ con Pepsi cũng chạy theo, hay lẽo đẽo theo tôi ra chỗ lao động nằm trong bóng mát nh́n các ông chủ của nó cuốc đất hay trồng cây, hoặc theo anh Thắng, đầu bếp của đội nằm trong lán để chờ đến chiều trước khi về trại là được anh Hiểu, tôi hay anh Thắng tắm cho nó bên cạnh gịng suối. Những lúc nó được tôi sát sà bông và tắm rửa sạch sẽ xong th́ thường nh́n tôi với cặp mắt biết ơn rồi lon ton theo đội vào trại.

Có lần nó chạy vào rừng sâu rỡn chơi cái ǵ không biết, khi về th́ ôi thôi hôi hám chịu không nổi và tôi đă phải nhấn đầu nó xuống gịng suối một lúc rồi mới dám sát sà bông và cọ rửa cho nó. Bực quá, tôi phát cho nó mấy cái thật mạnh vào mông vậy mà nó biết lỗi và im lặng chịu đ̣n đuôi cúp xuống va không dám phản ứng ǵ.

Có những lần tôi được gọi ra khu thăm nuôi và trong khi đang ngồi nói chuyện với gia đ́nh, tôi nghe thấy tiếng cào cào vào cánh cửa và cái đầu của con Pepsi ngó vào trong để cho tôi thấy là nó cũng có mặt như là một thành viên trong gia đ́nh vậy, thật là dễ thương hết sức. Nó chờ cho đến khi tôi bước ra vuốt đầu nó khen ngoan th́ mới vẫy đuôi chạy mất về đội.

Nhiều lúc tôi cũng không giải thích được, y như là nó nghe được tiếng người vậy nên khi thấy tôi chuẩn bị vô trại th́ sau đó nó chạy theo và ra tận khu thăm nuôi để t́m tôi cho bằng được.

Trong thời gian tại trại Hàm Tân, một điều đặc biệt là buồng giam chúng tôi không có khoá cửa ban đêm, trong khi cứ sáu giờ chiều là khu bên trại h́nh sự cửa ngơ đều khoá trái. Chỉ có điều là đúng chín giờ tối th́ có một cán binh bảo vệ đi tuần ngang qua và nhắc chúng tôi vào trong buồng không ở ngoài sân nữa và khép hờ cửa lại mà thôi. Điều này làm tôi nhớ lại khi mới bị tập trung vào "cải tạo" tại trại cô nhi Long Thành th́ chung quanh chỉ có một hàng rào dựng lên với những tấm liếp bằng tôn đơn sơ mà thôi và các căn pḥng th́ không có cả cửa sổ và cửa ra vào nữa, không khóa cửa y như bây giờ, một chu kỳ đă khép kín lại chăng?

Một đặc biệt nữa của trại Hàm Tân này mà thiếu tá Nhu trưởng trại dành cho chúng tôi là tù nhân chính trị được mời đi xem các phim bộ mỗi đêm trên hội trường miễn phí trong khi h́nh sự nam và nữ phải mua vé. Đây cũng là một h́nh thức kinh doanh rất thành công của thiếu tá Nhu v́ trong tù có ǵ mà giải trí đâu cho nên tối đến là hội trường đông nghẹt tù nam và tù nữ trong những bộ quần áo thời trang và cũng là dịp cho họ ḥ hẹn gập gỡ nhau.

Một nhóm chúng tôi thường hay đi cùng với nhau những buổi tối để xem những phim bộ nổi tiếng lúc bấy giờ như "Vơ Tắc Thiên", "Thái B́nh Công Chúa",v.v., và mỗi khi đến cổng hội trường th́ các anh chị trật tự đều chào hỏi chúng tôi một cách trân trọng, và đứng qua một bên nhường đường cho chúng tôi vào và hai hàng ghế trên cùng là ưu tiên để trống dành cho các bác, các chú, các anh tù chính trị.
Nơi ăn ở của chúng tôi v́ số lượng c̣n lại quá ít nên được dành cho hai buồng nhỏ nhưng sạch sẽ trong một góc trại, và có giường đơn riêng cho mỗi người chứ không c̣n phải nằm xếp lớp như cá ṃi trước kia trên những phản gỗ hay xi măng; c̣n toàn khu trại rộng mênh mông là dành cho tù h́nh sự nam và nữ.

Trong thời gian này, chúng tôi có phần may mắn v́ dù là ít người nhưng phía bên h́nh sự từ trật tự viên đến tù nhân nam nữ thẩy đều tỏ ra có thiện cảm với chúng tôi nên những năm tháng cuối cùng ở đây cũng dễ chịu và không có ǵ nguy hiểm. Một phần cũng do khi họ có cần ǵ th́ anh em chúng tôi đều bảo nhau giúp đỡ cho họ về thuốc men hay thực phẩm khô khi gia đ́nh họ chưa tới thăm kịp thời. Đây cũng là phẩm chất của người Quốc Gia trong con người tù nhân chính trị, cho nên khi đi đến đâu cũng đối xử với ḷng hảo tâm và nhờ đó mà chiếm được nhân tâm mọi người, làm dịu đi sự căm thù của tuyên truyền chống lại họ hay chuyển thù thành bạn.

Thật là hoàn toàn trái ngược với thời gian khi mới chuyển trại từ Nam ra Bắc sau khi mất miền Nam, và phải ở chung với bên h́nh sự với sự đối xử như muốn nhận chúng tôi xuống bùn đen.

Ban ngày th́ lao động và khẩu phần ăn thiếu thốn đă làm chúng tôi kiệt quệ về sức khoẻ, ban chiều về trại lại phải nghe những tiếng mắng chửi thậm tệ nào là "bán nước" nào là "Mỹ Ngụy",v.v., từ phiá các đội lao động h́nh sự mà tôi tin là có bàn tay khích động của các cán bộ của họ đằng sau lưng. Mục đích là làm cho chúng tôi thêm ê chề và là một h́nh thức trả thù cả về thể xác lẫn tinh thần đối với những người bại trận.

Nh́n lại bốn năm trước, khi chuyển trại từ Ba Sao Nam Hà về Hàm Tân Z-30D, miền Nam, chúng tôi chín mươi người tù cuối cùng tại miền Bắc được tập trung với những anh em c̣n lại trong Nam thành tổng số khoảng một trăm năm mươi tư người và chia ra thành hai đội để đi lao động.

Đội 23 gồm các tướng và các anh tuổi từ năm mươi lăm trở lên và được lao động nhẹ hơn, và phần c̣n lại dưới năm mươi lăm tuổi th́ được "biên chế" về Đội 20 và lao động chỉ tiêu theo như bên h́nh sự. Được cái thuận lợi là khí hậu miền Nam dù ban ngày có nóng nực đi chăng nữa nhưng ban đêm th́ rất dễ chịu chứ không nóng như nung người về đêm của mùa Hè hay giá lạnh căm căm của mùa Đông mưa phùn gió bấc của xứ Bắc nên sức khoẻ chúng tôi cũng dần dần khá lên. Gia đ́nh cũng ở gần nên sự tiếp tế được thường xuyên hơn.

Nhưng sau mười ba năm lưu đầy từ Nam ra Bắc, không ngờ cuối cùng về Hàm Tân chúng tôi lại bị cưỡng bách lao động khổ sai trong khi tay trưởng trại công khai tuyên bố là các anh về đây để được ở gần gia đ́nh và chờ ngày được thả về mà thôi.

Một hôm, có băo rớt ở miền Trung và vùng khu rừng lá Buông này th́ chỉ mưa lất phất nhưng gió mạnh, và tụi tôi được lệnh "vô thung" tức là theo các đội h́nh sự vào sâu trong thung lũng để trồng cây đào lộn hột bấy giờ là mục tiêu sản xuất chính của trại.

Khi đi qua một khu rừng thưa, dù là vác trên vai cuốc xẻng mà chúng tôi vẫn cố lần từng bước một để bám chặt chân xuống đất v́ gió thổi quét ngang rất nguy hiểm. Măi mới di chuyển ra khỏi được vùng gió xoáy đó.

Không ai bảo ai chúng tôi đều quẳng các đồ nghề xuống bên đường và ngồi nghỉ, người vấn điếu thuốc, người nhấp ngụm nước trước cặp mắt ngạc nhiên của tay quản giáo và bảo vệ trong khi các đội h́nh sự khác vẫn từ từ qua mặt. Tay quản giáo kêu anh đội trưởng cho đội tiếp tục lên đường để vào khu sản xuất, anh đội trưởng nói là anh em đều đă mệt và phải nghỉ một chút rồi mới đi được. Thường th́ bao giờ quản giáo ra lệnh th́ đội mới được nghỉ ngơi, bây giờ tự dưng tất cả đội nghỉ ngang xương làm cho tay quản giáo vừa tức giận vừa ngạc nhiên. Y sợ trách nhiệm nên hối thúc mọi người đứng dậy.
Có lẽ tức nước vỡ bờ v́ tuổi đời đều đă cao, sức khoẻ không c̣n mà vẫn bị cưỡng bách lao động theo các đội h́nh sự trẻ tuổi nên anh em mỗi người một câu để chống đối lại sự cưỡng bức lao động phi lư đó nên như ngọn sóng càng lúc càng lên cao dần và bùng nổ ra thành một cuộc biểu t́nh ngồi lần đầu tiên xẩy ra của đội 20 trước con mắt tṛn xoe của tay quản giáo và đám cán bộ của các đội khác đang xúm lại chỉ chỏ.

- "Các ông phải biết rằng con vật mà dồn nó vào chân tường th́ nó cũng phản ứng chứ đừng nói ǵ con người" .

- "Ông vào trong trại thông báo cho Ban biết rằng chúng tôi không thể lao động như thế này được nữa và tùy Ban quyết định."

Tay quản giáo đành phải bảo chúng tôi vào một căn nhà hoang bên đường để tạm nghỉ trong khi hắn đạp xe đạp vào trại để xin chỉ thị.

Đến nước này rồi th́ không thể lui lại được nữa và anh em chúng tôi nh́n nhau và sẽ chấp nhận bất cứ h́nh phạt nào chứ nhất quyết không lao động ngày hôm đó.

Một giờ đồng hồ trôi qua không thấy ǵ, rồi một giờ nữa th́ có tay thượng úy, phó trại và hai cán bộ đến nói chuyện. Sau khi nghe các anh em trong đội phân tích và phản đối cách lao động không hợp lư dành cho đội 20 th́ tay thượng úy có lẽ đă được chỉ thị trước, đồng ư cho đội rút về trại.

Kể từ ngày hôm đó th́ đội 20 sẽ chỉ lao động chung quanh trại mà thôi và không phải theo chỉ tiêu như bên h́nh sự nữa. Anh em chúng tôi thở ra nhẹ nhơm với chiến thắng bất ngờ đó và lục tục kéo về trại trước những cặp mắt ngạc nhiên của các tay cán bộ và cán binh bảo vệ v́ nếu như bên h́nh sự mà chống đối như vậy th́ cùm ít nhất hai tuần lễ, biệt giam và cắt thăm nuôi.

Trong bốn năm chúng tôi ở trại Hàm Tân, quy chế về thăm nuôi cũng được nới lỏng nên gia đ́nh đến thăm có thể truyện tṛ thoải mái chứ không bị khó chịu v́ sự hiện diện của tay cán bộ phụ trách như những năm mới được gia đ́nh đến thăm tại các trại ở miền Bắc.

Tay trại trưởng thiếu tá Nhu cũng tỏ ra rất nể trọng các cấp chỉ huy của tù chính trị và thỉnh thoảng buổi tối lại mời mấy ông tướng tù chính trị ra nhà riêng để uống trà và thăm hỏi.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, vậy mà chúng tôi đă trải qua bốn năm rồi ở trại Hàm Tân, ngồi trên chiếc ghế đá hơi sương đêm bắt đầu thấm lạnh. Tôi đứng dậy bước vào buồng để lại một đêm nữa sắp qua đi. Cái lạnh làm cho tôi nhớ lại một đêm về sáng, một đêm mà suốt cuộc đời tôi không sao quên được.

Cánh cửa Địa Ngục

Chúng tôi ngồi đó trên dốc đồi thoai thoải nh́n xuống hướng xa lộ chạy về Sàig̣n phía bên ngoài của một lớp hàng rào đan vào nhau bằng những tấm tôn mỏng chạy ṿng chung quanh khu làng cô nhi Long Thành nay đă được biến thành trại tạm giam cho các tù "cải tạo" thuộc chế độ cũ .

Trời đă mát và bóng nắng đang lùi xa dần về hướng xa lộ, hơn ngàn anh em chúng tôi - những người đang bị tập trung tại cái cô nhi viện hoang vắng này đă một năm rồi - thường vẫn hay đi tản bộ quanh khu nhà hay ngồi bên dốc đồi mà mắt hướng về phía Sàig̣n sau bữa cơm chiều. Có lẽ trong mỗi người, tuy không nói ra nhưng ai cũng tự hỏi bây giờ những người thân yêu của họ đang làm ǵ và có nhớ đến họ như họ đang thương nhớ đây không? Và cuộc sống của những người thân thương ấy bây giờ ra sao sau một năm dài không tin tức?

Tôi nhớ lại một năm trước, hôm xách ba lô và nhờ cậu em họ chở đến nơi tập trung là trường Chu Văn An trước đôi mắt mở to ngạc nhiên của hai đứa con lúc đó mới bốn và năm tuổi và chúng hỏi tôi rằng Bố đi đâu vậy và bao giờ th́ Bố về? Tôi cố ngăn niềm xúc động đang dâng lên trong ḷng và bảo cậu em họ nổ máy xe ra đi mà không dám ngoảnh nh́n lại và cũng không ngờ rằng tôi sẽ chẳng bao giờ c̣n trở về mái nhà đó nữa.

Ngày ra đi ấy theo như lời tuyên truyền của Uỷ Ban Quân Quản thành phố th́ sẽ kéo dài một tháng, nhưng không ngờ thời gian đó đă thành như thiên thu bất tận nhằm nghiền nát cuộc đời của hàng trăm ngàn thanh niên miền Nam trong những trại giam mà được khoác cho chiếc áo lừa bịp cả trong nước và thế giới là "khoan hồng nhân đạo" và "tập trung cải tạo".

Khi bước chân vào ngôi trường Chu Văn An năm xưa, ḷng tôi không khỏi bồi hồi nh́n lại ngôi trường thân yêu mà đúng mười năm trước tôi đă thi đậu Tú Tài II để rồi trôi vào gịng đời. Mười năm rồi, thời gian đủ để cho vật đổi sao dời nhưng sao ngôi trường vẫn những h́nh nét ấy không đổi thay.

Một người dáng thư sinh vừa đi ngang qua chỗ tôi ngồi ngoài hành lang, đúng là ông thầy trẻ tuổi dậy Anh văn chúng tôi năm Đệ Tam. Vẫn cái dáng thư sinh và gọng kính trắng ấy, nhưng h́nh như thầy gầy ốm đi nhiều và tâm trí th́ để nơi đâu nên cứ lầm lũi bước đi qua đám người trong đó có tôi, đang nằm ngồi ngổn ngang bên trong và ngoài các lớp học, những con người với một tương lai vô định.

Sau khi chiếm được miền Nam, với cái chiến thắng quá nhanh và hầu như bất chiến tự nhiên thành đó, Cộng quân quá ngỡ ngàng nên có nhiều thành phố bỏ ngỏ cả tuần lễ sau Cộng quân mới dám ḷ ḍ đến để "tiếp thu" v́ vẫn c̣n e ngại là người Mỹ chưa thực tâm bỏ rơi miền Nam hay dụ họ vào thành phố bỏ hoang để tiêu diệt như một số cán binh họ nói lại sau này.

Ủy Ban Quân Quản với sự chỉ đạo của miền Bắc đă tuyên truyền ầm ĩ trong nước và trên thế giới về cái gọi là chính sách "khoan hồng nhân đạo" và cho hàng triệu người đă cộng tác với chế độ cũ "được đi học tập cải tạo" ba ngày tại địa phương cho sơ cấp và mười ngày hay một tháng cho trung và cao cấp.

Tôi được thông báo là chuẩn bị đi một tháng và tập trung tại trường Chu Văn An. Ngồi nh́n chung quanh, tôi chưa gập một khuôn mặt thân quen nào, có thể v́ quá đông. Tôi bèn nằm dài ra dựa vào ba lô t́m giấc ngủ. Khoảng nửa đêm th́ nghe tiếng của một đoàn xe căm nhông Nga Sô loại Motorola chạy vào khuôn viên của trường và chúng tôi được đánh thức dậy để lên hết trên xe, rồi đoàn xe di chuyển dọc theo xa lộ và thẩy chúng tôi xuống làng cô nhi Long Thành này.

Lúc đó cô nhi viện này chỉ c̣n là những cái xác nhà trống tuyếch không cửa sổ lẫn cửa ra vào và nằm thành hai dẫy.

Ngày thứ hai mươi chín tại trại Long Thành, anh Thúy thuộc Phủ Đặc Ủy TƯTB nằm đối diện, nh́n tôi nheo mắt lại ư nói rằng thời hạn một tháng như họ tuyên bố đă chấm dứt. Anh Lộc, Quyền Đặc Ủy Trưởng th́ hỏi tôi nghĩ ra sao và khi tôi chưa kịp trả lời th́ anh đă nh́n tôi một cách rất bi quan và nói là anh không tin họ sẽ thả chúng ta ra đúng một tháng như họ đă tuyên truyền.
Ngày hôm sau đúng một tháng tṛn đi "cải tạo", tất cả đều yên tịnh không có một dấu hiệu ǵ khác lạ và y như một ngày thường; cho đến buổi chiều th́ đột nhiên có một nhóm cán bộ mặc quần áo đồng phục xanh theo kiểu "giải phóng", đội mũ tai bèo và vài tên chỉ huy Bắc Việt vào trại và ra lệnh cho chúng tôi tập hợp lại hết trong một căn nhà trống.

Có một anh Bảy nào đó đứng ra nói chuyện về chính sách "khoan hồng nhân đạo" và về những "tội" mà chúng tôi đă làm trước kia "chống lại nhân dân". Cuối cùng anh nói một câu thật là ngắn gọn và thật là giản dị rằng thời hạn một tháng đă chấm dứt và chúng tôi không phải đóng tiền gạo hàng tháng nữa mà từ nay Đảng và Nhà Nước sẽ nuôi các anh "học tập" cho tốt để trở thành "người dân lương thiện" hầu hội nhập với xă hội sau này, và hỏi xem ai có thắc mắc ǵ không.

Khi anh vừa dứt tiếng, cả căn nhà dùng làm hội trường chợt im lặng, một cái im lặng chết chóc khác thường đang bao phủ tất cả chúng tôi và không ai bảo ai mọi người đều lặng lẽ trở về chỗ nằm.

Đêm ấy, tôi không tài nào chợp mắt được, đêm Long Thành thật là mát mẻ, trên trời ánh sáng lung linh mờ ảo và nhạt nḥa của Mặt Trăng thượng tuần tỏa xuống thật yếu ớt không đủ đem xuống một chút tin yêu nào cho những con người đang sa cơ thất thế trong tay địch. Tôi ra ngoài hàng hiên ngồi tựa vào tường và nh́n ra xa lộ lúc đó đă tím thẫm và lâu lắm mới thấy một chiếc xe chạy vụt qua như nó cũng sợ bóng đêm vậy.

Một lát sau, tôi thấy lục tục một số bạn cũng ra hàng hiên ngồi hút thuốc và tâm sự với nhau. Một anh bạn đốc sự Phó Quận nói nhỏ với tôi: "Họ chỉ cần giam giữ chúng ta như thế này thôi th́ buồn chán quá chúng ta từ từ cũng chết."

Không biết đó có phải là điềm báo trước hay không v́ sau đó không những thời gian giam cầm không c̣n hạn định nữa mà họ cũng chẳng cho chúng tôi ngồi không để buồn chán đến chết, mà chiến dịch "Lao Động là Vinh Quang" c̣n làm cho chúng tôi dần dần kiệt sức trong t́nh trạng sống dở chết dở.
Buổi tối hôm đó, lần đầu tiên tôi hút hết bao thuốc Basto xanh với anh bạn bên cạnh và nằm thao thức măi chờ trời sáng.

Chúng tôi bắt đầu làm quen với lao động tay chân như trồng khoai, sắn, rau muống, lên luống và thời gian từ từ trôi qua cho đến đúng sáu tháng th́ có một đợt thả lớn và hầu hết các chị và các anh em tương đối "nhẹ tội" hơn đă được kêu tên ra về và tổng số hơn ba ngàn người chỉ c̣n lại hơn một ngàn và được "biên chế" về hết bên dăy trái, c̣n dăy bên phải th́ bỏ trống.

Sau đó th́ họ sàng lọc lại và "biên chế" chúng tôi vài lần nữa và tôi được đưa về căn nhà số sáu cùng với một anh Sửu, bạn cùng ngành nhưng khác sở và một số sĩ quan cấp tá của ngành đặc biệt, một số thuộc ngành an ninh và Phủ Đặc Ủy.

Sống trong trại Long Thành được một năm th́ một đêm, một đêm cũng b́nh thường như những đêm khác, nhưng tôi không bao giờ quên được cái đêm tăm tối ấy.

Buổi tối hôm đó, đang nằm ngủ th́ tự dưng có linh tính ǵ khiến tôi thức dậy, đồng hồ mới chỉ một giờ sáng, tôi tung cái mùng ra và bước ra ngoài hiên nh́n ra sân.

Cả khu trại yên lặng như tờ và đen như mực không một ánh sáng ǵ của trăng sao, chỉ thỉnh thoảng mới thấy vài cán binh mũ tai bèo và bộ đội Bắc Việt vác súng đi tuần ngoài sân ra hiệu cho tôi trở vào căn nhà.

Vừa quay ḿnh định bước chân vào th́ tôi chợt thấy lấp loáng ánh đèn pin từ phía cổng trại chiếu vào về phía tôi đang đứng và tiếng người nói lao xao và chỉ một phút sau th́ khoảng vài chục bộ đội đa số là Bắc Việt và súng AK lăm lăm trong tay di chuyển thẳng về căn nhà tôi đang ở.

Tôi vội chui lại vào trong mùng và huưch tay đánh thức hai thằng bạn hai bên thức dậy. Vừa lúc đó th́ đám bộ đội đó xộc vào căn pḥng và ra lệnh cho chúng tôi ra tập hợp ngoài sân.

Tôi cảm thấy một thoáng hơi lạnh chạy dọc theo xương sống rồi b́nh tĩnh trở lại nhưng mấy anh bạn khác th́ không biết có phải v́ sương đêm đang đổ xuống thấm lạnh nên tay châm điếu thuốc măi mà không cháy.

Chúng tôi nh́n nhau lần nữa và trong đầu nghĩ rằng thế là xong và mỗi người sẽ lănh một viên đạn trả nợ cuộc đời - cái giá cho kẻ thua trận.

Căn nhà chúng tôi đang ở gồm hai trăm người và sắp hàng trước sân, toán bộ đội khoảng bốn chục người chia ra bao vây chúng tôi rồi một tay chỉ huy rút một tờ giấy trong túi ra nói rằng những ai có tên th́ đứng qua một bên.

Anh ta c̣n trẻ và không đeo "quân hàm" nên không rơ cấp bậc ǵ. Rất thản nhiên và cũng rất là từ từ anh ta đọc tên từng người một, đến người thứ tư là họ tên của tôi trong tổng số tất cả bốn mươi người đă được sàng lọc trong danh sách hai trăm người.

Tay chỉ huy này với cặp mắt lạnh lùng bảo chúng tôi bốn mươi người hăy gấp rút chuẩn bị để di chuyển với hành lư gọn nhẹ, trong khi các tay cán binh th́ lăm lăm tay súng như chực nhả đạn và mắt th́ nh́n chúng tôi một cách thù hận.

Tôi vội vă nhét được những ǵ có thể vào trong một cái ba lô và ra dấu cho các bạn c̣n ở lại những món đồ mà tôi không đem đi được để họ tiếp tục có cái mà dùng, rồi quay ra giúp cho anh bạn cùng ngành với tôi xách theo cái thùng đựng nước. Tôi cũng không rơ anh đem theo cái thùng này để làm ǵ trong khi có nhiều thứ khác cần mang theo hơn, hay có lẽ thấy cái ǵ trong tầm tay th́ anh xách theo v́ đầu óc cũng đang bối rối chăng.

Ngoài sân, trời th́ tối đen và chúng tôi chỉ có thể phân biệt được là đang di chuyển về phiá cổng trại nhờ ánh đèn đường yếu ớt chiếu xuống và ánh đèn pin loang loáng của các cán binh đi theo áp tải.

Anh bạn đang đi bên cạnh tôi chợt thở dốc có lẽ v́ cơn suyễn và buông cái túi xách xuống dừng lại để thở, một tên cán binh bước lại giơ báng súng lên thúc dục, tôi vội giơ tay ra cản và xách dùm cái túi và đi kèm sát bên anh.

Cuối cùng th́ chúng tôi cũng ra đến chỗ đậu xe cách đó gần nữa cây số. Tên chỉ huy lúc năy ra khẩu lệnh cho chúng tôi khi đoàn xe di chuyển, nhắc lại từng điểm chúng tôi không được làm khi ngồi trên xe, và nói sẽ trừng trị nếu ai vi phạm, và lần đầu tiên trong đời tôi biết cái c̣ng số tám và sợi xích sắt. V́ số c̣ng đă hết nên họ đă dùng những sợi dây xích bằng sắt để xích hai người lại với nhau. Tay trái tôi xích vào tay phải của anh Sửu và tên cán binh siết lại thật chặt rồi mới tra ổ khoá vào. Cổ tay anh Sửu lớn hơn cổ tay tôi nên tôi nh́n rơ nét đau đớn hiện lên trên khuôn mặt sạm nắng của anh.

Anh cũng làm cho toà đại sứ Hoa Kỳ (HK) tại Sàig̣n như tôi, anh th́ yểm trợ cho Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành c̣n tôi th́ cho Phủ Tổng Thống. Anh đă đi theo bao nhiêu là chuyến bay trong tháng Tư năm một chín bẩy lăm từ Sàig̣n ra Guam và vài căn cứ nữa của Mỹ trên Thái B́nh Dương (TBD) để chuyên chở tài liệu và nhân viên không thiết yếu di tản trước.

Các nhân viên sứ quán Mỹ cần thiết th́ đă nhận được lệnh là phải ở lại yểm trợ cho chính phủ VNCH cho đến giờ phút cuối cùng rồi mới được di tản sau. Không ngờ chuyến cuối cùng th́ anh bị kẹt lại Sàig̣n v́ chương tŕnh di tản bằng đường hàng không từ Tân Sơn Nhất đă bị đ́nh chỉ v́ tên phi công nằm vùng Nguyễn Thành Trung đă lợi dụng t́nh h́nh để bỏ bom vào sân bay Tân Sơn Nhất; và chỉ c̣n con đường độc nhất di tản là bằng trực thăng mà thôi.

Riêng tôi th́ ba ngày trước khi Sàig̣n sụp đổ đă được các cố vấn Mỹ thân cận trong buổi họp sau chót tại sứ quán Hoa Kỳ hứa hẹn là tôi vẫn nên hết sức yểm trợ phía chính phủ VNCH đến cùng, và họ sẽ đem trực thăng đến đón gia đ́nh tôi tại nhà dù là trong t́nh trạng dầu sôi lửa bỏng.

Kế hoạch di tản thứ nh́ là năm ngàn thủy quân lục chiến Mỹ (TQLC) từ Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi TBD sẽ vào để thiết lập một ṿng đai an toàn từ Sàig̣n ra tới Vũng Tầu cho chương tŕnh di tản bằng đường bộ được tiếp tục nếu đường hàng không bị trở ngại.

Khi buổi họp kết thúc, mọi người đều tin tưởng rằng chương tŕnh di tản sẽ được thực thi hoàn hảo và những nhân viên thiết yếu của sứ quán HK cũng sẽ được ra đi chu toàn trước khi Sàig̣n rơi vào tay quân Bắc Việt.

Chiếc trực thăng hứa hẹn đón gia đ́nh tôi ấy không bao giờ xuất hiện và ṿng đai an toàn Sàig̣n-Vũng Tầu của TQLC Mỹ đó cũng trôi theo gịng nước như những lời hứa cam kết không bao giờ bỏ miền Nam của chính phủ và các Tổng Thống HK.

Thế rồi chúng tôi leo lên những xe cam nhông bít bùng, chỉ hở phía sau, chạy bon bon trên xa lộ, thỉnh thoảng mới thấy dọc hai bên có một vài hàng quán ven đường đang chuẩn bị mở cửa cho một ngày buôn bán mới, với những ngọn đèn dầu hiu hắt. Thành phố h́nh như đang say ngủ, c̣n tất cả chỉ là bóng đêm và gió thổi xào xạc trên những ngọn cây.

Khoảng một giờ đồng hồ sau khi xe chạy trên xa lộ và rẽ quặt vào qua ba cánh cửa sắt đến trong sân th́ chúng tôi nhận ra đang ở trong trại Cải Huấn Thủ Đức.

Khi bốn chục người được dồn chung vào một căn pḥng xong th́ cánh cửa sắt to lớn nặng nề đóng sầm lại và khoá trái bên ngoài.

Một năm ở trại Long Thành, họ đă để cửa ngỏ, bây giờ lần đầu tiên họ chính thức đối xử với chúng tôi như những tù nhân.

Sau ba ngày giam giữ tại trại Thủ Đức, đêm ngày thứ ba nghe thấy tiếng lách cách mở khoá, chúng tôi ngồi dậy và được lệnh nhanh gọn tập trung di chuyển nữa.

Ra đến sân trại th́ thấy chai lọ và các vật dụng cá nhân linh tinh vất đầy sân bừa băi, như vậy là đă có những toán khác vừa ra đi xong.

Hai chiếc xe âm thầm chạy trong đêm hướng về thành phố, tim tôi tự dưng đập mạnh hơn khi nghĩ đến những người thân yêu chắc giờ này đang say ngủ nhưng rồi hai chiếc cam nhông không đi vào thành phố mà lại rẽ vào phi trường và đổ đám tù nhân xuống bên cạnh chiếc máy bay vận tải khổng lồ Hercules C-130 của HK để lại cho Không Quân VNCH,

Ngồi trên chiếc C-130 với phi công là một trung tá cũ của không quân VNCH ḷng tôi ngổn ngang trăm mối v́ chỉ mới mấy ngày qua mà bao nhiêu là biến đổi và không biết tương lai ḿnh và các bạn ḿnh sẽ đi về đâu?

Chiếc C-130 này là loại máy bay mà tôi sử dụng nhiều nhất trước kia khi c̣n làm việc cho Đệ Thất Không Đoàn Hoa Kỳ trong những chuyến bay ra miền Trung nhưng không ngờ bây giờ tôi lại ngồi trên chiếc ghế vải này trong thân phận tù tội, cuộc đời quả thật không ai học được chữ ngờ. Sau này tôi được tin là viên trung tá phi công VNCH chở tụi tôi chuyến đó và một vài chuyến nữa xong cũng được Đảng và Nhà Nước Cộng Sản chiếu cố "khoan hồng" cho đi "cải tạo". Họ chỉ sử dụng một số nhân tài của miền Nam tạm thời xong là cho đi luôn nếu có dính dáng ǵ đến chế độ cũ.

Một thời gian sau, tôi c̣n nghe được tin là đám "Mặt Trận Giải Phóng miền Nam" cũng được Hà Nội cho đi chỗ khác chơi, và "Thành Đồng" đă trở thành "đồng nát" hết.

Chiếc C-130 cứ bay lặng lẽ hết giờ này qua giờ khác, chúng tôi nh́n nhau tự hỏi hay là họ cho phi cơ bay ṿng ṿng sợ chúng tôi đoán biết được nơi sẽ đến? Có anh em đoán rằng họ sẽ đem tù ra Phú Quốc để giam giữ tại đó nhưng sau khi bay được khoảng gần bốn tiếng đồng hồ th́ tay cán bộ ngồi cạnh tôi, tóc bạc, không đeo cấp bậc quay sang hỏi tôi là đă đi trên chiếc C-130 này lần nào chưa và có biết đi đâu không. Khi ông ta hỏi lần thứ nh́ th́ tôi mới trả lời là đă nhiều lần rồi và không biết. Khi ông ta nói nơi máy bay đang đáp xuống th́ tất cả các anh em ngồi gần nghe được thẩy đều bàng hoàng.

Chiếc Hercules khổng lồ đang lượn cánh để đáp xuống phi trường Gia Lâm, miền Bắc xă hội chủ nghĩa.

Chúng tôi cũng như hàng vài chục ngàn người tù chính trị khác đă được phân loại "nguy hiểm cho chế độ" và phải được di chuyển ngay bằng mọi phương tiện từ Nam ra Bắc. Bứng chúng tôi khỏi mọi gốc rễ miền Nam để họ rảnh tay đưa miền Nam mau chóng vào quỹ đạo của xă hội chủ nghĩa.

Lúc đó trời đă rạng sáng và vào cuối mùa Hè, chúng tôi đặt chân xuống đất bên cạnh những túi xách hay ba lô cá nhân, hai người một vẫn bị c̣ng lại với nhau suốt chặng đường từ trại Cải Huấn Thủ Đức ra sân bay và trên máy bay.

Nh́n sân bay Gia Lâm, một sân bay được coi là lớn vào hàng thứ nh́ tại miền Bắc mà hoang tàn và hoang phế như một sân cỏ với những đám cỏ tranh và bông lau cao đến nửa người mà không ai buồn ngó ngàng tới, tôi như có một linh cảm không lành về đợt chuyển trại này. So với sự nhộn nhịp của phi trường Tân Sơn Nhất th́ sân bay Gia Lâm này là vùng đất chết. Tôi như cảm nhận được cái ǵ thật lạnh lẽo u ám không sinh khí khi vừa đặt chân xuống sân bay và miền đất hoang dă này.

Qủa thật chỉ trong một đêm, không ngờ chúng tôi đă giă từ miền Nam thân yêu để đặt chân lên miền Bắc xă hội chủ nghĩa hoàn toàn xa lạ như đến một đất nước khác không phải trên quê hương ḿnh.Trên bước đường lưu đầy, tôi cũng không thể nào ngờ rằng bao nhiêu những ǵ tăm tối nhất, đọa đầy nhất, ngục tù nhất trên thế gian đang chờ đón tôi và các người tù này trong suốt mười hai năm trời ṛng ră.

Nếu lúc đó họ ban cho mỗi người chúng tôi một phát súng th́ họ c̣n một chút nhân đạo nhưng mười hai năm lao động khổ sai lưu đầy trong t́nh trạng thiếu ăn thiếu mặc và suy dinh dưỡng, qua những mùa Hè nắng chói chang kiệt sức ban ngày và oi bức mất ngủ ban đêm và những mùa Đông dài âm u lạnh thấu xương tủy th́ chúng tôi chợt hiểu rằng họ không muốn cho chúng tôi chết đi dễ dàng.

Chính sách "khoan hồng nhân đạo" đó làm chúng tôi sống dở mà chết đi cũng không được bởi v́ họ đă áp dụng đúng mức cái phương pháp "cải tạo" của Nga Sô và Trung Cộng trong các trại tập trung. Họ đă t́m ra cách trả thù thâm độc nhất là để cho chúng tôi sống nhưng chết đi từng giờ, từng ngày, từng tháng, và từng năm.

Chúng tôi đă vừa bước chân vào chốn Địa Ngục trần gian, nơi không có ngày tháng, nơi hoang vắng t́nh người, nơi mà sự sống và cái chết luôn kề cận bên nhau như bóng với h́nh, và nơi mà tính mạng con người không hơn cọng rơm và cỏ rác.

Cánh cửa của Địa Ngục vừa mở rộng ra để đón nhận chúng tôi vào

Hạnh Phúc Mong Manh

Anh ngồi bên những luống cải, rau muống và mấy cái dàn mướp, bí bầu và khổ qua, nghỉ một lát để chờ giờ nhập trại với các bạn trong đội 23. Các bạn anh hầu hết ai cũng t́m một mảnh đất nhỏ nào để canh tác riêng cho ḿnh, nhờ thế mà vừa có được rau tươi sạch sẽ cho bữa cơm lại vừa giữ được sức khoẻ.

Anh là một trong 20 người tù chính trị của chế độ cũ c̣n sót lại sau bao nhiêu là đợt thả ở trại Hàm Tân Z-30D này. V́ số lượng c̣n lại quá ít nên trại đă hầu như để cho anh và các bạn được thoải mái lao động tự giác chứ không c̣n chế độ giao chỉ tiêu nữa, nên nhờ Trời cũng dễ thở hơn.

Bầu trời chiều nay một mầu xanh thẳm và trong vắt không gợn một áng mây. Anh nh́n ra chung quanh toàn là những cây Buông lớn nhỏ bao quanh khu vực sản xuất và những con suối róc rách chẩy qua gần đó, một vùng mà ngày trước là khu rừng thiêng nước độc ít ai dám ở, sau nhờ vào các người tù h́nh sự về đây đầu tiên rồi đến những tù chính trị về khai phá và đă làm cho khu vực này trở thành thuần hóa hơn và phát triển mạnh và đem lại sự sung túc cho trại từ dạo ấy.

Nh́n lại ḿnh, anh vẫn không thể tượng tượng rằng ḿnh vẫn c̣n sống, thật như là một phép lạ. Tay anh rờ một bẹ cải xanh đang vươn ra chắc nịch, nâng trái bí đă quá nặng lên trên dàn, để cảm nhận đích thực rằng ḿnh vẫn c̣n hiện hữu trong một cuộc sống quá lênh đênh trên cơi đời này. Nhiều lúc anh cho rằng ḿnh đă sinh ra dưới một ngôi sao xấu để tự an ủi ḿnh mà thôi nhưng dầu sao th́ ḿnh vẫn c̣n đây dù là những người thân yêu nhất của anh th́ bây giờ đă xa cách ngh́n trùng.

Hạnh phúc nhỏ nhoi nhất của anh là những khi được thư từ hay những món quà nho nhỏ từ nửa bên kia ṿng trái đất gửi về, dù là anh biết đêm hôm đó ḿnh sẽ không thể nào đi t́m được giấc ngủ. Ban đêm, ngồi một ḿnh trên chiếc giường đơn trong cái mùng vải trong khi đọc kinh và khấn nguyện trước khi đi ngủ, anh có lần thầm trách ông Trời bất công, tại sao vừa cho anh một chút hạnh phúc nhỏ nhoi th́ đă lấy lại của anh một giấc ngủ? Tuy vậy, anh vẫn thầm nghĩ rằng số phận cuối cùng đă mỉm cười với anh bởi v́ anh vẫn c̣n sống.

Những buổi chiều êm đềm như buổi chiều hôm nay với tiếng gió th́ thào thổi qua rừng lá Buông, tiếng chim hót líu lo như gọi nhau bay về tổ ấm của chúng v́ màn đêm sắp buông xuống, th́ tâm hồn anh thật nhẹ nhàng và thấy như ḷng ḿnh lắng đọng và những cảnh vật chung quanh như mờ dần đi và cái con tầu ấy như từ từ hiện rơ dần ra như một cơn ác mộng mà anh không thể nào quên được...
Cuộc đời anh quả thật như một cuốn tiểu thuyết đầy những yếu tố bất ngờ kể từ khi anh và hàng ngàn người Việt Nam đă quyết định trở về quê hương trên con tầu Việt Nam Thương Tín (VNTT) định mệnh đó.

Chuyến trở về trên con tầu định mệnh mà đă vùi dập cuộc đời của hàng ngàn người chỉ v́ ḷng thương nhớ gia đ́nh, thương nhớ quê hương của họ.

Khi miền Nam đang ch́m trong khói lửa của biến cố 30 tháng Tư tang tóc th́ anh may mắn đi thoát được đến đảo Guam, bến bờ của Tự Do - niềm ao ước vô biên của hàng bao nhiêu triệu người Việt Nam vào ngày mà Sàig̣n sụp đổ và những năm tháng sau đó.

Vậy mà anh đă quyết định trở về sau một thời gian ngắn đến được đảo Tự Do này bởi v́ vợ con anh đều bị kẹt ở lại Sàig̣n.

H́nh ảnh người vợ hiền và những đứa con dại c̣n ở lại quê nhà cứ ám ảnh tâm trí anh dù là anh đang được sống trong bầu không khí Tự Do và tạm đầy đủ về vật chất trên đảo này.

Trách nhiệm người chồng, người cha trong hoàn cảnh loạn ly đă không quay về kịp để đón vợ con ḿnh và đành phải ra đi ngậm ngùi một ḿnh đă làm cho anh bao đêm thao thức và đó cũng là tâm trạng của những người quyết định lên tầu VNTT để trở về quê hương.

Nhưng có một điều họ quên rằng quê hương của họ nay đă đổi thay, căn nhà xưa nay đă đổi chủ.
Khi những người trong đoàn bước qua cái cổng sau cùng để lên chiếc tầu VNTT th́ những người Mỹ trong chương tŕnh định cư đă hết lời khuyên can họ nên quay lại vẫn c̣n kịp bởi v́ về tới Việt Nam (VN), họ sẽ bị giam giữ và tù đầy; nhưng ḷng thôi thúc v́ thương nhớ vợ con gia đ́nh và quê hương đă thắng.

Anh cũng như họ bỏ ngoài tai những lời cảnh cáo của giới chức Hoa Kỳ và bước lên con tầu định mệnh.
Khi con tầu nhổ neo quay mũi hướng về hải phận VN th́ họ không thấy đâu cái anh chàng mà tranh đấu hăng nhất thậm chí c̣n đốt phá một số căn lều trên đảo để đ̣i về VN mọi giá cho bằng được đâu nữa. Lúc ấy mọi người mới lờ mờ hiểu ra rằng anh ta là một Việt Cộng (VC) nằm vùng th́ cũng đă quá trễ rồi.

Hoá ra là VC trong kế hoạch hậu chiến của chúng đă cài người vào gịng người di tản qua Mỹ để tiếp tục phá hoại trong cộng đồng chúng ta tại hải ngoại.

Con tầu vẫn lặng lẽ rẽ sóng và khi người tài công báo cho biết là sắp vào hải phận Nha Trang th́ mọi người đều reo ḥ mừng rỡ v́ người Quốc Gia chúng ta ai lại không nặng ḷng v́ gia đ́nh vợ con và v́ quê hương đất nước?

Nhưng niềm vui đó không kéo dài được bao lâu th́ được lệnh từ trong bờ đánh ra là tầu phải bỏ neo ngoài khơi và không được tiến gần sát vào băi biển khi chưa có lệnh làm mọi người đều thắc mắc.
Họ phải chờ đến gần tối th́ mới thấy ba con tầu nhỏ có vơ trang và bộ đội trên đó ra đón và đưa hết họ vào bờ để con thuyền VNTT lẻ loi nằm lại cho sóng vỗ ŕ rào ngoài khơi.

Lúc đó họ mới cảm thấy một cái ǵ nguy hiểm đang ŕnh rập chung quanh nhưng đă quá muộn màng v́ một màn lưới giăng ra đă phủ chụp xuống đầu họ bất ngờ, tóm gọn hết toàn bộ những người trở về trên con tầu VNTT. Một lực lượng vũ trang hùng hậu và một đoàn xe vận tải đă chờ sẵn để chào đón họ trên băi biển.

Tất cả đều bị tống giam theo lệnh từ trên đưa xuống trong sự ngỡ ngàng đến cùng cực của mọi người và những lời phân bua giải thích như tiếng kêu trong sa mạc.

Một vài ngày sau th́ những đàn bà và con nít được thả ra cho về trước, c̣n các thanh niên và đàn ông đều phải trải qua cuộc thẩm tra ngày đêm v́ họ nghi ngờ rằng t́nh báo Mỹ đưa người về lại VN để đánh phá "cách mạng". Anh đúng là từ trên Thiên Đường phút chốc rơi xuống Hỏa Ngục trên đất nước của ḿnh.

Anh đă bị họ khám xét không c̣n một chỗ nào trên người thoát khỏi cặp mắt cú vọ của mấy tên công an và phản gián. Những lời khai của anh là v́ nhớ vợ con mà quay về không được họ chấp nhận và những cuộc hỏi cung như liên tu bất tận làm cho anh kiệt sức.

Họ khám xét từng centimét trên con người của anh từ cọng tóc đến ngón chân, thậm chí soi cả vào cổ họng, hốc mũi, hai vành tai cho đến cả hậu môn làm cho anh cảm thấy ḿnh không c̣n là con người nữa trong tay của họ. Những tháng ngày giam giữ sau khi tầu về đến VN là những ngày tháng kinh hoàng cho anh và những người trở về.

Họ xem xét kỹ từng tờ giấy, chiếc bút bi, áo quần, giầy vớ, và tịch thu hết ṿng vàng, đồng hồ và dĩ nhiên tất cả đô la mà anh đem về.

Một số nhỏ sau đó được thả về, c̣n đa số bị chuyển đến trại giam khác và bắt đầu một cuộc hành tŕnh đến một nơi vô định với một bản án không công bố và không có thời hạn v́ chủ trương của họ là thà giam lầm hơn thả lầm.

Anh c̣n bị chiếu cố kỹ hơn nữa v́ trước năm 1975, anh là nhân viên của tổng lănh sự Mỹ tại Nha Trang nên họ kết luận ngay là điệp viên Hoa Kỳ và không cần xét xử ǵ lâu la hơn.

Giấc mơ được về sum họp với gia đ́nh được nh́n thấy vợ con của anh tan ra như bọt sóng đại dương một cách thật không thể nào h́nh dung ra nổi với cái chế độ mới kỳ quái này trên cái quê hương này nữa.

Anh không những không được nh́n thấy vợ con ḿnh, gia đ́nh anh cũng không hề được thông báo là anh đă trở về để đến thăm anh mà thân anh tự dưng sa vào ṿng tù tội không biết lúc nào ra.

Cuộc đời anh từ đó gian nan và phiêu lưu c̣n hơn câu chuyện người tù khổ sai Papillon anh từng đọc khi trước.

Sau nhiều năm qua nhiều trại giam và ra lưu đầy tại miền Bắc th́ anh mới bắt đầu nhận được tin gia đ́nh như một cái sét đánh ngang tai v́ vợ con anh quá nhớ thương anh và không chịu nổi đời sống ḱm kẹp và tàn bạo của chế độ Cộng Sản nên đă lên đường vượt biển. Anh từ bên kia bờ đại dương theo tầu trở về, không gập được những người thân yêu, rơi vào tù tội trong khi vợ con anh lại nghĩ rằng anh đang trên đất Tự Do và lao ra biển để t́m đường sum họp. Ông Trời quả thật là quá trớ trêu để cho con Tạo xoay vần như không.

Bao nhiêu năm sau đó anh sống như người mất hồn trong một thân xác trống rỗng cho đến khi qua những gia đ́nh bạn anh đến thăm nuôi th́ anh được tin là vợ con anh đă đến được bến bờ Tự Do b́nh yên, lúc đó anh bắt đầu b́nh tĩnh trở lại và cố gắng sống c̣n để mong c̣n có ngày đoàn tụ.

Những ngày tháng đầu tiên trong pḥng biệt giam, ăn uống thiếu thốn toàn khoai sắn và thẩm vấn căng thẳng ngày đêm, đă có những lúc anh nghĩ đến sự giải thoát cho thân xác hết đau khổ, nhưng h́nh ảnh vợ con hiện lên làm anh lại cố gắng chịu đựng từng ngày. Sau một thời bị biệt giam, anh được đưa ra buồng giam lớn và may mắn được ở chung với các bạn tù chính trị chế độ cũ và sức khoẻ của anh dần dần hồi phục.

Năm 1979, khi từng đoàn người trong Nam tải hàng tiếp tế cho chồng con của họ đang bị giam trong các trại miền Bắc th́ việc thăm nuôi đó, những sự hy sinh đó của gia đ́nh đă đem lại luồng sinh khí cho những người tù này trong đó có anh.

Ngay cả những trại giam và những cán bộ phụ trách khu thăm nuôi cũng bẩy tỏ ḷng thán phục với gương hy sinh của những người vợ, người Mẹ hay thân nhân vất vả từ Nam ra Bắc. Ngoài ra, anh cũng lên tinh thần khi biết phía bên kia bờ biển Thái B́nh Dương cũng có nhiều cá nhân hội đoàn VN và Hoa Kỳ đang ngày đêm tranh đấu cho những người tù chính trị sớm được thả ra khỏi trại giam.

Nhờ vào những sự tranh đấu này và sự tiếp tế vật chất tiền bạc thuốc men từ gia đ́nh mà cuộc sống của anh và các bạn trong lao động khổ sai và lưu đầy cũng bớt phần gian khổ và nhân phẩm được tôn trọng hơn. Những người tù này không c̣n phải mặc áo quần đóng dấu "cải tạo" sau lưng nữa, có thể mặc quần tây áo sơ mi gia đ́nh gửi đến, và buổi tối được ở ngoài sân cho đến chín giờ th́ mới phải vào buồng giam.

Anh dù là qua bao nhiêu gian truân bao nhiêu là thăng trầm như từ cơi chết trở về cơi sống nhưng lúc nào anh cũng tỏ ra hoà nhă và vui vẻ với mọi người chung quanh nhất là với các bạn tù đống cảnh ngộ và được anh em thương mến.

Nhiều người cũng về từ tầu VNTT và cũng bị lưu đầy ra miền Bắc nhưng dần dần họ được thả ra về hết. Anh Hoá, Trung Úy cũng v́ theo tầu về mà bị giam mười ba năm là người bị giam lâu nhất sau anh. Sau đợt thả lớn vào tháng chín năm một chín tám bẩy và dịp Tết năm một chín tám tám th́ chỉ c̣n chín mươi người tù chính trị c̣n lại trên đất Bắc trong trại Nam Hà và anh là người duy nhất c̣n lại của chiếc tầu định mệnh VNTT.

Thời gian sống chung tại trại Nam Hà, những khi kể về con tầu VNTT, anh kể lại với một sự b́nh tĩnh và chấp nhận số mệnh và không hề tỏ lời than trách Chúa hay Ơn Trên và vẫn dốc tâm cầu nguyện hằng đêm theo tôn giáo của ḿnh. Anh cũng t́m niềm vui khi xin nhận con chó con Pepsi về nuôi và chia sẻ niềm vui đó cho cả đội.

Đối với các cán bộ trại, anh luôn tỏ ra điềm tĩnh và sẵn sàng giúp đỡ cho họ hay khu gia binh nếu cần đến thuốc men hay vật dụng ǵ mà anh có và do đó anh cũng thâu được cảm t́nh và sự v́ nể của các cán bộ trại giam. Chính v́ những con người như anh mà cuộc sống của những tù nhân bên chính trị được cởi mở hơn và t́nh trạng căng thẳng giữa tù nhân và phía trại giam cũng không c̣n và lần đầu tiên mà nhiều người trong khu gia binh đă gọi anh và các bạn là ân nhân của họ.

Mỗi khi có chuyển trại th́ khu gia binh kéo ra đầy đường và giơ tay của mấy đứa con nhỏ đang bồng lên vẫy chào và luyến tiếc những người tù nhiều ḷng vị tha này.

Có những cán bộ nữ thường xuyên liên lạc với chúng tôi về mua bán tại căng-tin chẳng hạn th́ chạy xe đạp thẳng vào trại đến trước cửa buồng giam để chúc chúng tôi mạnh khoẻ khi vào trại mới, và mắt th́ đỏ hoe và giọng nghẹn ngào xong th́ lại vội vă chạy xe đạp ra sợ các người khác trông thấy. Có tên trực trại trước kia được mệnh danh là "hung thần" khi thấy chúng tôi lần lượt lên xe di chuyển vào Nam th́ thốt ra một câu:"Các anh đi rồi chúng tôi như chết đi nửa người và trại này sẽ hoang vắng lắm".

Chúng tôi đều không ngờ rằng sau mười mấy năm bị tập trung "cải tạo" th́ người bị cải tạo lại chính là họ, những người phía bên kia chiến tuyến.

Anh nh́n tôi và các bạn và trong ḷng chúng tôi đang rộn lên một niềm vui v́ kết cuộc th́ sự nhẫn nhục chịu đựng và ḷng vị tha của những người tù này đă khiến cho một điều không thể xẩy ra được đă xẩy ra, đó là những bông hoa đă nở ra được trong ḷng Địa Ngục trần gian trên miền Bắc.

Anh là Hoàng Hiểu, người về từ con tầu VNTT, một trong 20 người tù cuối cùng, chỉ v́ ḷng thương nhớ vợ con mà đă phải trả bằng cái giá của mười bẩy năm tù đầy.

Anh được thả ra khỏi trại Hàm Tân, B́nh Thuận ngày 29 tháng Tư năm một chín chín hai. Một năm sau th́ anh được đưa vào danh sách Z-05 theo chương tŕnh H.O. và qua Mỹ đoàn tụ với gia đ́nh. Một cuộc đoàn tụ đầy xúc cảm và nước mắt nhưng là những giọt nước mắt của hạnh phúc sum vầy; một h́nh ảnh đoàn tụ mà anh cứ tưởng sẽ đến với anh mười bẩy năm trước khi anh leo lên con tầu VNTT để về lại quê hương

Huyền Thoại về Một V́ Sư

Mỗi năm cứ vào tháng Tư âm lịch th́ chúng ta lại liên tưởng đến lễ Phật Đản, đến đạo Phật thậm thâm vi diệu đă ăn sâu trong đời sống dân gian từ hàng ngàn năm nay và đă trở thành mẫu mực cho một xă hội đạo đức và thịnh trị từ ngàn xưa .

Kính Phật th́ phải trọng tăng nhưng không dễ ǵ trong cuộc sống đời thường mà chúng ta có cơ duyên gập được các vị cao tăng, các vị chân tu đức hạnh cao dầy, huống chi là trong những năm tháng đọa đầy trong ngục tù tăm tối của các trại giam dưới chế độ Cộng Sản tại miền Bắc xă hội chủ nghĩa.

Vậy mà thật là bất ngờ tôi lại có được cái diễm phúc ấy, không những được gập mà c̣n được sống chung trong một trại và nhiều khi cùng một buồng giam với những vị sư Nha Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ cũ Việt Nam Cộng Ḥa, và những vị Linh Mục, Mục Sư Tuyên Úy nữa trong một thời gian dài của hơn năm năm lưu đầy.

Lúc đó khoảng cuối năm một chín tám mươi mốt, tất cả các vị Tuyên Úy được chuyển trại từ Thanh Cẩm, Thanh Hóa ra miền trung du để về trại giam Hà Tây, Hà Sơn B́nh và hai năm sau th́ tất cả lại được di chuyển về trại Nam Hà, Hà Nam Ninh.

Mỗi vị trong Nha Tuyên Úy đều có một sắc thái khác nhau, nhưng vị sư này là một con người rất b́nh dị nhưng đă làm được những việc phi thường của một bậc xuất phàm mà nếu muốn viết thật đầy đủ về thầy th́ phải một cuốn sách dầy mới nói hết được những huyền thoại về cuộc đời của thầy, nhất là trong hơn mười hai năm thầy bị tù đầy giam cầm thầy đă chia sẽ gian khổ bên cạnh các người tù chính trị chế độ cũ như thế nào.

Đó là Trung Tá, quyền giám đốc Nha Tuyên Uư Phật Giáo, Thượng Tọa Thích Thanh Long. Thầy đă đứng ra nhận trách nhiệm điều hành Nha Tuyên Uư khi Thượng Tọa Thích Tâm Giác viên tịch để chăm sóc về tinh thần cho các quân nhân Phật tử và cũng v́ lẽ đó mà thầy và toàn thể các vị trong Nha Tuyên Uư đều phải vào tù khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản v́ các thầy đều được phong cho cấp bậc từ đại úy đến trung tá của QLVNCH để dễ làm việc với các quân nhân Phật tử.

Khi đó thầy Long và thầy Tâm, hoà thượng Thích Thiện Chánh là hai vị chức vụ cao nhất trong Nha Tuyên Uư tại thủ đô Sàig̣n được lệnh của mấy tay sư quốc doanh trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đến gập họ để bàn giao các cơ sở Phật giáo trong Sàig̣n.

Họ chiêu dụ hai thầy hăy gia nhập vào phong trào "Phật Giáo Yêu Nước" mới thành lập này để tránh không phải đi tập trung "cải tạo".

Thầy Long rất b́nh tĩnh từ chối lời đề nghị ấy nhưng nghiêm khắc chỉ vào mặt Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu là những nhà sư hoạt động cho Cộng Sản trước kia mà mắng rằng: " Thân tôi dù có làm kiếp ḍi bọ trong hố xí th́ cũng phải biết đến đạo đức và liêm sỉ. Các ông đă dựng lên cái "Phật Giáo Yêu Nước" này th́ con đường các ông chọn lựa các ông cứ đi, c̣n tôi, tôi chấp nhận vô tù cùng với các Phật tử và chiến hữu của tôi."

Hai vị sư này chính là người mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đă bắt giam trước năm 1975 v́ hoạt động cho Cộng Sản. Thích Minh Nguyệt đă bị đày ra Côn Đảo, c̣n Thích Thiện Siêu th́ thường được gọi là ông sư chùa Từ Đàm v́ tu ở chùa này ngoài Huế.

Sau đó chính Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đă đứng ra bảo lănh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối cải mà trở về lại con đường tu hành v́ họ đă bị lộ h́nh tích. Không ngờ hai nhà sư thân Cộng này vẫn không hối cải và vẫn tiếp tục phản lại đạo và phản lại Quốc Gia và xuất đầu lộ diện sau ngày 30 tháng Tư.

Khi bàn giao thủ tục xong th́ Thầy Long và thầy Tâm thanh thản ra về và thanh thản bước chân vào chốn lao tù. Mấy tay sư quốc doanh đó cũng sượng mặt v́ biết rằng thuyết phục cũng không làm ǵ lay chuyển được thầy. Chúng có âm mưu lôi kéo thầy vào để huyênh hoang thêm về cái tổ chức Phật giáo quốc doanh đó nhưng đă không thành công mà c̣n bị mất mặt trước đám cán bộ tiếp thu cơ sở hôm đó nữa.

Trước khi Sàig̣n sụp đổ, hai toà đại sứ bạn là Trung Hoa Dân Quốc và Úc đă cho người đến đón thầy đi di tản ra nước ngoài nhưng thầy đă cám ơn họ và nhă nhặn từ chối để ở lại trên quê hương ḿnh v́ thầy không thể bỏ chùa và bỏ Phật tử mà ra đi một ḿnh như thế được. Thầy nói rằng tu hành th́ ở đâu cũng là tu.

Nh́n bề ngoài, thầy giống như một ông già nhà quê chất phác hiền hậu mới ngoài lục tuần nhưng thường thấy trên môi thầy nở nụ cười hỉ xả như một người chẳng có ǵ phải âu lo trong kiếp sống lưu đầy khổ cực này vậy.

Thầy chẳng bao giờ nghĩ đến cá nhân ḿnh mà luôn trải ḷng vị tha và ḷng thương xót của ḿnh với tất cả những người tù chung quanh không kể tôn giáo, c̣n mạnh khoẻ hay đang đau yếu.

Những năm sau, khi có mấy người Phật tử thuần thành từ chùa Giác Ngạn miền Nam ra thăm thầy và đem theo ít vật dụng thức ăn chay và bột đường th́ khi vào trại thầy đă mang tất cả những quà cáp mà thầy vừa nhận được đến từng chỗ nằm của mỗi người tù, ưu tiên những người bệnh hay suy nhược .

Người bệnh nhiều th́ được một thỏi đường móng trâu, bệnh nhẹ th́ nửa thỏi, phân phát hết mà không hề nghĩ đến bản thân ḿnh.

Thầy chia sẻ cả những viên thuốc tây như trị đau bao tử, thuốc bổ, thuốc trị đau nhức cho những anh em nào đang cần và chưa có gia đ́nh đến thăm kịp thời.

Có sống trong những giai đoạn đó mới thấy một hạt muối, một cục đường quí giá như thế nào, có lẽ vàng cũng không sánh được.

V́ sau mấy năm bị giam cầm qua bao nhiêu mùa Hè nắng cháy da, mùa Đông rét lạnh căm căm, những người tù với ăn uống quá thiếu thốn và lao động khổ sai đă trở nên suy nhược và suy dinh dưỡng trầm trọng chỉ c̣n như bộ xương cách trí và khoảng hai phần ba trọng lượng cơ thể v́ thiếu chất bột là cơm gạo, thiếu chất béo là thịt cá và thiếu chất ngọt là đường.

Bởi thế nên nghĩa cử của thầy đem phân phát ân cần từng cục đường, viên thuốc cho các bạn đồng cảnh tù, cho những người đau yếu lúc đó là hành động trông rất b́nh thường của một con người tu hành nhưng lại mang một tính cách phi thường và vô cùng nhân bản của đạo sống giữa đời trong cơi địa ngục trần gian, nơi mà kẻ thù chỉ mong muốn cho họ chết dần đi từng ngày trong đau đớn và tủi nhục.

Những năm tháng mùa Đông trên đất Bắc, người tù c̣n vất vả hơn nữa v́ cái giá rét sương mù mưa phùn gió bấc c̣n làm cho họ càng thêm điêu đứng và bệnh tật nhiều hơn và cái đói cái rét lại càng dầy ṿ họ triền miên ngày đêm cho đến độ bất cứ con ǵ nhúc nhích hay rau cỏ bên vệ đường th́ đều ăn được cả. Từ đó lại thêm căn bệnh về đường ruột làm suy yếu thêm cơ thể vốn dĩ đă suy nhược.
Có môt hôm, tôi đang ngồi nhâm nhi miếng bột hấp bằng ngón tay cái - là khẩu phần dành cho người đi lao động, ở lại buồng v́ đau ốm th́ không có - th́ anh bạn đang nằm dưỡng bệnh bên cạnh là một thiếu tá cảnh sát chế độ cũ đă bị phù thủng lâu rồi không đi lao động được, chợt hai tay buông thơng xuống và trút hơi thở cuối cùng.

Tôi vội kêu các bạn khác đến để khiêng anh xuống bệnh xá cấp cứu nhưng không c̣n kịp nữa. Anh ra đi thật nhẹ nhàng y như một ngọn nến vụt tắt khi không c̣n một chút sáp nào nữa v́ đă cháy đến cuối tim đèn vậy.

Hôm ấy, tụi tôi trong buồng vẫn xuất trại đi lao động b́nh thường, nh́n các bạn cùng đội đang lúi húi cuốc đất khai quang một vùng đất hoang để trồng thêm rau xanh cho trại, tôi hiểu rằng trong đầu họ cũng đang nghĩ như tôi là bao giờ th́ đến lượt ḿnh ra đi đây.

Có lần bàn tay tôi co duỗi không được nữa mỗi buổi sáng khi thức dậy và khi ra lao động phải khó khăn lắm mới cầm vững được cái cuốc hay cái xẻng.

Thế mà như là một phép lạ, khi có phái đoàn ngoại quốc ghe thăm trại th́ bọn họ dàn cảnh bán cho mỗi tù nhân chính trị được một lon sữa đặc có đường. Tôi bèn đục ngay ra uống một hơi một phần ba lon sữa đặc xong th́ sáng hôm sau tỉnh dậy thấy hai bàn tay ḿnh đă co duỗi lại như thường, hoá ra là cơ thể quá thiếu chất đường gây nên sơ cứng cơ bắp và gân cốt cho hai bàn tay và cả cơ thể của ḿnh nữa.

Như là một v́ sao sáng trong bóng tối, Thầy luôn an ủi, khuyến khích, nâng đỡ các bạn tù về cả tinh thần lẫn vật chất và nhiều lúc kể chuyện hay giảng một chút về đạo Phật để xoa dịu nỗi đau khổ của chúng sanh và để cùng d́u nhau đi hết quăng đời tù tội.

Rất nhiều anh em hỏi thầy về đạo Phật, có khi thầy từ tốn giảng giải đôi điều về nghiệp chướng, về thế nào để giữ được lục hoà là sự ḥa hợp trong gia đ́nh, bạn bè, cuộc sống, nhưng cũng có khi thầy chỉ mỉm cười và nói: "Hăy cứ làm điều Thiện là Tu Hành rồi", một câu nói rất đơn giản nhưng bao hàm gói ghém trong đó bao nhiêu là triết lư cao sâu của đạo Phật.

Bởi thế mọi người đều gọi thầy bằng Bố một cách kính trọng và như thầy Khuê, một đại đức trong Nha Tuyên Uư và là huấn luyện viên Tam Đẳng Nhu Đạo của vơ đường Quang Trung, Sàig̣n trước kia, đă nói với tôi rằng thầy là một bậc chân tu và là biểu tượng của đạo Phật trong tù. Thầy Khuê bảo tôi rằng các ông thầy trẻ cũng có ông có sai lầm của họ v́ họ cũng là con người dễ bị cám dỗ bởi vậy không nên v́ một hai ông thầy trẻ này mà mất ḷng tin vào đạo Phật.

Ngược lại, đối với kẻ thù th́ thầy lại đối đầu với chúng tuy bề ngoài trông rất là b́nh tĩnh nhưng lại thật là cương quyết, dũng cảm, không bao giờ đầu hàng, và không bao giờ nhường chúng dù chỉ là một bước; làm cho chúng ta nhớ tới những vị quốc sư thời Lư, Lê, Trần đă gầy công dựng nước và giữ nước ngày xưa.

Những lần cán bộ của Bộ Nội Vụ đến trại bắt hàng loạt tù nhân ra thẩm vấn và làm bản tự khai về tội lỗi của ḿnh đối với "Cách mạng" với "nhân dân", đến phiên thầy th́ thầy ung dung ngồi xuống và chép nguyên bài "Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh" rồi đưa lại cho họ.

Chúng tức điên người lên, đập bàn quát tháo và doạ nạt thầy đủ điều nhưng thầy b́nh thản bảo họ rằng từ bé đến giờ thầy chỉ thuộc có bài kinh đó chứ đâu có biết cái ǵ nữa đâu mà khai báo. Chúng đưa lại tờ giấy giấy khác và baỏ thầy vào buồng giam suy nghĩ cho kỹ rồi viết.

Hôm sau, thầy đem nộp lại cho họ cũng đúng bài "Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh" và nói với họ rằng thầy là người chỉ huy, các ông đại đức Tuyên Úy dưới quyền chỉ là theo lệnh của thầy mà thi hành thôi cho nên họ cứ thả hết các vị sư trong Nha Tuyên Úy ra và muốn giam giữ thầy bao lâu cũng được.

Bọn cán bộ hỏi cung, lúc đầu hùng hổ, sau đổi chiến thuật qua dụ dỗ thầy cũng không xong. Điều kỳ diệu là sau các buổi thẩm vấn và qua cung cách đối đáp và giảng giải đạo Phật thay v́ phải khai báo về ḿnh của thầy, bọn họ, sau nhiều năm khai thác không được, đă tỏ ḷng kính phục vị sư già này. Họ đă đổi cách xưng hô gọi thầy bằng "anh" qua cách gọi bằng "thầy" khi họ đến làm việc lần cuối trước khi thả một đợt lớn tất cả các vị Tuyên Úy vào tháng Chín năm một chín tám bẩy.

Buổi chiều hôm đó, khi tôi đi cùng dạo sân với thầy chờ kẻng điểm danh vào buồng th́ lần đầu tiên tôi thấy thầy quàng vai qua tôi một cách rất thân thương như người cha ôm đứa con vậy và thầy tâm sự với tôi rất lâu.

Thầy nói rằng họ đă hỏi cung thầy nhiều lần và cuối cùng th́ họ đă thất bại v́ - thầy ghé nhỏ nói vào tai tôi là - dù họ có lấy trái bom nguyên tử mà ghè vào đầu thầy th́ thầy vẫn không đầu hàng và thầy nở nụ cười thật tươi và măn nguyện.

Trong ḷng tôi lại càng thêm kính phục một vị chân tu đă làm sáng ngời tôn giáo của ḿnh trong tù và một người chiến sĩ Quốc Gia can trường hiên ngang và dũng cảm đối đầu với quân thù ngay trong hoàn cảnh thất thế và đă làm kẻ thù phải nể phục.

Thầy bảo với tôi rằng cuộc đời của thầy không có ǵ phải ân hận v́ những điều ḿnh làm đều đúng theo lương tâm.

Khi mới lớn th́ Bố Mẹ thầy bắt thầy về từ chùa để lập gia đ́nh nhưng thầy đă cương quyết xin Bố Mẹ cho tiếp tục con đường tu hành v́ thầy đă chọn nó. Tôi có hỏi thầy người con gái đó là ai, th́ thầy cười bảo rằng sau đó th́ Bố Mẹ thầy chấp thuận cho thầy con đường đă chọn và cô ta đă sang Pháp và lập gia đ́nh với một anh bác sĩ; và thầy cũng đă xin lỗi cô ấy v́ đă không tuân theo lời Bố Mẹ được. Mỗi khi nghĩ lại, thầy nói rằng ḿnh đă làm đúng và trong ḷng thấy thanh thản.

Đối với việc hai toà đại sứ bạn đưa người đến để đón thầy di tản trước ngày Sàig̣n sụp đổ và thầy đă quyết định ở lại quê hương và về quyết định của thầy từ chối lời đề nghị hợp tác với "Phật Giáo Yêu Nước" của Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu, rồi chấp nhận vào tù - trong những năm tháng cực kỳ gian nan và đói khổ triền miên và bị kẻ thù hành hạ một cách tiểu nhân trong các trại giam từ miền Trung ra miền Bắc- mỗi khi nghĩ lại, thầy nói rằng thầy rất an tâm v́ ḿnh đă có những quyết định đúng v́ thầy bảo với tôi rằng Cộng Sản nó là Qủy Dữ đấy không thể hợp tác được và phải vào tù cùng với các Phật tử chứ bỏ đi một ḿnh coi sao được.

Tâm sự của thầy cũng y hệt tâm sự của thầy Tâm là vị thầy đă khai sáng cho tôi trong đạo Phật và cũng là dưỡng phụ tinh thần của tôi.

Thầy là bực chân tu nên có được Huệ Nhăn và biết được các chuyện quá khứ vị lai nên đă ưu ái dành cho tôi một buổi dạo chơi trong sân để thắp sáng hơn nữa cho tôi niềm tin vào tương lai v́ có lẽ thầy biết rằng thầy tṛ sẽ chẳng bao giờ c̣n gập lại nhau nữa và biết rằng tôi sẽ c̣n phải đi nốt quăng đời tù tội cho đến cuối cùng chăng.

Chính tôi không ngờ rằng buổi chiều hôm đó là lần cuối cùng hai thầy tṛ gập nhau và có lẽ tôi là người duy nhất có được may mắn mà thầy đă dành cho nhiều th́ giờ tâm sự như vậy bởi v́ chỉ một hay hai ngày sau th́ có đợt thả lớn trong đó toàn bộ các vị tu sĩ, linh mục và mục sư, kể cả thầy Long và thầy Tâm, đều có tên.

Thầy tu từ nhỏ với Sư Ông và đă đạt đến tŕnh độ cao thâm nên có thể thông hiểu các chuyện quá khứ vị lai. Có lần thầy bảo một anh đại úy cùng buồng giam khi đi lao động phải thận trọng về sông nước. Năm đó nước lũ kéo về vùng trại giam Thanh Cẩm ruộng nương đều trắng xoá và mưa gió rét mướt nhưng những người tù vẫn phải đi lao động mỗi khi trời đất êm đi mưa băo.

Khi vượt qua một con suối các tù nhân phải nắm tay nhau chầm chậm và ḍ dẫm từng bước một để băng qua nhưng anh đại úy đó đă vắn số và bị nước lũ cuốn phăng đi.

Một lần khi tôi đang ngồi sau buồng giam để đun nước uống bên cạnh thầy và anh Nguyễn Duy Xuân là viện trưởng viện đại học Cần Thơ th́ đột nhiên thầy quay qua anh Xuân và nói rằng anh phải cẩn thận đấy v́ thầy thấy có một cái ǵ cực độc đang ở trong người anh. Lúc ấy anh Xuân đang mặc áo đà như một người tu tại gia và trông khoẻ mạnh, mỗi sáng đều tập thể dục thường xuyên.

Đâu có ngờ rằng chỉ ít lâu sau th́ anh trở nên ăn khó tiêu và sức khoẻ xuống dần. Gia đ́nh anh bên Pháp gửi về cho anh thuốc bổ gan và thuốc lọc máu nhưng bệnh t́nh không thuyên giảm.

Anh có đưa cho tôi vài gói thuốc lọc máu và bảo tôi uống đi nhưng tôi từ chối v́ không cần thiết. Anh rất là hiền hoà và tỏ ra một con người trí thức và không hề mở miệng than trách một điều ǵ ngay cả khi đă biết ḿnh vướng phải căn bệnh nan y là ung thư bao tử.

Những năm tháng anh nằm dưới bệnh xá của trại, chiều nào lao động về tôi cũng cùng anh Triệu Huỳnh Vơ, thứ trưởng Bộ Tin tức -người mà tôi thường gọi đùa là người chỉ có họ mà không có tên - thả bộ xuống bệnh xá thăm anh th́ anh vẫn c̣n cười và bảo tôi rằng tại sao tôi cứ gọi anh là ông viện trưởng vậy v́ ḿnh mất hết rồi c̣n ǵ đâu. Tôi nắm tay anh nói rằng chúng ta mất hết nhưng học thức của ḿnh không mất, và tôi cũng cho anh biết t́nh h́nh phía Hoa Kỳ đă can thiệp để Hà Nội phải thả hết các tù chính trị đang diễn ra tốt đẹp để anh có thêm sức mạnh tinh thần mà cầm cự với căn bệnh quái ác đó.

Trong bệnh xá, có bác sĩ Trương Như Quưnh rất là giỏi và anh đại tá Đức thuộc lực lượng đặc biệt và anh Trung đại úy cảnh sát hết ḷng chăm sóc nhưng anh Xuân, người viện trưởng mà tôi rất qúy mến ấy đă nhắm mắt lại đúng vào ngày Quốc Tế Nhân Quyền.

Ngày trước hôm anh mất, tôi và anh Vơ xuống thăm mà không cầm được nước mắt v́ thân h́nh anh trên giường bệnh chỉ c̣n là đúng một bộ xương khô. Nếu không có cặp môi c̣n chút mấp máy th́ không ai biết là anh c̣n sống v́ cái đầu óc uyên bác của anh trước kia nay tóp lại chỉ c̣n là một cái đầu lâu không hơn không kém. Trong những ngày cuối anh chỉ sống thoi thóp nhờ vào những giọt nước anh Trung nhỏ từ từ vào cho thấm môi v́ ung thư đă di căn lên từ bao tử chẹt lấy yết hầu và làm anh không thể ăn ǵ được dù là vài giọt cháo loăng.

BS Quưnh và anh Đức đều nh́n tôi và lắc đầu nói rằng bệnh xá đă làm đơn xin cho anh Xuân được về cho gia đ́nh chăm sóc từ lâu rồi mà họ không chấp thuận.

Bộ Nội Vụ biết rằng anh đă bị căn bệnh ngặt nghèo đó nhưng vẫn nhất định không thả. Một lần nữa họ đă cho chúng tôi thấy rơ "chính sách khoan hồng" của họ như thế nào và ḷng hận thù nhỏ nhen của họ đối với chúng tôi như thế nào.

Đó là những dẫn chứng mà tôi tin rằng Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đă đạt đến bực chân tu và thầy chỉ nói những ǵ thật là cần thiết với những người tù đồng cảnh ngộ mà thôi chứ không thể tiết lộ thiên cơ được.

Khi được thả về, thầy Long đă về lại ngôi chùa Giác Ngạn nằm ở cuối con đường Trương Minh Giảng gần nhà Mẹ tôi tại quận Ba, Sàig̣n, là nơi mà thầy đă trụ tŕ trước kia. Thực tế đau ḷng là đă có một vị sư được Nhà Nước cử đến để coi ngôi chùa này kể từ khi thầy vào tù và họ cho thầy trú trong một góc chùa nhưng các Phật tử đă mừng rỡ đến thăm thầy rất đông để chăm sóc sức khoẻ cho thầy.

Ít năm sau th́ tôi nghe tin thầy ngă bệnh và viên tịch trong sự thương tiếc của hàng ngàn Phật tử và hàng ngàn người đă đưa tiễn thầy lần sau cùng.

Khi ấy tôi vẫn c̣n trong trại giam Hàm Tân ở miền Nam và nh́n lên bầu trời cao xanh thăm thẳm kia, tôi như thấy một đóa hoa sen đang rực rỡ tỏa sáng, một đoá sen hồng chân tu mà tôi vô cùng kính phục đă trả xong nợ của một kiếp người và đă bay về miền Vĩnh Cửu; nơi mà chỉ có An Lạc Hạnh Phúc, nơi không c̣n hận thù chém giết và đọa đầy, nơi không c̣n oán tằng và sinh lăo bệnh tử.

Những Vị Sư Nha Tuyên Úy

Nh́n lại gịng lịch sử của dân tộc Việt Nam, đất nước chúng ta như đắm ch́m trong chiến tranh tàn khốc, Ḥa B́nh chẳng khác ǵ những mảnh áo c̣n lành lặn trên một chiến bào tả tơi v́ thương tích.
Ngày mà Sàig̣n sụp đổ mới như hôm nào mà đă 35 năm qua rồi với bao đau thương tang tóc trên quê hương miền Nam dưới chế độ cai trị hà khắc của Cộng Sản (CS).

Nếu chúng ta không viết lại những chiến tích oai hùng của QLVNCH, những công lao to lớn của hàng triệu người đă đứng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ để chiến đấu bảo vệ những giá trị quí báu như Dân Chủ, Tự Do cho ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng tại miền Nam suốt hai mươi năm 1954-1975, th́ những gía trị ấy sẽ dần dần bị rơi vào quên lăng và con cháu chúng ta sau này cũng thiếu tài liệu trung thực để tham khảo về quăng thời gian hai mươi năm ấy.

Khi miền Nam mất vào tay CS, hàng triệu người quân dân cán chính của chế độ cũ đă lần lượt vào tù, và như nhận xét của đài VOA lúc đó th́ hầu như những thành phần ưu tú nhất của chế độ VNCH đang nằm trong lao tù CS từ Nam chí Bắc.

Trong số hàng triệu tù nhân kể trên, đặc biệt c̣n bao gồm cả các nhà sư, các vị linh mục, và mục sư trong các Nha Tuyên úy Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo và Tin Lành v́ các vị này đă được gắn lon sĩ quan giả định để ủy lạo, nâng đỡ tinh thần và làm những nghi thức tôn giáo trong những đơn vị quân đội.
V́ vậy các vị này cũng bị tập trung "cải tạo" và cưỡng bách lao động trong trại giam y như những sĩ quan khác của QLVNCH.

Đứng đầu Nha Tuyên Úy Phật Giáo là Thượng Tọa Thích Thanh Long, quyền Giám Đốc, thứ hai là Thầy Minh Tâm hay Ḥa Thượng Thích Thiện Chánh, Chánh Sở Phật Giáo Đô Thành.

Kỳ trước, tác giả có đề cập đến những huyền thoại về thầy Thích Thanh Long. Kỳ này đề cập đến thầy Minh Tâm với những lời di huấn của thầy đă khai sáng lại niềm tin vào tôn giáo trong những năm tháng lưu đầy khi mà những người tù không c̣n một nơi nào để bám víu vào mà tồn tại.

Khi mà đồng minh Hoa Kỳ đă bỏ rơi để họ sa vào tay kẻ thù, khi mà gia đ́nh th́ quá xa vời và cũng đang khốn khổ bên ngoài v́ gọng ḱm siết chặt của kẻ thắng trận, khi mà chung quanh họ chẳng c̣n ai khác ngoài các chiến hữu cũ, bốn bức tường và những cai tù cay nghiệt đang đọa đầy thân xác họ.
Khi đó chợt xuất hiện những vị lănh đạo tinh thần trong Nha Tuyên Úy trong trại mà tôi đang bị giam giữ, không biết đó là điều ngẫu nhiên hay định mệnh đă an bài để cứu vớt những người tù?

Nh́n bề ngoài, Thầy Long giống như một ông già nhà quê Bắc Kỳ b́nh dị và chất phác trong bộ áo nâu ṣng, nhưng ở con người thầy như thoát ra một ḍng điện nhu ḥa đem lại yên b́nh cho những người chung quanh của một nhà sư mà Tâm đă định, Trí đă ngộ và Huệ đă như bông sen nở ra để cứu độ chúng sanh.

Thầy Minh Tâm th́ đúng là chân chất thật thà như người dân miền Nam Bộ. lúc nào cũng cười hiền hậu và sẵn sàng giúp đỡ các anh em đau ốm như cạo gió hay lể nếu bệnh nặng, hay nói chuyện đời chuyện đạo để an ủi họ.

H́nh như Ơn Trên đă xui khiến cho nên hai thầy đều đă từ chối sự giúp đỡ của các ṭa đại sứ bạn không di tản, để vào tù cùng với các vị linh mục và mục sư mà cứu độ các người tù trong cơi hỏa ngục trần gian.

Bởi tôn giáo trong suốt thời gian đó chính là niềm hy vọng cuối cùng cứu rỗi cho họ, những con người bị bỏ rơi trong tuyệt vọng. Bởi lúc đó, con người sống trong nhục nhằn, đau khổ và đói khát đến tận cùng và hầu hết đă mất niềm tin vào tôn giáo; cho nên những trại giam nơi có bước chân của quí thầy đi qua đă củng cố lại niềm tin ấy và c̣n giúp cho đạo Phật được hoằng dương ngay tại những nơi hoang vu thâm sơn cùng cốc và nghèo nàn nhất.

Thế rồi như một phép lạ, Lễ Phật Đản đầu tiên khoảng năm 1984 đă rơi vào ngày Chủ Nhật và được tổ chức qui mô nhất trong không khí trang nghiêm, trật tự và được Thầy Thích Thanh Long chủ tŕ.
Một căn buống giam đă được chọn, quét dọn gọn gàng sạch sẽ và hai tầng trên có một bàn thờ Phật, một b́nh bông và nhang đèn đầy đủ với hàng trăm tù nhân Phật tử tham dự ngồi đầy hai tầng trên và cả hai tầng dưới.

Một h́nh ảnh thật lạ lùng không ngờ và huyền diệu chưa từng có trong lịch sử trại giam tại miền Bắc xă hội chủ nghĩa. Thầy Khuê, Đệ Tam Đẳng Huyền Đai của vơ đường Nhu Đạo Quang Trung khi xưa được cử ra canh giữ ngoài cổng cùng với hai thầy đại đức khác để đề pḥng đám cán bộ trại có thể bất ngờ vào trại xin trà cà phê thuốc lá.

Nhưng đúng như Thầy Long nói v́ ḿnh thờ Phật và kính Tam Bảo nên ḿnh được chư vị Sơn Thần Thổ Địa che chở, và như Thầy Tâm th́ trại gần chùa Hương Tích nơi thờ Phật Bà Quán Thế Âm nên được hưởng những an lành, cho nên hôm đó bên ngoài trại hầu như trống vắng v́ họ kéo rốc hết ra thị xă để xem một trận đá banh nên buổi lễ mừng Phật Đản năm đó đă diễn ra hết sức viên măn.

Thầy Long chí tâm đảnh lễ chư Phật xong th́ tŕ niệm chú Đại Bi, bài Thập Chú, Sám Pháp, Thập Nhị Nguyện Quán Thế Âm, v.v.

Các Phật tử tŕ niệm theo, những lời kinh trầm trầm êm êm, nhẹ nhàng và thanh thoát bay lên không trung và mọi người như cảm thấy tuy thân trong tù nhưng tâm hồn như đă thoát vút lên cao và những lời kinh cầu đó như xoa dịu đi những nỗi đau của kiếp biệt xứ lưu đầy.

Buổi sáng hôm đó tôi lại học thêm một bài học nữa khi chạy qua khu nhà Văn Hóa v́ bên đó nhờ bàn tay các anh em nghệ nhân mà có một vườn hoa rất đẹp vừa hoa hồng, vạn thọ, hướng dương đủ cả, để xin bó hoa cắm b́nh bông cho buổi lễ. Khi về Thầy Long thấy và bảo tôi rằng chỉ nên lấy vừa đủ bông hoa thôi, không cần nhiều thế, c̣n để cho Trời Đất cùng hưởng hương thơm của cây cảnh.

Từ đó, tôi ngộ được rằng con người ta không phải sống lẻ loi mà cùng với Trời Đất tồn tại. Trời Đất cũng biết thưởng thức hoa cảnh và thiên nhiên như con người và cùng chịu đựng cả những sự tàn phá thiên nhiên mà con người gây ra nữa.

Không những năm ấy là năm duy nhất mà chúng tôi đă tổ chức được một đại lễ Phật Đản trong tù mà vào dịp cuối năm các anh em, do quí vị linh mục và mục sư hướng dẫn cũng đă tổ chức được một lễ Giáng Sinh thật là huy hoàng chưa bao giờ có.

Hàng đoàn người đă mang theo tượng Đức Mẹ và Chúa Giê Su đi rước lễ từ buồng này qua buồng kia và hát những bài thánh ca thật là thanh thoát. Buổi lễ mừng Chúa Giáng Sinh cũng thành công rực rỡ ngoài dự định v́ không kể các con chiên c̣n có nhiều Phật tử trong đó có tôi cũng xin tham dự.
Tôi c̣n may mắn trong thời gian ở chung buồng với quí thầy th́ một hôm Thầy Tâm gọi tôi xuống ngồi cạnh bên chiếc vơng thầy đang nằm và bắt đầu nói chuyện với tôi về đời và đạo.

Tôi cũng không ngờ rằng chính Thầy đang trang bị cho tôi một kiến thức về đạo Phật để giúp cho tôi sau này đủ nghị lực để chống chỏi với những thử thách lớn lao hầu như khó vượt qua nổi của những năm tháng sau cùng c̣n trong tù khi mà các bạn tù của ḿnh lần lượt ra về, và khi mà chiếc phao cuối cùng là người vợ th́ không c̣n đến thăm tôi trong trại giam nữa.

Tôi dần dần làm quen với những sự trống vắng đó v́ biết rằng nếu không quen dần đi th́ nó sẽ giết ḿnh dần theo thời gian và sức khoẻ sẽ suy kiệt.

Có thể Thầy đă tham thiền nhập định và thông hiểu các chuyện quá khứ vị lai nên thầy luôn khuyên tôi phải luôn giữ chánh tâm mà niệm Phật "Lục Tự Di Đà" để giải trừ bớt nghiệp chướng.

Thầy ví trại giam như cái tấm lưới của cái vơng mà thầy đang nằm, nếu ta chấp nhận nghiệp th́ nó sẽ như cái vơng nhưng nếu ta chống lại nó tức là nghịch lại với nghiệp chướng th́ nó sẽ là những sợi dây thừng siết cổ ḿnh lại.

Thầy bảo rằng mỗi chúng sanh đều có nghiệp riêng và quốc gia cũng có lúc hưng thịnh hay suy vong. Mất nước th́ con dân đều phải gánh chịu một phần, kiên tâm chịu đựng th́ tương lai sẽ c̣n. Cái ǵ đă An Bài th́ chúng ta không thể đi ngược lại được Định Mệnh mà phải xuôi theo gịng để xem tương lai sẽ về đâu.

Thầy kể cho tôi nghe về Sư Ông là người thầy của thầy, tu tại chùa Châu Viên tại vùng Thất Sơn, Châu Đốc, là một vị chân tu mà Việt Minh cũng sát hại Sư Ông một cách dă man bằng cách trói tay bằng dây kẽm gai và chặt đầu bằng mă tấu như thời Trung Cổ vậy.

Lúc ấy, Thầy Tâm mới mười mấy tuổi nhưng cảnh tượng hăi hùng đó cả đời thầy không bao giờ quên được; và Thầy dặn tôi rằng không bao giờ chúng ta có thể sống chung với họ được. Họ đây chính là Việt Minh mà sau này đă lộ bộ mặt thật ra là Cộng Sản, tay chân của Nga Sô và Trung Cộng.

Qua những lần thăm nuôi có một vị Tuyên Úy đă bí mật đem vào trại cuốn "Đức Phật và Phật Pháp" và cho tôi mượn. Tôi có lẽ có duyên với đạo Phật hay sao nên tất cả quí thầy nhỏ lớn đều yêu mến tôi nên thường hay gập tôi tṛ truyện những cái hay cái dở của các thầy, nhờ đó tôi lại hiểu thêm nhiều về cả đạo lẫn đời, về căn tu, về Duyên, Nghiệp và Quả Báo.

Trong trại giam họ đặt ra nội qui nghiêm cấm tất cả sách báo từ ngoài vào cho nên có được một cuốn sách Phật trong tay là điều kỳ diệu.

Tôi đă đọc một mạch từ đầu đến cuối cuốn sách và những ḍng chữ ấy như từ từ thấm vào trong người và đem lại cho tôi một bản lănh mà trước đó ḿnh chưa hề có.

Trước kia, tôi thường hay thắc mắc không biết hỏi ai v́ sao hai anh em tôi cùng một mẹ cha, cùng cắp sách học chung trường, cùng lớn lên dưới một mái nhà mà anh tôi, Thiếu Tá HQ lại đoàn tụ được với vợ con hạnh phúc bên Mỹ - Thiên Đàng của Hạ Giới - trước khi Sàig̣n sụp đổ, trong khi đó th́ tôi sa vào chốn địa ngục này không biết ngày nào ra, và gia đ́nh th́ chia ly rồi tan vỡ?

Tại sao đêm ngày 29 tháng Tư ấy tại cổng sau của ṭa đại sứ HK, tôi không can đảm ra đi một ḿnh như Mẹ tôi đă căn dặn là Mẹ sẽ ở lại và lo cho vợ con tôi để tôi yên tâm ra đi v́ an nguy của bản thân ḿnh, mà lại v́ vợ con ở lại để sống trong kiếp lưu đầy và cuối cùng th́ gia đ́nh cũng chẳng c̣n ǵ?
Tôi muốn hỏi "tại sao" hàng trăm lần nhưng bây giờ sau khi đọc xong cuốn sách Phật, được nghe những lời giảng huấn của quí thầy, nhất là Thầy Minh Tâm và Thầy Long th́ tôi đă hiểu và sẽ cam tâm chịu đựng cái số kiếp của ḿnh và cái định mệnh đă an bài.

Những buổi tối sau một ngày lao động mệt mỏi th́ những lúc ngồi cạnh Thầy Tâm nghe thầy nói chuyện là những lúc an ủi nhất cho tôi.

Thầy bảo với tôi rằng Ơn Trên đă xui khiến cho thầy về trại này để độ tŕ cho tôi v́ tôi là một trong bốn đệ tử của thầy. Tôi vừa bàng hoàng vừa vui mừng tiếp nhận ân sủng đó, nhất là khi thầy nhận tôi làm dưỡng tử.

Cũng nhờ Thầy Minh Tâm luôn khuyến khích bên cạnh mà tôi đă làm được một công đức mà thầy gọi là vô lượng là sau mấy tháng ṛng ră đă tŕ trí mà chép xong được hai bộ kinh rất quí giá là Pháp Hoa và Địa Tạng.

Thầy Tâm đă cung kính thắp một nén nhang dâng cuốn tôi sao chép lại kinh Pháp Hoa lên chư Phật và cuốn Địa Tạng th́ hồi hướng công đức cho Ba tôi đă mất.

Thầy luôn nhắc nhở cho tôi nhớ là chúng ta đang sống trong thời Mạt Pháp, lành ít dữ nhiều, là thời của Qủy Đỏ đang tung hoành nên phải chuyên tâm niệm Phật, bố thí và làm Phước.

Sau hơn mười hai năm tù giam th́ tất cả các vị Tuyên Úy đều được thả ra khỏi trại và theo xe lửa về Nam, như đem theo cả một phần sinh khí của trại cùng xuôi về phương Nam với các vị ấy.

Tôi c̣n ở lại trong sự trống vắng mênh mông của những buồng giam và sự trống rỗng ngay cả trong tâm hồn ḿnh.

Nhớ đến các lời thầy đă dặn ḍ và chỉ dậy như vẫn c̣n văng vẳng đâu đây, tôi đứng dậy ra sân trại, nh́n về phía những rặng núi xanh xanh xa mờ chập chùng mây trắng bao phủ chung quanh và tự nhủ ḷng rằng sẽ phải hết sức sống c̣n để ra khỏi cơi U Minh này.

Viết xong rạng sáng ngày Rằm Tháng Tư năm Canh Dần tại California

Ba Người Tù Tổ Điện

Cuộc đời con người ta trong cơi trần gian này cũng giống như con thuyền nan lênh đênh trên gịng nước, có lúc nó trôi thật êm đềm như lượn lờ thơ mộng dưới ánh trăng, có nhiều lúc nó như nhỏ bé li ti trên gịng nước mà lao đao qua bao thác ghềnh và giông băo gian nguy, nhưng nếu vững tay chèo lái th́ con thuyền ấy vẫn đến được bến bờ hạnh phúc b́nh yên.

Mỗi lúc nh́n lại th́ h́nh như có một bàn tay mầu nhiệm nào đó đă che chở cho con thuyền nan ấy đă không tan tành ra mảnh vụn khi bị cuốn hút vào cơn cuồng nộ của những băo táp phong ba trên sóng nước đục ngầu một mầu đỏ.

Quả thật vậy, chúng tôi đă vừa vượt qua được bốn năm đầu tiên gian khổ thiên nan vạn nan nhất trong cuộc đời tù tội và lưu đầy từ miền Nam ra xứ Bắc với những mùa Hè nóng như thiêu như đốt và mùa Đông lạnh cắt vào da thịt của những người tù vốn đă gầy ốm và chẳng c̣n hơi sức.

Bao nhiêu người đă ngă xuống tan tành như chiếc thuyền nan không qua khỏi cơn băo nhưng những người c̣n lại th́ vẫn đứng thẳng người bước về phiá trước dù là họ chỉ c̣n như cây sậy hay bộ máy biết cử động theo từng tiếng kẻng đánh thức dậy chuẩn bị một ngày lao động mới và lên chiếc chiếu chỗ nằm của ḿnh theo tiếng kẻng đi ngủ.

Lúc đó khoảng đầu năm một chin bẩy chín khi mà những người tù đang đi đến vực sâu của tuyệt vọng th́ bỗng đâu ánh sáng nhiệm mầu hiện ra như nước cam lồ bắt đầu soi chiếu xuống trại giam và hai điều thần kỳ bắt đầu xẩy ra cùng một thời gian đă vực họ sống lại.

Điều kỳ diệu thứ nhất là những chuyến xe chở hàng thăm nuôi bắt đầu đến các trại giam ở miền Bắc để tiếp tế cho những người tù sau bốn năm họ đă phải cố gắng sống c̣n với khẩu phần ăn ít ỏi, với áo quần mong manh, để chống lại cái lao động khổ sai, cái mưa phùn gió bấc mùa Đông có thể làm họ ngă gục bất cứ giờ phút nào.

Đầu năm ấy, phía trại giam họ thông báo như là một ân huệ của chính sách "khoan hồng nhân đạo" của Nhà Nước cho các người tù được viết thư về gia đ́nh để xin các thứ cần thiết nhưng tuyệt đối không được tiết lộ tên trại nơi giam giữ ở miền Bắc mà phải đề là đang bị giam tại trại giam 50-A Chí Ḥa - Sàig̣n, miền Nam.

Báo hại cho Mẹ tôi tưởng thật là con ḿnh c̣n ở miền Nam nên đă chuẩn bị rất là công phu những thứ ǵ gửi cho tôi đầy cả một giỏ và mang các món ăn nóng mà trước kia tôi rất thích như chả gị, gị lụa, chả quế đem đến tận trại giam Chí Ḥa và năn nỉ tên lính gác cho vào thăm tôi.

Tay lính gác đó đương nhiên là từ chối thẳng thừng v́ tụi tôi làm ǵ có mặt tại Chí Ḥa thời gian ấy mà cho Mẹ tôi vào thăm với nom.

Cuối cùng năn nỉ măi không được, Mẹ tôi đành rưng rưng nưóc mắt mà bỏ giỏ quà lại đó cho họ và đi về mà trong ḷng dâng lên một niềm căm phẫn khôn nguôi đối với cái chế độ XHCN ác độc này.

Các gói quà đó đă được tập trung hết lại để xe tải quân đội của họ chuyên chở từ Nam ra Bắc hết ba ngày đêm cộng thêm một ngày trại kiểm tra nữa, nên khi tôi ra nhận vào rồi mở ra th́ các thức ăn đă đóng thành một khối mốc meo xanh xám không nhận ra được món ǵ cả.

Trong lúc đang cần thức ăn bồi dưỡng, nh́n gói quà đầu tiên từ gia đ́nh gửi cho sau bốn năm trời không liên lạc, tôi và tên bạn thân là Luận nằm bên cạnh cố gắng mà cũng không phân tích được là món ǵ trong đó cho đến khi thư của Mẹ tôi trại kiểm duyệt xong đưa lại th́ tôi mới thấy tiếc và thương Mẹ tôi cất công đi gửi cho con mà chẳng được ǵ.

Dầu sao th́ cũng c̣n vài thức ăn khô, một tuưp kem đánh răng Leyna, và vài bộ quần áo lót lấm lem với các mốc xanh xám ấy.

Việc họ cho thăm nuôi nhận quà gia đ́nh chẳng phải v́ ḷng nhân đạo thương tiếc ǵ mấy người tù chính trị này mà v́ hai lư do.

Lư do thứ nhất là thế giới đặc biệt tại Mỹ và Châu Âu đang dấy lên phong trào cứu giúp thuyền nhân vượt biển, lên án chế độ Cộng Sản cai trị hà khắc phi nhân nên dân chúng đă phải lao ra biển đi t́m Tự Do trong cái chết; và đ̣i thả hết các tù chính trị.

Lư do thứ hai là số tù chết và bệnh tật trong trại lên cao, những người tù c̣n sống th́ hầu hết đă quá suy dinh dưỡng và sắp hết khả năng lao động để làm ra của cải vật chất cho trại nên phía Nhà Nước Cộng Sản đẩy trách nhiệm qua cho gia đ́nh để họ đỡ tốn kém mà lại được tiếng với thế giới.

Gia đ́nh th́ v́ ḷng thương xót của cha mẹ dành cho con, vợ dành cho chồng mà cố gồng gánh thêm việc thăm nuôi trên đôi vai vốn đă trĩu nặng những âu lo trong cuộc sống mới dưới chế độ xă hội chủ nghĩa đầy những cam go, tinh thần th́ bị khủng bố liên tục, và tương lai th́ bất định.

Dầu sao th́ những đợt thăm nuôi đầu tiên tựa như gịng suối tiên tưới vào những cành cây đă bao năm khô héo và làm nó sống lại.

Những người tù chính trị như vươn vai đứng dậy sau bao năm say ngủ và sức khoẻ của họ cũng hồi phục được một phần.

Điều kỳ diệu thứ hai cùng trong năm bẩy chín là tất cả tù đă được di chuyển từ các trại Hoàng Liên Sơn ở miền biên giới Việt-Trung và từ Vĩnh Phú xuôi về miền trung du và đồng bằng với khí hậu bớt khắc nghiệt hơn để tránh cuộc chiến tranh sắp xẩy ra giữa Hà Nội và Bắc Kinh.

Việc di chuyển trại khởi nguồn từ một hai năm trước đă xẩy ra t́nh trạng giết người Việt hàng loạt gọi là "cáp duồn" bên Campuchia, không những nhắm vào thường dân mà các bộ đội Bắc Việt cũng cùng chung số phận.

Thây người bị giết bị chặt đầu thả trôi đầy trên sông. Đa số các đơn vị Bắc Việt tại Miên bị tấn công là thành phần thân Nga Sô.

Để tái lập trật tự và nắm quyền kiểm soát lại Campuchia, phía Hà Nội đă tung ra một cuộc hành quân qui mô với bộ đội chính qui của họ để càn quét Khmer Đỏ bên Miên năm một chín bẩy tám và một chính phủ thân Hà Nội được thiết lâp lên tại Nam Vang.

Việc này đă động chạm đến quyền lợi của Trung Cộng và Bắc Kinh quyết định dậy cho Việt Nam một bài học. Nhờ đó mà hàng chục ngàn người tù chính trị chế độ cũ hầu hết là các sĩ quan đă được vội vă chuyển trại sâu xuống phía nam trước khi cuộc chiến diễn ra tại sáu tỉnh biên giới vào đầu năm một chín bẩy chín.

T́nh cờ, anh cả của tôi là Thiếu Tá sư đoàn 5 BB và tôi đă mất liên lạc ngay trước ngày Sàig̣n sụp đổ, được chuyển về cùng trại với tôi và hai anh em đă gập nhau thật là ngẫu nhiên một cách lạ lùng.
Mẹ tôi khi hay tin cũng thầm cảm ơn Trời Phật là hai anh em đă gập được nhau và ở cùng một trại để cho việc thăm nuôi dễ dàng hơn.

Tôi cũng rất mừng là có dịp chăm sóc cho anh ḿnh v́ ông anh cả của tôi tính t́nh rất là thờ ơ chẳng để ư đến chuyện ǵ hết, cho nên bao nhiêu gói quà gia đ́nh gửi vào cho hai anh em, anh ấy giao cho tôi giữ hết để ăn chung và chia sẻ cho các anh em c̣n thiếu thốn.

Trước đó, tôi chỉ biết anh tôi khóa 20 Vơ Bị Đà Lạt và cậu em họ là Tạ Mạnh Huy khóa 19 Đà Lạt cũng bị giam ở miền Bắc nhưng không rơ ở những trại nào v́ lúc đó hằng trăm trại giam cho tù chính trị mọc lên như nấm suốt từ Nam qua miền Trung ra Bắc đến tận các vùng biên giới.

Sau một loạt "biên chế" th́ buồng giam của tôi nhận thêm ba người mới- đó là ba anh cấp bực Trung Tá làm trong Tổ Điện mà tôi đă có duyên được quen biết.

Ba người tù trong Tổ Điện này là bộ phận duy nhất phụ trách toàn bộ máy chạy điện và các đường dây trong ngoài trại và cũng là những con người mà tôi vô cùng khâm phục về trí thức về sự can trường và cách sống của họ.

Lúc đó, một phần lớn anh em đều đă được gia đ́nh trong Nam, hay thân nhân ngoài Bắc đến thăm, hay gửi hàng qua bưu điện, nhưng ba anh Tổ Điện này th́ vẫn chưa. Tôi và một số anh em trong pḥng đă đem ít thực phẩm, trà thuốc đến biếu ba anh và rồi quen nhau thật là thân t́nh lúc nào không hay.

Ba anh gọi nhau theo thứ tự gia đ́nh, anh Hai là người Bắc lớn tuổi hơn, Trung Tá Không Quân có bằng Master khi du học tại Hoa Kỳ, người đọc được bẩy thứ tiếng; kế là anh Ba người miền Nam hiền lành và ít nói, Trung Tá tốt nghiệp kỹ sư Phú Thọ; và anh Tư cũng là người Bắc, Trung Tá Hải Quân rất giỏi về cơ khí.

Ban đầu tôi thân với anh Tư hơn v́ anh rất là cởi mở vui vẻ và sởi lởi, nhưng dần dần tôi và anh Hai lại thân hơn v́ tôi nh́n thấy ở anh ngoài tính gương mẫu của cấp chỉ huy, là sự hiểu biết uyên bác của anh và sự dũng cảm đương đầu với số phận và không nhận một sự gia ân nào từ phía cán bộ trại và gia đ́nh họ.

Tôi để ư thấy trong buồng giam anh Hai chỉ nói chuyện xă giao với mọi người nhưng lại đặc biệt tâm sự nhiều nhất với tôi mỗi buổi tối trong các buổi trà đàm. Anh có cái dáng dong dỏng cao, bước đi rất là khoan thai lúc nào cũng nhàn nhă và khuôn mặt trí thức với cặp kính trắng và thỉnh thoảng nói chuyện lại cười thật tươi lộ chiếc răng khểnh rất là có duyên.

Công việc của các anh tuy không nặng nhọc bằng lao động ngoài hiện trường hay đồng áng nhưng có những ngày mùa Đông lạnh căm căm giá buốt, mấy anh đi sửa điện cho khu gia binh mà bắt măi không được mấy con ốc vít v́ quá đói làm cho tay run lên và đến hoa cả mắt đành phải ngồi xuống nghỉ một lát.

Bất chợt có một cán bộ nữ có lẽ biết t́nh cảnh thiếu thốn trong trại nên từ trong nhà đem ra cho các anh một đĩa xôi lạc mà chị ta vừa nấu xong vẫn c̣n nóng.

Lúc đó, một củ khoai một củ sắn cũng quá là quí rồi chứ đừng nói ǵ đến xôi lạc nữa là điều không ai dám mơ ước, nhưng anh Hai nhất định bảo anh Tư phải đem vào trả lại và cám ơn họ.

Chị cán bộ kia lại bước ra ân cần đưa tận tay anh đĩa xôi, nhưng anh vẫn nhất quyết từ chối và cám ơn một cách từ tốn.

Một điều không ai ngờ là người nữ cán bộ này sau đó lại đem ḷng thương yêu anh Tư và gửi cho anh những lá thư chứa đầy t́nh thương và t́nh người và thổ lộ rằng các anh là thần tượng của khu gia binh và của cô ta nữa và v́ các anh hoàn toàn khác hẳn với đám cán bộ luôn bon chen, lừa gạt lợi dụng lẫn nhau mà cô ta phải sống và làm việc cạnh nhau hàng ngày.

Anh Tư có lần đă cho tôi xem một phần bức thư ấy và nói rằng anh rất cảm động nhưng hai chiến tuyến ngăn cách và anh đă gập người phụ nữ ấy và nói rằng anh rất cám ơn t́nh cảm chân thành dành cho anh nhưng anh không thể đáp lại t́nh cảm ấy được nhất là tin tức gia đ́nh anh vẫn biệt tăm mấy năm nay.

Tối hôm đó, tôi ngồi tâm sự rất lâu với anh Tư và hết sức an ủi anh rằng gia đ́nh anh chắc c̣n khó khăn chưa xin phép địa phương đi thăm anh được mà thôi. Nhưng có điều tôi cũng không ngờ rằng sau này chính tôi lại rơi vào t́nh trạng bi thương tương tự như vậy.

Những nghĩa cử mà tổ điện đă giúp đỡ cho khu gia binh đă làm cho họ nh́n chân ra được sự thực là những người tù này chẳng phải ăn gan uống máu người như phía Nhà Nước họ vẫn tuyên truyền mà là những người đầy ḷng nhân ái luôn giúp đỡ tận t́nh cho khu gia binh không nề hà khó nhọc, không những về điện nước mà c̣n phổ biến cả kiến thức phổ thông giúp cho họ hiểu cách sống và cách ăn uống như thế nào để pḥng tránh bệnh tật và c̣n chỉ dậy cho con cái họ nữa.

Từ khi các anh lo cho đường dây điện của trại th́ t́nh trạng bị cúp điện ít khi xẩy ra nữa và cái máy phát điện cũ kỹ từ thời Pháp để lại cũng được sửa chữa và thay thế nhiều bộ phận cần thiết nên ít hư hỏng hơn trước.

Không những tay cán bộ Tổ Điện tỏ ra có thiện cảm và nể nang với cả ba anh thợ điện dưới quyền ḿnh mà hầu như toàn thể khu gia binh đều bàn tán nhiều về ba người tù học thức và "khác thường" này.

Chính ba anh cũng là một trong nhiều anh em đă biến đổi cách nh́n của cán bộ trại đối với tù chính trị từ hận thù qua cảm thông và không khí ngột ngạt không c̣n nữa và phía bên tù h́nh sự cũng tự nhiên ngưng các việc chửi bới vu vơ và nhục mạ nhắm vào bên tù chính trị.

Trong thời gian quen biết và ở cùng pḥng với ba anh trong Tổ Điện tôi học hỏi được rất nhiều, không những về kiến thức, sự nhận xét tinh tế của anh Hai, sự thâm trầm b́nh thản chấp nhận số phận của anh Ba và sự năng động thích ứng với mọi hoàn cảnh của anh Tư; mà nhờ đó sau này tôi biết cách ứng xử và thich nghi nhanh hơn với mọi t́nh huống để tồn tại khi mà càng về sau lại càng đ̣i hỏi người tù một tinh thần vững vàng b́nh tâm hơn nữa nêú muốn sống c̣n.

Thời gian đó, ngoài việc gia đ́nh đến thăm đem lại nguồn sống cho những người tù về vật chất mà c̣n làm tinh thần họ vươn lên cao khi biết tin tức gia đ́nh, và nhất là tin tức về những hội đoàn như Hội Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ, của các cá nhân Việt-Mỹ đă tranh đấu với chính phủ Mỹ để làm áp lực buộc Hà Nội phải sớm thả hết các tù nhân, và về sự đặc biệt quan tâm của Tổng Thống Ronald Reagan đối với vấn đề tù chính trị.

Một điều tôi không ngờ là tin tức của ba anh thợ điện, đúng ra là từ anh Hai lại vô cùng chính xác về những cam go trong các công cuộc tranh đấu này. Những tin tức anh cho biết, tôi lại thông báo kín đáo cho các bạn thân và nhờ đó mà hầu hết anh em đều hay tin vui này và giữ được sức khoẻ để đi nốt quăng đường c̣n lại.

Khi biết với phương tiện nào mà các anh đă thâu lượm được những tin tức quí giá và hoàn toàn chính xác như thế th́ tôi lại càng khâm phục ba anh, nhất là anh Hai là người đầu năo của tổ đă có những s áng kiến thật là độc đáo về kỹ thuật Tin tức.

Cũng nhờ vào những tin tức phấn khởi liên tục như vậy từ những gia đ́nh thăm nuôi đem đến và từ anh Hai tiết lộ cho tôi và vài người bạn thân trong nhóm, rồi loan truyền đi qua các buồng giam khác đă thực sự đem đến cho chúng tôi một niềm tin rằng ḿnh sẽ có ngày trở về.

Bởi v́ Cộng Sản Việt Nam đă dập khuôn đúng theo trại tập trung "cải tạo" của Liên Xô, cứ hết ba năm tù th́ lại chồng thêm ba năm nữa không cần kêu án và người tù cũng không cần phải ra trước ṭa làm ǵ mất th́ giờ.

Bởi vậy khi người dân ngoài Bắc nghe đến chữ tập trung "cải tạo" là họ đều rùng ḿnh sợ hăi c̣n hơn là bản án tù chung thân.

Tôi gập hai cậu nhỏ có lẽ chỉ 17 tuổi bên tù h́nh sự, cả hai đều bị bắt về một tội là trộm một con gà nhưng cái cậu bị bắt quả tang th́ lănh án 5 năm c̣n cậu kia chỉ v́ bạn ḿnh khai ra thôi và dù là không bị bắt quả tang th́ bị lănh án tập trung cải tạo.

Sau ba năm được giảm án, cậu bé 5 năm tù được thả ra về c̣n cậu kia vẫn c̣n trong tù v́ hết ba năm rồi th́ tự động cứ chồng thêm ba năm án tù tập trung nữa không cần xết xử bởi gia đ́nh cậu ta chẳng có tiền mà đút lót cho chuyển qua có án.

Luật pháp dưới chế độ XHCN là như vậy đấy.

Từ khi có gia đ́nh đến thăm, h́nh như cái nghiệp chướng tù đầy cũng vơi đi nhiều và chúng tôi t́m thấy niềm vui bên cạnh nhau uống chén trà hút điếu thuốc và hàn huyên mỗi buổi tối.

Những cuối tuần vào tối thứ Bẩy thường hay có party văn nghệ bỏ túi và không ngờ trong anh em xuất hiện nhiều tài năng, có những người hát rất hay đàn thật giỏi. Trong caí không khí vắng lặng của trại giam, v́ các cán bộ trại đều kéo hết ra chơi ngoài thị xă ngay từ chiều thứ Bẩy, những bài hát t́nh cảm ngày xưa như "Chiều trên phá Tam Giang", "Thuyền Trăng", "Thiên Thai","Nha Trang Ngày Về", "Ḥn Vọng Phu", "A time for us", "Love Story", v.v. đă như cho ta sống lại cái không khí của ngày nào thật thơ mộng và êm đềm, ngày nào thật là hạnh phúc khi c̣n ở Sàig̣n năm xưa và tạm quên đi số phận tù đầy.

Các cán binh đi gác hay đi tuần tra ban đêm không ngờ cũng là những khán giả thuờng xuyên của các pḥng trà bỏ túi đó.

Ban đầu th́ họ khuyến cáo giải tán văn nghệ đi để đi ngủ, nhưng anh em đưa cho họ điếu thuốc ba số 5 hay bi thuốc lào ngon, chung nước trà móc câu th́ họ đều ngồi lại bên ngoài cửa song sắt bỏ cả súng ống qua một bên để nghe nhạc.

Nhiều lúc họ kéo nhau hai ba đứa đến một lúc bỏ cả canh gác, ngồi ngoài cửa sổ cùng uống trà hút điếu thuốc và cùng thưởng thức những bản nhạc ngày xưa và c̣n yêu cầu các bài bài mà họ thường nghe tại các party bỏ túi này. Họ nói rằng nhạc của các anh hay quá và thích nghe hơn là các bài hát tuyên truyền vẫn phát ra rả hàng ngày qua loa phóng thanh.

Anh Hai cũng tâm sự với tôi rằng trước kia v́ có bằng cấp bên Mỹ nên khi về nước, anh đă được đơn vị biệt phái qua làm việc với một bộ phận Quân Báo của Đệ Thất Không Đoàn HK trong Tân Sơn Nhất và được người Mỹ rất tin cậy cho nên được tháp tùng theo trong một vài phi vụ bí mật thử các loại vũ khí mới của HK trên chiến trường miền Nam.

Anh nói rằng người Mỹ họ không muốn chiến thắng chứ với những vũ khí tối tân như hiện nay chiến lược biển người kiểu như Việt Minh tại Điện Biên Phủ 1954 hay Trung cộng áp dụng biển người tại cuộc chiến Triêù Tiên 1950 đă hoàn toàn lạc hậu và hoàn toàn vô tác dụng.

Để giải vây cho một tiền đồn của một đại đội Dù 101 Mỹ trên ngọn đồi trong vùng Khe Sanh đang bị hai trung đoàn quân Bắc Việt bao vây với ư đồ sẽ làm cỏ đại đội này, không quân HK đă được trưng dụng để thử một loại vũ khí mới.

Hai trái bom đă thả xuống hai trung đoàn địch là loại bom nhằm hút hết chất nước trong người ra trong chu vi một cây số vuông. Chỉ nửa tiếng đồng hồ sau th́ không c̣n nghe những tiếng gào thét tấn công man rợ của lính Bắc Việt nữa và chiến trường đột nhiên im tiếng súng v́ quân Bắc Việt đă âm thầm tháo chạy hết bỏ cả cờ xí, súng ống.

Không quân HK c̣n đem thử cả loại súng bắn bằng tia Laser để triệt hạ một họng pháo pḥng không mà Bắc Việt đă dấu trong ḷng núi cũng trong khu vực Khe Sanh.

Khẩu pḥng không này rất lợi hại v́ ẩn trong núi nên nó đă hạ nhiều loại máy bay của VNCH và Mỹ bay qua trong vùng làm cho tôi nhớ đến cuốn phim "Les Canons de Navarrone" với hai họng súng khổng lồ của Đức Quốc Xă dấu trong hang núi đă bắn ch́m bao nhiêu chiến hạm Đồng Minh khi qua vùng vịnh đó và cuối cùng nhờ đến toán biệt kích Anh Mỹ xâm nhập được vào tận nơi mới đặt ḿn triệt hạ được hai họng đại pháo này.

Loại súng gắn tia Laser này được đặt trên một vận tải cơ và khi đến nơi nó đă cắt họng súng pḥng không của Bắc Việt ra từng mảnh như cắt bánh và ánh sáng của nó đă làm cho các pháo thủ địch bị mù mắt chỉ c̣n biết đắt díu nhau xuống núi.

Anh nh́n tôi và nói rằng tiếc là người Mỹ họ không giúp chúng ta đến nơi đến chốn chứ chúng ta không thua trận.

Trong ba người, anh Hai lại đặc biệt hợp với tôi và mỗi lần chín giờ đêm khi anh tan ca trực và được đưa lại vào buồng giam cũng đi ngang qua chỗ tôi nằm nói nấu ít trà.

Lúc đó tôi biết ngay là anh có điều ǵ muốn kể lại sau một ngày ra ngoài công tác hay có được tin ǵ hấp dẫn, và thời gian cứ thế tuần tự trôi đi cho đến vài năm sau th́ ba anh được chuyển trại vào trong Nam và chúng tôi xa nhau từ đấy.

Tối hôm ấy anh kể cho tôi nghe hai chuyện đáng chú ư.

Câu chuyện thứ nhất chiều hôm đó khi anh đang đứng canh máy điện cạnh một con đê chạy sang một làng bên kia sông th́ thấy một bà cụ chống gậy định đi hướng vào ngôi làng th́ rẽ qua gập anh.
Nh́n cái áo Treillis mầu hoa rừng anh đang mặc hỏi có phải anh là tù chính trị trong trại không và cấp bực ǵ rồi cho anh vài cái bánh lá.

Anh không dám nhận sau khi cám ơn bà cụ th́ bà cụ nh́n anh một cái nh́n vừa thương mến vừa trách móc:

-”Thật là đẹp mặt nhỉ! Chúng tôi cứ ngỡ là các anh ra đây giải phóng ngoài này chứ ai đâu ngờ ra nông nỗi này", và cụ thở dài:

-"Âu thôi cũng là số Trời đă định.”

Anh nói rằng lúc đó, tuy anh là con người rất cứng rắn chưa hề nhỏ một giọt nước mắt dù đau khổ đến đâu trong suốt bốn năm qua, nhưng không hiểu sao câu nói ấy đă khơi dậy một nỗi đau sâu kín nhất trong ḷng và bất chợt anh qú xuống xin lỗi cụ v́ ḿnh bất tài đă không giữ được nước.

Những giọt nước mắt anh cứ tuôn ra không thể cầm lại được nữa trên đôi g̣ má sạm nắng như cho vơi đi những u uẩn trong ḷng bấy lâu nay, trong tiếng xào xạc của ngọn gió từ bờ sông thổi qua rặng cây bên đường trong khi ráng chiều đang ửng lên cho một ngày nữa lại sắp tàn trên con đê vắng bóng người.

Nh́n dáng cụ chậm răi bước trên con đê quanh một gịng sông nhỏ là nhánh của sông Hồng về phía ngôi làng bên kia sông, anh thầm nghĩ bà cụ là ai hay một vị tiên vừa giáng xuống an ủi những tù nhân?

Tối hôm đó hai anh em tôi mắt đều đỏ hoe, điếu thuốc và chén nước trà sao nghe thật đắng trên môi và trong ḷng một nỗi u hoài không sao ngủ được khi nhớ đến lời nói trách móc nhẹ nhàng nhưng thấm thía của bà cụ trên con đê chiều nay.

Không phải là các anh trong những Biệt Kích nhẩy toán ra miền Bắc mà tôi đă được gập tất cả đều trông mong QLVNCH chúng ta ra Bắc giải phóng cho họ mà trong thâm tâm người dân cũng mong có ngày đó.

Nhưng than ôi đúng là Định Mệnh quá khắc nghiệt và số Trời đă định để chúng ta thành kẻ bại trận như lời bà cụ.

Câu chuyện thứ hai là con Ma dấu mặt.

Lư do là dạo này điện chạy cả đêm cho nên các anh và cả tay cán bộ Tổ Điện cũng phải thay nhau ngủ canh máy điện suốt đêm ngoài cái cḥi bên con đê.

Tối nào cứ vào giấc khoảng một giờ sáng th́ các anh thấy mặt ḿnh lạnh toát hóa ra y như có ai lật cái chăn mền đang đắp.

Anh Tư là người dạn nhất nên đă quyết tâm t́m ra thủ phạm và đêm hôm qua anh Tư trực nằm đắp chăn nhưng cố gắng không ngủ dù là rất mệt mỏi th́ quả thật qua nửa đêm anh thấy rơ ràng một bàn tay người con gái mặc đồ trắng lật tấm chăn xuống, anh vùng dậy th́ chỉ thấy một bóng trắng mà khuôn mặt thật mờ ảo nhẹ nhàng lướt đi về phía con sông rồi biến mất.

Các anh hỏi tay cán bộ th́ hắn cũng xác nhận rằng hắn ta cũng thấy đúng như vậy v́ vùng này họ đặt tên cho nó là con Ma dấu mặt.

Có lẽ là một thiếu nữ nào đó ở làng bên đă chết oan tại con sông này và không siêu thoát được.
Ba anh trong tổ điện cũng là những người đă đóng góp nhiều vào sự thành công phải nói là vang dội của đội văn nghệ của trại và làm thay đổi hẳn 180 độ cách đối xử của trại đối với tù chính trị.

Số là năm đó trại quyết định thành lập một đội văn nghệ và giao trách nhiệm cho bên tù chính trị để thành lập đội.

Các anh em có năng khiếu lần lượt được chuyển vào đội này.

Lúc đó tôi vẫn c̣n bên đội gạch, là một đội lao động nặng nhất trong trại, một đội trừng giới mà bất cứ anh em nào bị kỷ luật th́ đều bị đưa về đội này như một h́nh thức tiếp tục trừng phạt.

Măi hơn một năm sau, vài người bạn có lẽ thương t́nh hay sao mà t́m cách kéo tôi về được đội văn nghệ và nhờ đó mà tôi được đi theo trong một chuyến lưu diễn tại cây số 60 - một kỷ niệm không bao giờ quên được trong đời.

Ba anh tổ điện cũng nằm trong nhân số của đội để lo cho phần âm thanh và ánh sáng và thành phần nhân tài cũng rất là đông đảo.

Linh hồn của đội lúc bấy giờ phải nói tới các nhạc sỹ ghi-ta như anh Cầm, trung úy - đội trưởng, anh Qúi biệt danh Quí Lùn - đại tá, soạn ḥa âm, anh Sỹ - thiếu úy, violon là bác Định. Các ca sĩ như anh Bửu Uy kiêm về ḥa âm và hát bè, Tuấn, Hùng, Công, V.T. An, B́nh - đại uư pilot trực thăng.

Cải lương vọng cổ kép chánh là anh Diệp Tùng, anh Đẹp, Hùng đen, ông Hữu Vị trung tá; phụ trách designer là anh Linh - đại uư pilot với ria mép rất bảnh trai.và những anh đàn vọng cổ, v.v.

Bước đầu là vô cùng gay go v́ trại họ muốn hát các bài của họ nhưng phía anh em đều phản đối.
Nhóm đầu năo của đội mới ngồi lại bàn bạc trong đó cũng có các anh thợ điện và cuối cùng đă đưa ra được một chương tŕnh dung ḥa bao gồm vài bài hát t́nh cảm nổi tiếng thời bấy giờ của họ kèm theo những bài hát Anh, Tây Ban Nha, Pháp, kết hợp với các vũ điệu.

Sau nhiều lần thuyết phục, tay quản giáo văn ngh ệ nói trại chịu chương tŕnh văn nghệ đầu tiên đó và cho tập dượt.

Chương tŕnh này, ngoài ba tiết mục vọng cổ và tân cổ giao duyên, c̣n lồng trong những vũ điệu rất là lả lướt là các bài hát nhạc Pháp, Anh, Tây Ban Nha như “Un Homme Est Venu”, “Dans Le Soleil Et Dans Le Vent”, “Main Dans La Main”, “La Paloma”, "Beautiful Sunday", v.v, và một vở hài kịch.

Bản nhạc Guantanamera, lời Tây Ban Nha, được dàn dựng thành một ca khúc mở màn với hợp ca hai bè và vũ khúc với hai anh Linh và Tân nhẩy múa theo điệu Habanera trong y phục Mễ Tây Cơ và mũ rộng vành sombrero.

Khi bắt tay vào mới thấy thật nhiều khó khăn trở ngại v́ mọi thứ đều thiếu thốn từ quần áo, make up, đến nhạc cụ, nhưng mọi người đều quyết tâm và nói như họ là tạo "khí thế".

Khi chương tŕnh đầu tiên tŕnh diễn trước trong trại th́ ngoài cơ quan đều kéo rốc hết vào xem hết. Chương tŕnh đầu tay đó đă thành công ngoài dự tính v́ không ngờ là dân ngoài Bắc lại rất mê cải lương và các bài hát phương Tây cùng các vũ điệu mà chúng ta vẫn nhẩy trong Nam trước kia nên thành công bất ngờ ấy đă như là một chấn động vang xa ra đến tận Hà Nội.

Các buổi diễn sau đó th́ khu gia binh và cả thân nhân họ từ Hà Nội cũng vào xem, tay quản giáo nói là họ mê nhất là vũ khúc mở màn bài Guantanamera và các bài hát Tây phương và vọng cổ.

Thời gian đó, hầu hết khu gia binh đều không c̣n che dấu t́nh cảm của họ dành cho đội nữa, mỗi khi gập chúng tôi đi lao động gần khu họ ở hay gần cơ quan th́ các cán bộ nữ và các bà trong bếp chạy ra hỏi thăm tíu tít.

Họ mượn đâu ra hai cây đàn ghi ta và yêu cầu chúng tôi hát ngay tại một gốc cây cạnh hiện trường lao động bài "Beautiful Sunday" và nghe một cách say mê.

Thế rồi lúc đó khoảng năm một chín tám mốt, bất ngờ trại quyết định cho đội văn nghệ đi lưu diễn qua trại cây số 60 và cho đồng bào xem.

Đây cũng là một dấu mốc quan trọng cho sự chuyển hướng về thái độ của họ đối với tù chính trị.

Chúng tôi có ba ngày để chuẩn bị cho buổi lưu diễn và sau đó tất cả khoảng gần ba chục người lên ba chiếc xe vận tải hở mui cùng tất cả phông màn trang trí phụ tùng trực chỉ cây số 60.

Trại này lấy tên cây số 60 v́ cách thị xă đúng 60 cây số.

Trước kia, một số anh em cấp Trung Tá đă bị giam giữ ở đây nhưng bây giờ chỉ c̣n toàn tù h́nh sự.
Ba chiếc xe chay bon bon trên con đường độc đạo về phía cây số 60, nhiều lúc chúng tôi phải thụp xuống v́ những nhánh cây to bên đường có thể quét văng ra khỏi xe lúc nào không hay.

Một vài anh không để ư th́ người mất nón lá người mất cái mũ.

Lần đầu tiên ra khỏi trại giam sau hơn sáu năm trời, chúng tôi thấy cái ǵ cũng lạ lẫm, nhất là những ngôi nhà lá vách đất trong những khu làng nghèo xơ xác với những con trâu già ́ ạch như không kéo nổi cái cầy nữa bên người nông phu cũng luống tuổi. Có lẽ trai tráng thanh niên đều đă ra đồng hay lên núi lao động hết rồi.

Khi vào đến sân trại, chúng tôi được tiếp đón như là các người khách chứ không như tù nhân và được cho ở riêng một căn buồng giam.

Nh́n điều kiện vệ sinh rất thấp kém của trại này và t́nh trạng thường xuyên khan hiếm nước, chúng tôi đă hiêủ v́ sao các anh Trung Tá bị giam ở đây truớc đó đă ngă bệnh rất nhiều đưa đến một số tử vong v́ tiêu chẩy và kiết lỵ.

Trại chỉ có một giếng nước và cứ đến mùa khô là nó cạn chỉ c̣n trơ đáy giếng đầy đá lởm chởm và để có nước nấu ăn, nhà bếp đă phải ngày ngày kéo các xe cải tiến với các thùng phuy to đi xa vài cây số ra các làng bên để xin nước chở về.

Các tù nhân phải tự túc về nước uống cho nên khi ra lao động phải tắm tại một nhánh sông nhỏ và đem ít nước về trại để dùng.

Nhưng nhánh sông ấy vào mùa Hè th́ cũng cạn trơ cả ḷng sông và chỉ c̣n ít nước cho nên nhiều lúc tù nhân phải vục xuống các vũng trâu nằm mà uống nước nên hầu hết đều bị bệnh đường ruột.

Buổi chiều khi kẻng tan giờ lao động, các tù h́nh sự lần lượt theo đội mà nhập trại, họ như những bộ xương c̣n biết đi và phấp phới bay trong bộ quần áo rộng thùng th́nh đi đầy sân trại để lănh phần ăn chiều là mấy củ sắn khô. Một h́nh ảnh thật là ghê rợn của trại tù miền Bắc.

Nh́n họ, tôi nhớ đến chúng tôi một v ài năm trước cũng chẳng khá ǵ hơn và vẫn thắc mắc tại sao họ c̣n sống được trong điều kiện mất vệ sinh và thiếu ăn thiếu cả nước uống như vậy?

Chỉ có những tù phục vụ trong nhà bếp và trật tự viên là c̣n có da có thịt v́ được trại ưu đăi cho phần ăn khá hơn.

Khẩu phần ăn cho chúng tôi tương đối khá hơn một chút v́ có thêm ít mỡ màng bồi dưỡng và khi đang ăn th́ một số tù h́nh sự đến gần nh́n rất là thèm thuồng.

Anh em chúng tôi bèn nhường bớt phần ăn cho họ và lấy phần lương khô đem theo ra ăn một chút cho đỡ đói v́ ai cũng mệt v́ chịu sóc trên xe vận tải hai tiếng đồng hồ, bởi nhiều khúc con đường lởm chởm đá mà tài xế vẫn không giảm tốc độ có lẽ muốn đến cho đúng giờ quy định.

Buổi tối lúc giăng mùng đi ngủ chúng tôi mới thấy hăi hùng v́ từ trong vách tường đất nứt nẻ hiện ra hàng đoàn rệp ḅ như xe tăng xuống dọc theo tường và vào đầy các chỗ nằm; và dù có tấn mùng kỹ cách nào th́ nó cũng chui vào được để xin tí huyết.

Anh Phát nằm cạnh tôi, người Huế và rất là hiền lành th́ niệm Phật và cười: "Thôi th́ tối nay anh em ḿnh cũng hoan hỉ cho chúng một bữa ăn no vậy thôi, có lẽ chúng đói cũng lâu rồi v́ buồng naỳ có vẻ như bỏ trống một thời gian rồi, nhện giăng đầy bốn góc."

Báo hại mỗi buổi sáng thức dậy chúng tôi phải lôi hết mùng màn ra sân nắng bắt từng chú rệp một cả hai tiếng đồng hồ mới xong để chuẩn bị cho một màn chiến đấu nữa với xe tăng rệp vào ban đêm.

Để quảng cáo cho dân làng chung quanh và những nơi xa xôi bên kia rặng núi về chương tŕnh văn nghệ tân cổ giao duyên này, một điều lư thú là trại cho một số anh em chúng tôi mặc quần áo dân sự đi theo trên hai chiếc xe díp có vẽ bảng quảng cáo đầy mầu sắc gắn hai bên xe là..."Đoàn Cải Lương Sàig̣n 7" sẽ lưu diễn hai đêm trong và ngoài trại để đồng bào đến xem.

Anh em chúng tôi thực sư ngạc nhiên v́ không ngờ họ bốc phét ngang nhiên như vậy nhưng chỉ cười không nói ǵ v́ thấy mấy tay cán bộ trại có vẻ thực sự thích thú v́ đă từ lâu họ cũng không được xem một tuồng tích cải lương nào.

Sau buổi diễn thành công trong trại cho tù h́nh sự xem, anh trật tự chính của tù h́nh sự đến thăm chúng tôi bầy tỏ ḷng ngưỡng mộ và không ngờ ít lâu sau anh ta được chuyển về cùng trại với tụi tôi và trở thành một tay đắc lực đă ngầm giúp nhiều lần mua bán các thực phẩm cần thiết cho anh em chúng tôi một thời gian dài.

Tên anh ta gọi là anh Binh, lúc đầu tôi tưởng là tên cha mẹ đặt cho, sau hỏi ra mới biết đó là biệt hiệu v́ dáng anh cao lớn và tên tù nào lạng quạng là bị "binh" ngay thôi cho nên đám h́nh sự rất là sợ anh ta. Không hiểu sao, đặc biệt với tôi và mấy anh Tổ Điện, anh tỏ ra nhiều cảm t́nh và nhất định mời vài anh em qua buồng anh để thết đăi vài chung rượu trắng.

Ở một nơi thâm sơn cùng cốc này nước c̣n không đủ uống mà đem rượu ra mời th́ phải là khách quí lắm cho nên tôi đưa mắt nh́n anh Tư và anh gật đầu.

Khi tôi và anh Tư qua thăm họ xă giao th́ thấy chỗ anh nằm đă được quét dọn sạch sẽ, anh trải chiếu mới mời ngồi rồi rót ba chung rượu chúc mừng sự thành công.

Anh nói rằng anh rất cảm phục những người tù chính trị từ khi các anh Trung Tá c̣n ở đây v́ tác phong, nhân cách và ḷng thương người của các tù chính trị đối với phía h́nh sự.

Anh Binh nói rằng buổi diễn tối mai cho dân chúng sẽ c̣n thành công hơn nữa v́ tâm lư khán giả bây giờ thích xem và nghe nhạc tây phương, cổ nhạc và các bài hát về quê hương Hà Sơn B́nh như chúng tôi tŕnh diễn hơn là chương tŕnh nặng về tuyên truyền của các đoàn văn công trung ương.

Từ đó tôi hiểu được rằng không kể những người tù, mà ḷng người dân ngoài Bắc cũng đă quá chán ngán những bài hát ca tụng chiến tranh sắt máu nhưng không dám công khai chống lại thôi.

Sáng hôm sau, chúng tôi có cơ hội hiếm có và là lần đầu tiên trong hơn năm năm trong tù là tản bộ ra ngôi làng gần bên để xem dân cho biết sự t́nh. Hai tay cán binh đưa chúng tôi đến một quán nước th́ hẹn sau hai tiếng sẽ quay lại đón rồi biến mất.

Ngôi làng quê này sao giống y như trong các sách của Tự Lực Văn Đoàn ngày xưa mà các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng hay Thạch Lam đă mô tả.

Cũng những mái tranh nghèo, những con đường đất quanh co bên vài thửa ruộng cằn cỗi, lũy tre làng một mầu xanh ngát bao quanh, ít hàng quán mà đa số chỉ là quán bán nước chè xanh, trà móc câu, vài nải chuối, ít kẹo lạc, thuốc lào, vậy thôi, và người dân làng th́ chất phác hiền lành suốt đời chỉ quanh quẩn trong thôn xóm với ruộng đồng nương khoai; nhiều cụ già trong làng cũng chưa hề biết đến thành phố thị xă là ǵ.

Chúng tôi xin một b́nh trà và hai chị em đưa ra một giỏ ấm trong đó có một b́nh trà bằng sứ c̣n nóng và rót ra các cái chung nhỏ xíu nhưng uống th́ rất là thơm ngon.

Hai cô bé hàng nước khoảng chừng mười tám đôi mươi và da trắng ch ứ không rám nắng như các thôn nữ khác và ăn nói th́ lại dịu dàng.

Khi biết chúng tôi trong đoàn văn nghệ th́ cô em gái yêu cầu hát một bài nhạc xưa và khi anh Hùng đen vừa ca tân nhạc rồi cổ nhạc chay, v́ không có đàn, th́ cô em nắm trong tay tờ hóa đơn ǵ đó và nghe say sưa đến ṿ nát tờ giấy lúc nào không hay.

Khi trả tiền tôi loay hoay măi đếm không xong v́ chưa quen với tiền hào tiền xu của họ, hai cô em nhất định không lấy tiền b́nh trà nhưng chúng tôi cứ bỏ tiền lại trên bàn rồi nhắn họ vào xem văn nghệ đêm hôm sau rồi rút lui.

Hóa ra chị em cô hàng nước là một trong số những gia đ́nh người Hà Nội ngày xưa đă bị đuổi ra khỏi thành phố và tống lên vùng hoang vu này khi Việt Minh nắm chính quyền sau tháng bẩy năm 1954.
Một số không nhỏ những người gốc Hà Nội này đă kiệt sức chết v́ khí hậu của nơi rừng thiêng nước độc và v́ thiếu thuốc men và thực phẩm.

Kỷ niệm khó quên là buổi diễn tối hôm sau ngoài trại dành cho đồng bào.

Từ trưa chúng tôi đă chuẩn bị sân khấu, căng phông màn cho các tuồng tích rất là chu đáo v́ nghe nói ở đây hàng chục năm cũng chưa có đoàn văn nghệ nào đến lưu diễn nên anh em chúng tôi cố gắng để lại cho dân làng một kỷ niệm tốt đẹp về những người tù chính trị.

Trại dành cho chúng tôi có lẽ là một đặc ân v́ mỗi người được một thùng nước giếng để tắm rửa chuẩn bị cho màn biểu diễn buổi tối.

Dự trù 7 giờ tối khai mạc chương tŕnh nhưng khi 6 giờ hơn rồi tôi nh́n xuống băi cỏ rộng mênh mông dành cho khán giả chỉ thấy lèo tèo vài đám con nít và người già và nghĩ rằng buổi diễn chắc phải hủy bỏ.

Thế nhưng chỉ một lát sau khi trời sập tối th́ tôi thật ngạc nhiên khi thấy một quang cảnh kỳ lạ chưa nh́n thấy bao giờ và không tin vào mắt ḿnh nữa, là từ phía bên kia rặng núi, đồng bào Kinh và Thượng đi nối đuôi nhau như rồng rắn với những bó đuốc sáng rực trên những con đường ṃn chạy quanh để vượt dẫy núi mà hướng về phía trại.

Chỉ một giờ sau th́ băi cỏ đă đầy kín những người là người không c̣n chỗ trống. Một số đồng bào trong đó có hai chị em cô hàng nước hôm qua cũng có mặt và c̣n đem lên tặng chúng tôi n ào l à chuối, đu đủ mà họ trồng trong vườn.

Khi mở màn th́ khán giả mới biết đây là đoàn văn nghệ của tù chính trị nhưng họ vẫn vỗ tay và ở xem cho đến tiết mục cuối cùng sau ba tiếng rưỡi đồng hồ.

Tiếng vỗ tay của khán giả vang dội cả một khu vực trại giam khi hạ màn và nhiều người c̣n quyến luyến chưa chịu về.

Có người nói họ đi bộ hơn mười cây số từ bên kia rặng núi qua để xem văn nghệ, có người nói là họ đạp xe đạp suốt ngày lúc tờ mờ sáng từ nhà để đến xem cho kịp.

Trước khi tản ra về v́ màn đêm đă buông xuống tối sẫm cả bầu trời, khán giả đều vẫy tay chào các người nghệ sỹ bất đắc dĩ là chúng tôi và với những thái độ rát chân thành họ chúc cho chúng tôi mau được trở về đoàn tụ với gia đ́nh thật là cảm động.

Ngày hôm sau là ngày cuối cùng tại trại cây số 60 và điều bất ngờ là từ sáng tôi và một số bạn được đánh thức dậy để đi thăm chùa Hương Tích v́ chỉ cách trại này có ba ngọn núi thôi.

Quả thật tôi cứ ngỡ như trong mơ có một dịp may như vậy, nhưng phải trèo qua ba ngọn núi mới đến chùa Hương được.

Anh em chúng tôi khoảng bẩy người ráng lắm cũng chỉ vượt được hai ngọn núi v́ phải có một tay cán binh leo trước dẫn đường, leo từng nấc một, có lúc dễ nhưng nhiều khi chênh vênh tốn thời gian mới leo qua được một khúc cho nên trước khi đến qủa núi thứ ba th́ hết giờ và đành phải tiếc nuối quay về v́ xe vận tải đang chờ.

Lối đi ṃn này là của dân điạ phương thường vượt phía sườn núi bên này để đến chùa Huơng chứ không phải là con đường chính thức vào động Hương Tích.

Chỉ có toán anh em đi lên núi từ năm giờ sáng th́ đă đến được Chùa Hương và mua về được một số kỷ vật.

Tôi cứ tiếc măi là đă vượt qua hai phần đường rồi mà vô duyên nên không kịp đến thăm được động Hương Tích, không được đảnh lễ Phật Bà nơi có ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng nhất miền Bắc này.

Vài năm sau th́ tất cả các trại giam tù chính trị đều tập trung về trại Ba Sao - Nam Hà rồi một đợt lớn di chuyển tù nhân vào Nam năm một chín tám ba trong đó có anh cả của tôi và ba anh trong tổ điện.

Tôi mừng cho anh tôi và các bạn được xuôi trên chuyến tầu vào Nam, miền quê hương nắng ấm, gần gia đ́nh hơn nhưng họ cũng đem bao nhiêu là t́nh cảm và kỷ niệm trong tôi theo với chuyến tầu.
Một năm sau nữa là năm một chín tám bốn, tôi được tin anh tôi và một số sĩ quan cấp tá đă được thả ở trong Nam.

Sau đợt di chuyển tù vào Nam, th́ đội văn nghệ giải tán và chúng tôi những người c̣n lại vẫn tiếp tục con đường "cải tạo" qua lao động.

Mỗi khi nghĩ lại những quăng đường trong cuộc đời ḿnh đă đi qua, tôi nghiệm thấy rằng h́nh như con người ta có số mạng.

Trên những chặng đường ḿnh đi, h́nh như Định Mệnh đă an bài để ta gập những người bạn nào đó trong giai đoạn khó khăn ấy ngơ hầu giúp cho ta thêm kiến thức, thêm phong cách, thêm hiểu đời hơn, sức chịu đựng bền bỉ hơn, rồi sau đó họ tự nhiên biến mất y như khi họ bất ngờ xuất hiện.

Tôi muốn nói đến những người bạn thân trong tù mà tôi đă sống chung một thời gian chia sẻ những vui buồn, trong đó có ba anh thợ điện mà tôi rất mến phục.

Thước Đo Ḷng Người

Năm đó đột nhiên Trời nắng hạn, cây cỏ đều ủ rũ v́ thiếu nước, trâu ḅ th́ ph́ pḥ mệt nhọc trong đám ruộng thưa và cái nóng như gia tăng theo với cái khô khan trong không khí làm con người như muốn nghẹt thở, nhất là trong các buồng giam chật hẹp và chật ních người.

Tất cả đều t́m một bóng mát của một tàng cây rợp lá hay chút mát lạnh của ao nước bờ sông hay nhớ lại những ngày mưa băo. Nhiều người th́ nghĩ sắp có thiên tai hay dịch bệnh v́ chưa bao giờ mà nóng đến như vậy.

Thế rồi sau cơn hạn hán nắng cháy đó bỗng nhiên Trời đổ cơn mưa.
Nghe nói mưa rất lớn từ trên thượng nguồn và đổ về miền Trung Du và làm mực nước sông Hồng dâng cao tới mức báo động đỏ.

Trại giam nằm cạnh một con sông nhánh của sông Hồng và sau một tuần nước trên nguồn đổ về th́ con đê bị vỡ ra một mảng và nước tràn vào làng xóm hai ven bờ sông và ngập luôn các buồng giam. Muốn đi đâu th́ cũng phải lội b́ bơm trong nước đục ngầu đầy rác rưởi tới đầu gối.

Thời Pháp thuộc hệ thống đê điều c̣n được sửa chữa và bảo quản thường xuyên nhưng từ khi Việt Minh cướp chính quyền th́ các con đê bị xuống cấp rất nhanh và mỗi mùa mưa băo là dân chúng lại lo sợ con đê sẽ vỡ.

Người dân làng th́ vốn đă nghèo xác xơ lo chưa xong hai bữa ăn hàng ngày, nhiều gia đ́nh không đủ tiền đóng tiền học phí cho con đi học mà con đê không giữ được làn nước lũ tràn vào làng th́ không những sinh mạng con người bị đe dọa mà trâu ḅ gia súc và ruộng nương sẽ không c̣n.

Trở lại với con đê đang bị nước lũ tràn qua và có nguy cơ cả vùng chung quanh sẽ bị ngập lụt trong mưa lũ th́ bất ngờ một buổi sáng vừa thức dậy, tôi nghe tiếng kẻng trong trại đánh đồn dập và bên ngoài th́ phèng la inh ỏi chưa biết chuyện ǵ th́ ba tay cán bộ trại bước vào và ra lệnh cho chúng tôi đi hộ đê.

Từ bé đến giờ, tôi chỉ ở thành phố nên chẳng hay hộ đê là làm sao, bây giờ mới hiểu cách họ hộ đê là làm như thế nào ở một nước giật giải quán quân về nghèo và lạc hậu nhất thế giới.

Chúng tôi được dẫn ra tới bờ sông th́ thấy mực nước đă mấp mé tràn qua con đê và khoảng cứ sáu người xuống một chiếc thuyền chèo ra ngoài xa bờ chỗ nông một chút rồi nhẩy xuống dùng mai và xẻng xúc từng cục đất lớn một đổ lên thuyền. Nước th́ ngập lên đến ngực mà mỗi lần xúc được một tảng đất lớn th́ mừng lắm nhưng khi kéo nó lên trên mặt nước th́ đất tan ră dần chỉ c̣n vài nắm tay nên họ yêu cầu phải ngụp lặn xuống mà xúc đất lên cho nhiều. Chúng tôi thay phiên nhau lặn xuống xúc đất lên măi mới được gần lưng chiếc thuyền rồi chèo vào bờ đổ lên đắp vào con đê. Tôi sực nhớ tới ngày xưa thời Bắc thuộc, ông cha chúng ta cũng phải xuống biển ṃ ngọc trai san hô cho quân Tầu đang đô hộ th́ mới thấy thương tổ tiên ông cha ḿnh ngày trước.

Nh́n thành quả của hai tiếng đồng hồ mà chỉ như muối bỏ biển, ai cũng ngao ngán, một phần v́ ngâm nước quá lâu nên ai cũng bắt đầu thấm lạnh và run lập cập. Suốt một ngày quần thảo với mấy cục đất ngụp lên lặn xuống mà chỉ được có bốn chuyến đổ đất lên đắp con đê cũng chẳng làm cho nó chắc hơn được chút nào nhưng mà công tù có mất ǵ đâu.

Khi về đến buồng th́ ai nấy đều mệt ră người ra và lạnh cóng.

May mắn năm đó nước lũ chỉ tràn vào có một lần, nếu nước sông Hồng dâng cao lên nữa làm vỡ đê th́ không biết chuyện ǵ sẽ xẩy ra.

Trước đó, trong những ngày đi lao động bên ngoài trại dọc theo con đê, chúng tôi thường thấy mấy em bé trai gái đi chân đất, áo quần xốc xếch cắp sách đi ngang qua trên đường đến trường.

Một hôm khi mấy anh đại tá tù chính trị đang cuốc đất th́ thấy một em bé gái khoảng độ bẩy tám tuổi đi qua khu vực lao động của đội vừa đi vừa khóc. Mấy anh mới hỏi thăm th́ được biết là em vừa bị đuổi học v́ thiếu tiền đóng học phí cho trường.

Thấy vậy, mấy anh bèn bảo cháu là ngày mai cũng giờ này ra đây sẽ có tiền đóng học phí.

Tối hôm đó về buồng, mấy anh đại tá quyên góp được một số tiền và quần áo và sáng ngày hôm sau đem ra cho cả cô bé và Bố mẹ cô ta nữa giỏ quần áo, một số tiền và nhờ đó mà cô bé ấy đă được quay trở lại trường.

Ít hôm sau cô bé học sinh đó đem ra nào là đủ thứ trái cây trồng trong nhà và cả chục trứng gà nói là Bố Mẹ cháu biếu mấy bác mấy chú nhưng không thể ra gập để cám ơn được, và gia đ́nh cô bé ấy đă lan truyền ra cả ngôi làng về tấm ḷng nhân ái cuả mấy người tù chính trị.

Mấy anh từ chối và nói rằng thấycháu được đi học lại như những đứa trẻ khác là vui rồi và bảo Bố Mẹ các em đừng bận tâm.

Từ đó đội các anh c̣n nhận cô bé đó làm con nuôi nữa và thấy cô bé đă ăn mặc tươm tất hơn và luôn nở một nụ cười thật tươi mỗi khi đi học qua khu vực lao động của các Bố nuôi. Các anh vẫn tiếp tục trợ giúp gia đ́nh bé gái ấy và vài gia đ́nh nữa cho đến khi vài năm sau chuyển trại.

Trên một tờ báo Nhân Dân xuất bản tại Hà Nội, tôi có đọc một bài viết của Nguyễn Khắc Viện, giáo sư đại học bấy giờ về "Giấc Mơ Năm 2000" và rất là ngạc nhiên bởi v́ sau 45 năm dưới chế độ xă hội chủ nghĩa, con người sống tại Hà Nội vẫn c̣n những ước mơ rất là giản dị mà không bao giờ thực hiện được.

Ông Nguyễn Khắc Viện viết lên một giấc mơ về một Hà Nội đến năm 2000 th́ sẽ khang trang sạch sẽ và sẽ không c̣n bị ngập lụt mỗi khi một cơn mưa lớn đổ xuống thành phố. Tôi lúc đó cứ thắc mắc măi là sau khi cướp được chính quyền năm 1949 rồi th́ Việt Minh họ đă làm được những ǵ cho nhân dân khi mà 45 năm sau người dân tại ngay thủ đô vẫn c̣n mơ ước một Hà Nội không bị ngập lụt sau mỗi cơn mưa? Người dân bên ngoài c̣n nhiều khắc khoải như vậy th́ tù nhân trong trại tập trung sẽ sống c̣n được hay không?

Chế độ "tập trung cải tạo" (TTCT) là bắt chước y khuôn các trại tập trung lao tù của Nga Sô và một phần được "tô điểm" thêm từ Trung Cộng cho nên khi nó du nhập vào miền Bắc sau năm 1954 th́ đă gieo kinh hoàng cho dân chúng ngoài Bắc để cho người dân phải sợ hăi đến tê liệt hết ư chí không c̣n dám chống đối Nhà Nước Cộng Sản nữa.

Sau khi xâm chiếm miền Nam tháng Tư 1975 th́ kẻ chiến thắng đă dùng ngay con bài này để vừa trả thù vừa trừ khử những sĩ quan và viên chức chế độ VNCH cũ trong các trại TTCT này, và là đ̣n răn đe cho những ai c̣n mang lư tưởng chống đối lại chế độ vô sản chuyên chính của họ.

Đ̣n đầu tiên quật ngă ư chí của người tù là giam giữ không có bản án nghĩa là sau ba năm bị giam trong tù th́ tự động chồng lên ba năm nữa không cần xét xử hay công bố, để khủng bố tinh thần những người tù mà họ gọi một cách mỵ dân và lường gạt dư luận là "cải tạo viên".

Đ̣n thứ hai là cưỡng bức lao động khổ sai nhưng chỉ cho ăn thật thiếu thốn cả về chất lượng và số lượng để những người tù này phải đói khát, giá lạnh, khổ cực triền miên hàng ngày, hàng tháng, hằng năm mà ... không chết được.

Họ phải chịu cái giá lạnh v́ một năm Nhà Nước chỉ cung cấp mỗi người hai bộ quần áo tù và một cái chăn mền dù là họ đang bị giam tại những vùng nhiệt độ ban đêm có thể xuống tới zero độ C.

Nhưng nếu họ không lao động cật lực để qua lao động cải tạo bản thân họ th́ nhà kỷ luật, thùng Connex, nhà biệt giam sẵn sàng mở cửa tiếp đón.

Lao động thế nào là tốt hay xấu là tùy theo sự phán xét của tay quản giáo và của trại giam và người tù không được có ư kiến.

Trên thế giới từ cổ chí kim có lẽ chưa có một quốc gia nào, một đất nước nào bắt người tù phải đóng tiền cơm để vào tù như chế độ Cộng Sản sau khi chiếm đóng miền Nam năm 1975.

Rồi sau đó loan báo là Nhà Nước sẽ nuôi các "cải tạo viên" nhưng khi giam giữ họ một thời gian th́ ra lệnh cho tất cả trại giam đều phải tự túc lương thực có nghĩa là những người tù phải lao động cật lực để tạo ra của cải vật chất làm giầu cho trại và tự nuôi lấy ḿnh hay nói một cách khác Nhà Nước giam giữ tù mà không hề tốn một xu nào cho ngân quỹ.

Thực tế, nhiều trại không những tự túc được về lương thực mà c̣n làm ra nhiều tiền nữa để trại đem nộp lên cấp trên của họ tuy nhiên khẩu phần ăn của tù nhân th́ vẫn như cũ.

Mức quy định cho mỗi tù nhân c̣n sức khỏe đi lao động một tháng là 15 kư chất bột c̣n người nằm bệnh xá hay bệnh tại buồng chỉ c̣n 13 kư rưỡi.

Chất bột có nghĩa là nếu không có gạo th́ thay bằng bo bo, sắn, khoai lang, khoai tây, bột ḿ quy ra bột. Nhiều trại cả năm chỉ vào những ngày Tết hay lễ lớn th́ mới thấy nhà bếp phát cơm và ít thịt heo hay chỉ chút canh có mỡ màng, c̣n th́ quanh năm suốt tháng chỉ có khoai sắn và bo bo.

Nhiều khi khoai sùng và sắn mốc xanh trong kho cũng được nhà bếp nấu cho ăn, chính v́ chế độ ăn uống thiếu thốn và suy dinh dưỡng và thiếu vệ sinh như vậy đă làm cho người tù dần dần kiệt sức hay ngă bệnh.

Có anh đă cho tôi xem thư gia đ́nh trong đó viết vợ và bẩy đứa con của anh hiện nay không biết sẽ xoay sở ra sao v́ nhà đă hết gạo. Tôi nh́n đôi mắt đỏ hoe của anh mà trong ḷng như bị xát muối. Người tù vốn đă cùng cực rồi c̣n phải chịu thêm nỗi đau cho vợ con ở nhà, không biết Ông Trời ở nơi đâu?

H́nh như sau khi quê hương mất vào tay Cộng Sản th́ toàn thể dân chúng miền Nam đều hứng chịu nỗi khổ đau phong ba băo táp, nhưng có lẽ những ǵ thiệt tḥi nhất vẫn dành cho những người tù như trong lá thư của Phượng, người con gái Sàig̣n sau này đă dành cho tôi bao t́nh cảm khi đến thăm tôi tại trại Hàm Tân.

Trong t́nh h́nh khó khăn như vậy nhưng có nhiều anh đă rất can trường và oai hùng đă thẳng thắn từ chối sự bảo lănh của thân nhân ở phía bên kia và chấp nhận sự lưu đầy và lao động, nhưng cũng có nhiều người đă vượt quá sức chịu đựng của họ và trở nên lăng trí hay mất trí luôn.

Đại tá Luân, chỉ huy trưởng của đơn vị 101 có kể cho tôi nghe rằng Ba của anh đến trại thăm và ngỏ ư sẽ bảo lănh cho anh sớm được thả.

Anh đă qùi xuống xá ông ba cái để trả ơn công sinh thành ngay t ại nhà thăm nuôi nhưng nói rằng mỗi người có một lư tưởng khác nhau. Lư tưởng Tự Do của người Quốc Gia trong anh không bao giờ thay đổi, anh chào từ biệt Ba anh và thanh thản bước vào trại.

Anh Bửu Uy, một bạn thân của tôi cũng có người cha đi tập kết ra Bắc và vào thăm anh để tiến hành thủ tục bảo lănh nhưng anh cũng thẳng thắn từ chối. Anh cũng là một trong hai mươi người cuối cùng bước chân ra khỏi trại giam Hàm Tân năm 1992 sau mười bẩy năm tù.

Quả thật là như trong Kinh Dịch nói "Cùng th́ tất Biến", trong những lúc đói khổ thiếu thốn như vậy th́ xui khiến cho chính bà vợ của tay trưởng trại lại là người cung cấp thức ăn tươi cho tù nhân chúng tôi mới là điều nghịch lư.

Trại nơi tôi ở có bà vợ ông trưởng trại rất là độc đáo. Phải nói là bà ta có nhiều cái độc đáo th́ mới đúng. Trong khi chồng bà là Thiếu Tá Dũng luôn tỏ ra nguyên tắc th́ bà ngược lại chỉ nghĩ rất thực tế là buôn bán, móc ngoặc làm giầu qua việc bán hàng cho tù nhân, đặc biệt là tù chính trị.

Bà ta là người có đầu óc phóng khoáng, phi chính trị, cho nên thường vẫn nói một cách tỉnh bơ với anh em chúng tôi là: "Các anh là tù quốc tế mà, việc ǵ mà phải sợ chúng nó, cứ mua bán ăn uống vào cho khoẻ". Chúng nó đây là đám cán bộ trực trại thỉnh thoảng lại tịch thu các món hàng anh em chúng tôi mua của bà ta khi gánh hàng qua cổng trại.

Phải công nhận rằng thời gian đó nhờ vào các thức ăn tươi rau trái mua được từ nguồn cung cấp là bà ta, cho nên sức khoẻ anh em tôi cũng đỡ phần nào.

Tuy giầu có như vậy, nhờ buôn bán với tù nhân trong trại, nhưng đi đâu cũng là chân đất. Hôm nào chúng tôi đang lao động mà thấy bà ta xỏ vào đôi guốc là có đại sự hoặc là lên tỉnh hay lên Hà Nội đi cất hàng.

Có hôm chúng tôi không nhịn được cười khi bà ta khoe rằng:" Các anh không biết chứ ngày xưa tôi là hoa khôi trong làng nên ông ấy mới mê mà lấy đó!" trong khi bà ta th́ gầy đét như que củi và bộ răng như một hàng hiên mái nhà che mưa mà lúc nào cũng cứ tự khen ḿnh là hoa khôi ngày xưa.

Ngoài ra, rất nhiều anh có hoa tay nên đă biến những cái sừng trâu thành bao nhiêu là cái lược sừng khắc tên cho vợ con ở nhà, bao nhiêu là tượng Phật, tượng Chúa rất đẹp và quan trọng nhất là cái ḷ nấu bằng dầu hôi chế tạo từ những lon sữa ḅ hay hộp cá ṃi. Chính nhờ cái ḷ dâù hôi này mà mùa Đông chúng tôi có thể nấu ít nước trà nóng hay ít canh rau để giữ ấm được thân nhiệt. Các anh có đầu óc sáng chế và tài hoa này phải kể anh Quát, anh Quang Sừng, v.v.

Nội quy do trại đặt ra th́ nghiêm cấm đủ mọi thứ v́ vi phạm là kỷ luật, và mục đích của nó là đóng khung người tù trong điều kiện sống khắc khổ nhất để họ chết dần chết ṃn.

Bởi vậy, tuân theo nội quy cứng ngắc đó không khác ǵ cho cổ vào dây tḥng lọng bởi v́ nó chỉ áp dụng cho tù nhân mà thôi c̣n cán bộ họ muốn làm ǵ th́ làm cũng giống y như luật pháp bên ngoài xă hội vậy.

Trại giam cũng như một xă hội thu nhỏ lại, tù nhân là dân chúng bên ngoài đă bị tịch thu hết tài sản c̣n bị tṛng vào cổ bao nhiêu tầng áp bức trong khi cấp lănh đạo Nhà Nước th́ làm giầu trên xương máu nhân dân nhưng lúc nào th́ cũng hô hào nhân dân làm chủ, cũng phô trương lừa bịp với thế giới rằng chế độ xă hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn chế độ tư bản ngàn lần.

Viết Xong mùa Hạ năm Canh Dần, Nam California

Tấm Ḷng Người Vợ

Phụ nữ Á Đông, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam nói chung, so với những phụ nữ khác tại Á Châu, Âu châu, hay trên thế giới th́ không những đẹp hơn về vóc dáng mảnh mai, khuôn mặt thanh tú, mà c̣n hơn hẳn về phương diện đức hạnh tức là cái đẹp ẩn tàng bên trong và cũng vựơt xa hơn về t́nh thương yêu vô bến bờ dành cho chồng con ḿnh.

Cái đẹp này đă không mất đi mà c̣n thể hiện đậm nét hơn và tô đẹp hơn h́nh ảnh của người phụ nữ trong vai tṛ người vợ dù bao nhiêu cuộc chiến điêu tàn và thảm khốc đă diễn ra trên quê hương chúng ta.

Sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản dưới chế độ xă hội chủ nghĩa (XHCN) th́ xă hội đă bị đảo lộn, trật tự không c̣n, căn bản đạo đức bị những người Cộng Sản làm băng hoại và phẩm giá con người, nhất là người phụ nữ, đang bị hủy diệt.

Trong khi chồng con bị giam giữ trong các trại tù mọc lên khắp nước th́ một lần nữa, người phụ nữ, người vợ trong gia đ́nh đă phải gánh vác trách nhiệm nặng nề là nuôi con cái và nuôi cả người chồng c̣n trong ṿng tù tội và đọa đầy.

Các chị đă phải hứng chịu bao phũ phàng và kỳ thị mà kẻ chiến thắng đă phủ lên gia đ́nh họ như là một h́nh thức trừng phạt.

Con cái th́ không được tiếp tục con đường học vấn lên đại học dù là các cháu học rất giỏi và khi đi t́m việc làm th́ bị đẩy ra v́ lư lịch của người cha, nhưng các chị vẫn vững bước trên con đường ḿnh đi để kiếm cách mưu sinh nuôi con cái trong lúc người chồng đă ra đi mà không biết ngày nào có thể trở lại.
Đa số các chị trước năm 1975 đều là nội trợ, chân yếu tay mềm sống vào đồng lương ba cọc ba đồng của chồng, nay phải đương đầu với bao khó khăn trong cuộc sống đảo điên của chế độ XHCN và c̣n phải chắt chiu dành dụm từng đồng một để thăm nuôi và tiếp tế cho chồng ḿnh trong tù. Qủa là một cơn ác mộng dài.

Người chồng trong tù đă phải chịu đựng những sự trả thù tàn bạo của kẻ chiến thắng trên thân h́nh c̣m cơi của họ, nhưng người vợ ở nhà cũng không được yên thân với bao nhiêu là hạch sách nhiễu nhương bởi phường khóm, bị đuổi nhà và đầy đi vùng kinh tế mới, bị đánh tư sản, bị công an địa phương ŕnh rập ngày đêm để t́m cách gây khó khăn và hăm hại.

Thế rồi khi được thư của người chồng báo tin là trại giam bắt đầu cho thăm nuôi th́ người vợ vừa mừng vừa lo.

Mừng v́ sau bốn năm trường bặt tin, bây giờ sẽ có cơ hội được gập mặt người chồng yêu thương nhưng lại lo lắng v́ t́m đâu ra một số tiền lớn để mua vé xe lửa và chi phí trong chuyến đi ba ngày trời theo con tầu Thống Nhất ra tận ngoài Bắc mà thăm nuôi ? Chưa kể những trở ngại mà phường khóm và công an địa phương cố t́nh gây ra về giấy tờ thủ tục rườm rà để cản trở việc thăm nom đó với mục đích làm tiền một cách trắng trợn.

Chị Lăm là một trong những người vợ đang trong tâm trạng ấy.

Bốn năm qua, chị sống trong t́nh trạng khắc khoải lo âu v́ không biết họ giam giữ chồng ḿnh ở đâu và anh ấy c̣n sống hay đă chết?

Bây giờ được thư của anh Lăm th́ chị bàng hoàng cả người v́ không ngờ họ đă đầy ải anh ra tận ngoài Bắc trong khi ra đi th́ anh có đem theo một cái áo ấm nào đâu?

Rồi không biết làm sao anh chịu nổi cái lạnh khủng khiếp của mùa Đông băng giá ngoài đó trong t́nh trạng thiếu ăn thiếu mặc?

Cầm lá thư của chồng trong tay mà hai hàng nước mắt thương chồng của chị lăn dài trên hai g̣ má xanh xao và nhỏ xuống thấm ướt cả lá thư.

Hai đứa con mới hơn mười tuổi nh́n chị hỏi có thư của Ba hả Mẹ làm chị lại càng đau xót, chị ôm hai đứa con và cả ba mẹ con đều ôm nhau khóc cho vơi đi bao nỗi tủi nhục từ ngày mất nước và cho vơi đi bao niềm thương nhớ chất chứa bấy lâu trong ḷng.

Chị đâu có thể nào kể cho hai con nghe v́ chúng c̣n nhỏ quá cũng không hiểu được rằng ngày ba nó ra đi để bước chân vào con đường tù đầy trong trại tập trung "cải tạo", th́ ba nó đă mang theo cả bao nhiêu thương nhớ và cả nửa phần hồn của mẹ rồi. Thời gian sau, mẹ trở nên xanh xao qua bao nhiêu cuộc biển dâu của cái xă hội mới này, nhưng một phần cũng v́ trằn trọc hằng đêm thương cho người chồng hiền hậu không biết có sống nổi hay không trong cái hoả ngục trần gian ấy.

Thế rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi và công việc mỗi ngày của chị là phải đi giao hàng những đồ nan tre rổ rá thúng mủng cồng kềnh được máng vào và cột trên chiếc xe đạp đă ṃn cả đôi lốp để kiếm từng đồng nuôi hai đứa con tại Sàig̣n.

Nhiều khi các hàng tiểu thủ công nghệ bằng nan tre này hầu như muốn che khuất luôn cả con đường trước mặt và che mất luôn cả con người của chị, nhưng chị vẫn kiên nhẫn leo lên chiếc xe đạp cũ kỹ và nắm vững tay lái để giao từng chuyến hàng, từng chuyến hàng một để qua ngày đoạn tháng và nhất định không đầu hàng số phận nghiệt ngă đă phủ xuống gia đ́nh của chị cũng như của hàng trăm ngàn gia đ́nh viên chức Sĩ Quan chế độ cũ sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản tháng Tư năm 1975.

Anh Hoàng Lăm là một đại úy trong QLVNCH và được biệt phái sang Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo thuộc Phủ Tổng Thống, cho nên anh cũng như các anh em tù nhân chính trị khác trong ngành t́nh báo, an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, đều bị cho vào danh sách các thành phần nguy hiểm cho chế độ và bị tập trung hết đưa ra Bắc để qua con đường lao động mà "cải tạo bản thân để trở thành người công dân tốt".

Bốn năm tập trung lao động trong một thứ xă hội phát triển ngược chiều, đưa con người ta trở lại thời kỳ sơ khai đồ đá như chế độ Cộng Sản tại miền Bắc đă làm anh kiệt sức nhưng tinh thần anh th́ vẫn vững vàng.

Khi đặt bút viết lá thư đầu tiên sau bốn năm xa cách về cho người vợ yêu dấu, anh cũng trong tâm trạng vừa mừng vừa lo và không khỏi đắn đo v́ anh biết bên ngoài người dân trong đó có vợ anh cũng đang chật vật gian khổ từng ngày để kiếm sống và đề sinh tồn trong một cái xă hội mà nó cũng chỉ là một nhà tù rộng lớn hơn mà thôi.

Chị Lăm cũng chỉ là một trong hàng trăm ngàn người vợ của tù "cải tạo", những người vợ chịu đựng bền bỉ bao đắng cay vùi dập sau khi Cộng Sản xâm chiếm miền Nam, nhưng sao tôi thấy ở chị một cái ǵ rất là đặc biệt.

Dù sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và vật lộn với đời sống hàng ngày nhưng lúc nào chị cũng tỏ ra lạc quan, ít nhất cũng là trong thời gian lúc thăm gập người chồng và gập những bạn của chồng khi họ đang lao động hay trong khu thăm nuôi, và không bao giờ chị hé môi cho chồng ḿnh biết về những ǵ bên ngoài để người chồng bớt phần lo lắng cho vợ con.

Những khi mà chị không thể ra thăm anh Lăm được th́ chị gửi các bưu kiện để anh có thêm thức ăn và thuốc men hầu giữ ǵn sức khỏe chờ ngày đoàn tụ.

Sau đó các chị liên lạc được với nhau và thành lập như một cái hội của các người vợ có chồng đi "cải tạo" để giúp đỡ nhau, thông báo cho nhau hay cùng nhau đi thăm chồng hoặc đem dùm các thùng hàng thăm nuôi nếu có chị nào không đi được chuyến đó ngơ hầu các người chồng trong tù không bị thiếu thốn về thực phẩm và thuốc men.

Nhờ có chị và các chị khác thay phiên nhau đi thăm nuôi chồng và tải đồ tiếp tế cho các bạn của chồng mà chúng tôi có được thêm thức ăn khô và thuốc men thường xuyên hơn.

Ngoài ra việc đến thăm chồng trong trại giam, các chị c̣n đem những tin vui về việc phái đoàn Hoa Kỳ thương thuyết với Hà Nội để sớm trả tự do cho những tù nhân chính trị và nhờ đó mà tinh thần các người tù được lên cao và sức khỏe cũng khả quan hơn.

Mỗi lần nghe tin chị đến thăm là hầu như cả khu giam bên tù chính trị đều vui mừng v́ chị thường đem theo vài chục thùng hay giỏ quà tiếp tế cho hàng hai ba chục người bạn của chồng ḿnh nữa.

Chúng tôi vui v́ vừa đỡ được một buổi lao động cuốc đất ngoài nắng, vừa được ra khu thăm nuôi gập chị, mà lại được biết thêm tin tức về gia đ́nh của ḿnh và những ǵ chúng tôi cần nhắn nhủ lại gia đ́nh th́ chị đều chuyển về đầy đủ.

Chỉ nghĩ đến cảnh chị đă vất vả khuân bao nhiêu là thùng đồ bao nhiêu là giỏ quà từ Sàig̣n lên tầu hỏa và phải canh giữ chúng ba ngày đêm trên tầu sợ mất cắp, rồi lại kiểm soát từng thùng từng giỏ một để khuân chúng xuống tầu và thuê xe chở vào đến trại mất bao nhiêu công sức chúng tôi không khỏi xúc động và cám ơn chị nhưng lúc nào chị Lăm cũng xua tay và nở một nụ cười thật tươi.

Từ khi chị Lăm bắt được lá thư của chồng gửi về th́ chị cứ như con thoi đi lên xuống từ Nam ra Bắc thăm nuôi anh ṛng ră suốt 12 năm trời không biết mệt mỏi theo các chuyến xe lửa từ Nam ra Bắc và cho đến khi anh được chuyển vào Nam năm 1988 th́ chị lại cho hai con đến thăm anh tại trại Hàm Tân Z-30 thường xuyên hơn nữa.

Nhiều lúc tôi cũng rất phục chị Lăm và những người vợ có chồng đi tù như chị v́ ở nhà chị đă phải đóng vai người Mẹ và cả vai người cha bươn chải ra ngoài kiếm tiền nuôi con và nuôi chồng nữa trong một xă hội bị cai trị bởi những con người Cộng Sản vô nhân tính đang t́m cách trù dập những gia đ́nh có thân nhân theo chế độ cũ.

Tôi tin rằng Trời Phật đă nhủ ḷng thương xót mà độ tŕ và che chở cho các chị để được mạnh khỏe và bôn ba được trong cái xă hội mới đầy hận thù ấy mà nuôi chồng nuôi con ḿnh.

Tại trại Ba Sao, Nam Hà ở ngoài Bắc cũng như trại Hàm Tân trong Nam, không những tên của chị Lăm trở thành quen thuộc với chúng tôi mà tên của các chị Trần Q. Lựu, chị Trương V. Thụy, chị Trần T. San, chị Lê V. Hoan, chị Nguyễn H. Trân, chị Huỳnh T. Nhơn, v.v., cũng không c̣n xa lạ với chúng tôi trong trại v́ các chị không những thay phiên nhau đi thăm nuôi chồng ḿnh mà c̣n tải hàng cho các gia đ́nh bạn chồng nữa.

Các chị cũng liên lạc thường xuyên với Mẹ và các em tôi trong những lần thăm nuôi để cùng hỗ trợ nhau và nối kết với nhau trong một tấm chân t́nh thật là hiếm có trong khi mà các giá trị đạo đức và nền tảng gia đ́nh của người Việt Nam từ ngh́n xưa đang bị những “con người mới” và các đảng viên của xă hội chủ nghĩa này chà đạp và chối bỏ.

Khu thăm nuôi nhờ có các chị và gia đ́nh đến thăm nom thường xuyên nên khởi sắc, như sống lại và đă làm tan biến đi phần nào sự u ám nặng nề của trại giam.

Sau một thời gian tiếp xúc, các cán bộ phụ trách khu vực này cũng dần dần tỏ ra nhiều thiện cảm với những gia đ́nh tù nhân chính trị và tỏ vẻ cảm động trước t́nh nghĩa vợ chồng bền chặt và gắn bó của những gia đ́nh tù nhân chính trị từ trong Nam chuyển ra Bắc.

Họ cũng rất thành thật nói rằng so với phụ nữ trong Nam th́ đàn bà ngoài Bắc ngày nay không thể sánh bằng được, chưa nói đến chồng vào tù một thời gian th́ đă bỏ đi lấy chồng khác chứ chẳng chờ đợi năm tháng dài đằng đẵng như các chị trong Nam đâu.

Trong suốt 12 năm chị Lăm đi thăm anh từ ngoài Bắc vào đến trại giam trong miền Nam, thông thường th́ cứ khoảng ba tháng là chị lại vào trại thăm anh một lần hay gửi quà qua bưu điện, qua xe đ̣ hay qua các chị bạn và bao giờ cũng kèm một lá thư thăm hỏi anh.

Bẵng đi một thời gian cả sáu tháng, chúng tôi không thấy chị đến thăm anh tại Hàm Tân và cứ ngỡ là chị đă vượt biên? Anh cũng thao thức không yên cho đến một hôm chị lại xuất hiện nhưng gầy ốm hơn tuy miệng lúc nào cũng tươi cười khi gập anh em chúng tôi.

Tối hôm đó, ngồi uống trà và hàn huyên với anh Lăm th́ tôi mới hay hung tin là chị Lăm đă bị chứng bệnh nan y là ung thư bao tử và đang chờ mổ và điều trị. Một điều may mắn là bác sĩ phẫu thuật lại là một bác sĩ quân y ngày trước của VNCH cho nên khi biết t́nh cảnh của chị th́ ông hứa sẽ hết sức giúp đỡ.

Tôi thấy hai mắt anh đỏ hoe và anh thẫn thờ như người mất hồn và chỉ biết an ủi anh là có bác sĩ giỏi th́ không sao đâu mà thôi, rồi nín lặng v́ ai cũng đang theo đuổi ư nghĩ riêng của ḿnh.

Tôi chợt nhớ đến bài hát “Mầu Tím Hoa Sim”: “Sao không chết người trai khói lửa mà chết người em nhỏ hậu phương?” mà thấy ông Trời sao bất công quá.

Chị đă vượt qua không biết bao nhiêu là khó khăn gian nan để đeo đuổi không mỏi mệt việc thăm nuôi anh trong 12 năm ṛng ră từ năm một chin bẩy chín đến một chín chín mốt để anh có sức khỏe và sống c̣n trong tù với một ước vọng chính đáng duy nhất là vợ chồng sẽ sớm có ngày đoàn tụ. Nhưng khi mà trái cây sắp chín và ngày đoàn tụ gần kề th́ chị lại ngă bệnh. Quả thật chúng tôi không bao giờ ngờ được đó là sự thực.

Khi gia đ́nh báo tin qua khu thăm nuôi là chị vừa mổ xong và đang nằm trong bệnh viện Sàig̣n th́ một sự kiện lạ lùng xẩy ra lần đầu tiên và duy nhất trong tù. Đó là tay cán bộ phụ trách khu thăm nuôi đă đề nghị với trại, lúc đó Thiếu Tá Nhu là một trưởng trại có đầu óc rất cấp tiến, để cho anh Lăm được đặc biệt về Sàig̣n một ngày để thăm chị và đề nghị đă được chấp thuận.

Anh về thăm chị trong ngày rồi lại trở vào trại nhưng rất may mắn là chỉ vài tháng sau th́ anh có tên trong đợt thả sau mười sáu năm bị giam giữ trong các trại tập trung. Anh là một trong số hơn một trăm người tù cuối cùng tại trại hàm Tân Z-30D.

Khi tôi được thả về một năm sau đó, tôi lại thăm gia đ́nh anh chị và vẫn thấy tinh thần lạc quan ở con người đang mắc phải căn bệnh hiểm nghèo nhất của thế kỷ. Chị vẫn tươi cười dù là gầy ốm nhiều hơn trước.

Khi về th́ anh làm thủ tục cho gia đ́nh đi theo chương tŕnh H.O và qua định cư tại Los Angeles, California một năm sau khi ra tù.

Sau khi cắt bao tử tại Sàig̣n, chị Lăm lúc qua Cali đă được các bác sĩ Mỹ tận tâm chữa trị bằng Chemotherapy. Tôi đến thăm anh chị trong căn pḥng apartment trên Los Angeles và không ngăn đựoc niềm xúc động v́ sau vài năm chữa trị chị chỉ c̣n như bộ xương với làn da trắng trước kia bây giờ là xám đen v́ hóa chất.

Vài năm sau khi qua được miền đất Tự Do th́ chị trút hơi thở cuối cùng.

Rất đông bạn bè, nhất là những người đă cùng ở tù với anh Lăm đều đến phúng điếu và đưa chị ra nghĩa trang hoa hồng để an giấc ngh́n thu.

Nh́n chiếc quan tài của chị đang hạ dần xuống để lấp đất, tôi chào vĩnh biệt chị lần cuối và nói khẽ với chị rằng chị là một trong những người phụ nữ Việt Nam, một người vợ của bạn ḿnh mà tôi vô cùng mến phục.

Chị không những đă làm tṛn bổn phận của một người vợ tù “cải tạo”, không những đă làm cho kẻ thù phải cảm động v́ t́nh nghĩa vợ chồng trong xă hội của miền Nam ngày xưa, mà chị cũng đă làm bao nhiêu công đức giúp đỡ cho các bạn của chồng ḿnh nữa trong suốt hơn một thập niên.

Nhờ có chị mà anh đă phục hồi được sức khỏe, lên tinh thần và đă sống sót sau mười sáu năm tù đầy. Gia đ́nh chị đă được đoàn tụ trên vùng đất Tự Do, hai cháu bây giờ đă khôn lớn và đều có gia đ́nh rồi cho nên chị hăy yên tâm an nghỉ.

Con người ta có sinh th́ có tử nhưng con người ta không dễ ǵ mấy ai làm nổi những nghĩa cử như chị, không mấy ai có được một tấm ḷng Bồ Tát như chị.

Vĩnh biệt chị Lăm

Viết xong vào dịp lễ Independent Day 2010 tại miền Nam California

Thân Mẫu Tại Đường - Như Lai Tại Thế

Trong thời gian được ở chung trong cùng một trại giam ở miền Bắc với quí thầy Nha Tuyên Úy Phật Giáo, tôi có cơ duyên học hỏi nhiều điều hay cả về đời và về đạo. Một lời chỉ dậy mà tôi ghi nhớ nhất trong ḷng là h́nh ảnh diệu kỳ của người Mẹ trong câu:

"Thân mẫu tại đường -Như Lai tại thế".

Câu châm ngôn này nói lên vai tṛ và công lao to lớn nuôi nấng con cái của người Mẹ khi c̣n sống trong gia đ́nh cũng ví như Đức Phật đang c̣n tại trần gian để cứu vớt chúng sanh ra khỏi sự trầm luân của bến mê khổ ải.

Điều này cũng nói lên sự may mắn cho những gia đ́nh nào c̣n có Mẹ th́ sẽ vững vàng và được che chở giống như trên Thế gian c̣n Đức Phật đang đi hoằng dương Phật Pháp vậy.

Quả thật Mẹ tôi đă đóng một vai tṛ rường cột suốt bao nhiêu năm trong thời b́nh hay trong thời loạn lạc giặc giă triền miên hơn bốn chục năm trên đất nước Việt Nam từ Bắc vào Nam.

Mẹ tôi là con gái lớn trong gia đ́nh và quê bên ngoại tôi trong tận Thanh Hóa. V́ là chị lớn trong nhà nên Mẹ tôi đă sớm phải rời sân trường mà ra đời buôn bán để đỡ đần ngoại và nuôi các em, và trở thành trụ cột của gia đ́nh .

Tôi ít khi nghe Mẹ kể về ông Ngoại và chỉ biết là ông mất sớm và bà ngoại th́ rất là hiền lành và chân chất của người phụ nữ miền quê.

Chuyện t́nh của Ba Mẹ tôi th́ thật giản dị nhưng không kém phần lăng mạn.

Trong những chuyến đi buôn bằng xe lửa từ Thanh Hóa ra Bắc, Mẹ tôi đă gập Ba tôi lúc đó là "xếp" trên đoàn xe và y như trong tiểu thuyết, Ba tôi đă bị một “cú sét” khi nh́n thấy Mẹ tôi trong những chuyến tầu ngược ra Bắc để bỏ hàng.

Mẹ tôi tuy ở miền thôn dă ngoại ô của thị xă Thanh Hóa nhưng lại có một vẻ đẹp rất là tỉnh thành và tuy mới mười tám tuổi nhưng đă rất là chững chạc và đảm đang và rất nhiều trai tráng trong làng quê đă theo đuổi nhưng Mẹ tôi chẳng chịu ai cả.

Khi gập Ba tôi, một con người học thức, điển trai và "ga lăng" luôn giúp đỡ Mẹ tôi trong từng chuyến hàng th́ Mẹ tôi cũng không khỏi cảm động trước t́nh cảm ấy.

Lúc đó chắc Mẹ tôi cũng không thể ngờ rằng cuộc đời ḿnh sẽ phải trải qua ba giai đoạn thử thách ghê gớm theo vận nước thăng trầm mà nhiều người đă không vượt qua nổi.

Mỗi khi nghe Mẹ kể lại về cuộc đời ḿnh, tôi đều nghĩ rằng chính cái Tâm của Mẹ tôi thật tốt, trung hậu và hay giúp đỡ người cho nên Trời Phật đă độ tŕ cho qua được bao nhiêu là gian nan thử thách và hiểm nghèo trong một quê hương đă quá lầm than v́ giặc giă, chiến tranh và đói khổ.

Giai đoạn đầu tiên là khi Ba Mẹ tôi lấy nhau được hơn một năm th́ chiến tranh Thế Giới lần Thứ Hai bùng nổ, Mẹ tôi không kịp về được Thanh Hóa để đón Ngoại và các em mà phải theo chồng ngược lên Yên Bái để đứng ra khai phá một đồn điền cao su với người em rể là chồng của cô em út Ba tôi.

Công việc tuy vất vả nhưng tiến triển rất tốt cho đến khi chiến tranh lan dần đến Yên Bái và các đồn điền trở thành vùng mất an ninh và hoang dă v́ Việt Minh bắt đầu phá hoại các ruộng vườn và trang trại để chống lại Pháp trong chiến dịch "Vườn Không Nhà Trống", nên Ba Mẹ tôi lại tản cư về Nam Định để giúp ông chú rể là chồng bà cô ruột của Ba tôi gây dựng nên xưởng làm sà pḥng.

Ông chú này chỉ biết công thức sản xuất nhưng lại không biết phương pháp làm sao để chế tạo ra được sà pḥng nên mới mời Ba tôi cộng tác.

Nghĩ t́nh bà cô ruột của ḿnh nên Ba tôi nhận lời. Chỉ một thời gian ngắn sau với sự t́m ṭi và nghiên cứu ngày đêm của Ba tôi, xưởng sà pḥng mới mang tên "Sao Mai" này đă thành công ngoài mức dự tính v́ phẩm chất của nó c̣n tốt và rẻ hơn cả xà bông "Cây Đờn" của ông Trương Văn Bền, lúc đó hầu như là nổi tiếng nhất và chiếm lĩnh hầu hết thị trường từ Nam ra Bắc.

Nhưng thực tế thật là phũ phàng v́ sau khi thành công và nắm được cách sản xuất và pha chế trong tay th́ ông chú rể đă nhẫn tâm hất Ba tôi ra để hưởng lợi một ḿnh.

Ba tôi quá tức giận và qua nhà ông chú này tính chuyện sẽ hỏi thăm sức khỏe cái ông chú rể vô lương tâm này nhưng mà bà cô ruột th́ chắp hai tay lại mà xá Ba tôi xin tha cho ông chú rể và Mẹ tôi lại khuyên nên bỏ qua và t́m công việc khác v́ Ba tôi là người có tài v́ nếu có chuyện ǵ không hay th́ Ba tôi sẽ vào tù, c̣n người nào ăn ở không phải th́ Trời Đất sẽ trừng phạt họ.

Quả nhiên chỉ vài tháng sau th́ nghe tin ông chú rể đó mắc bệnh nan y và đă qua đời, cũng chẳng mang theo được đồng xu nào.

Rất may là Ba tôi đă nghe theo lời Mẹ tôi khuyên nên bỏ qua, hơn nữa lúc đó bom đạn lại bắt đầu tàn phá thành phố Nam Định và các xưởng thợ nên Ba Mẹ tôi lúc đó được bốn con trai mà tôi là thứ tư vừa sanh được mấy tháng th́ lại tản cư và gia đ́nh rời Nam Định ra làm ăn ở Hải Pḥng.

Trong suốt các thời gian gây dựng lên cơ nghiệp từ làm đồn điền đến nhà máy dệt, xưởng sà pḥng, bao giờ Mẹ tôi cũng là người theo sát bên Ba tôi như h́nh với bóng để yểm trợ và cố vấn những lúc khó khăn.

Điều mà tôi phục Mẹ tôi nhất là dù không được theo học hết bậc tiểu học nhưng đầu óc tính toán đâu vào đấy và làm ǵ cũng đều hợp t́nh hợp lư, và những lúc c̣n hàn vi hay khi đă giầu có th́ Ba Mẹ tôi vẫn coi trọng t́nh cảm và họ hàng trên đồng tiền.

Đằng sau sự thành công của Ba tôi với ba lần thành triệu phú trong khoảng hơn mười năm loạn ly ấy chính là công lao cần cù nhẫn nại và hy sinh của Mẹ tôi.

Khoảng năm một chín năm mươi th́ Ba Mẹ tôi về đến Hải Pḥng, c̣n gia đ́nh cô ruột em út của Ba tôi là cô Hanh th́ về Hà Nội và phát triển ngành buôn nước mắm v́ có mấy người bạn thân của Ba tôi là bác Tăng và chú Huê trong Nam đang làm ăn phát đạt tại Phú Quốc và Phan Thiết.

Rồi không ngờ nước mắm Việt Hương của Ba Mẹ tôi lại được ưa chuộng và thế là phất lên thành triệu phú một lần nữa tại Hải Pḥng và cô tôi th́ triệu phú tại Hà Nội. Đó chính là công sức vô cùng kiên nhẫn và khổ cực của Mẹ tôi đă phải đi chào những mẫu hàng nước mắm ngon từ Hải Pḥng qua Hải Dương lên gần đến Hà Nội mấy năm trời đến gầy rộc đi v́ lao lực.

Ba tôi là người rất thương vợ con cho nên đă mua đủ thứ sâm, nhung, yến để tẩm bổ cho Mẹ tôi và ông Nội tôi cũng hốt thêm nhiều thang thuốc bổ nữa cho con dâu và pha chế các sâm nhung đó với các vị thuốc bắc và nhờ đó mà Mẹ tôi mau lại sức.

Ba tôi khi về Hải Pḥng đă mua tặng cho Mẹ tôi đủ thứ nữ trang, kim cương, và ṿng vàng ngọc thạch để đầy cả một hộp, nhưng trong những quà tặng của Ba tôi dành cho Mẹ thứ mà tôi thấy quí nhất là cái áo choàng bằng lông thú mầu trắng tinh mà khi mặc vào th́ Mẹ tôi trông thật là đẹp và sang trọng.
Cái áo đó tôi nghe Mẹ nói là giá tới mười ngàn đồng, theo thời giá bấy giờ th́ lương của công chức chỉ khoảng một ngàn một tháng.

Tôi c̣n nhớ khi c̣n rất nhỏ ở trong căn nhà rộng lớn như một dinh thự hơn một mẫu đất tại đường Cầu Đất, Hải Pḥng, mỗi buổi tối tiền bán được trong ngày đổ ra đầy cả hai cái chiếu và bốn anh em chúng tôi ngồi xuống chung quanh chiếu để đếm và sắp xếp lại ngay ngắn từng chồng tiền một, từ loại một đồng, năm đồng cho đến mười đồng cho Mẹ. Mỗi ngày Mẹ lại cho anh em chúng tôi mỗi người một đồng bỏ vào ống để dành để dậy cho các con tính tiết kiệm.

Lúc đó chúng tôi chưa biết đến giá trị của đồng tiền nhưng quả là sống trên nhung lụa, nhưng tiếc rằng Ba Mẹ quá giầu có khi mà ḿnh th́ lại c̣n bé nên chẳng hưởng được bao nhiêu th́ Hiệp Định Giơ Neo 20-7-1954 chia đôi Nam Bắc và khi chúng tôi trưởng thành trong miền Nam th́ gia đ́nh lại suy vi.

Suốt trong những năm tháng chiến tranh liên miên giữa Nhật và Pháp rồi Pháp và Việt Minh, bao lần gây dựng nên cơ nghiệp rồi lại đổ vỡ, bao lần tản cư đi tránh đạn pháo th́ Mẹ tôi chính là người đă đem lại sự yên ổn và an toàn cho gia đ́nh và nhiều họ hàng nữa cho đến ngày di cư vào miền Nam.
Giai đoạn thử thách thứ nh́ là khi di cư vào miền Nam được năm năm th́ Ba tôi bị bạo bệnh và qua đời khi Mẹ tôi mới vừa bốn mươi.

Bây giờ nghĩ lại th́ lứa tuổi bốn mươi thật ra c̣n quá trẻ mà Mẹ tôi đă nhất quyết ở vậy để nuôi con chứ không bước đi bước nữa.
Thời gian đó tôi thương Mẹ tôi rất nhiều v́ thấy có lúc Mẹ đau khổ quá v́ chồng th́ không c̣n nữa mà nợ nần tứ tung. Khi ấy tôi đang học Đệ Tứ trường Trần Lục ở Tân Định và mỗi buổi tối phải nhận lại tư gia kèm thêm cho các em thi tiểu học để kiếm thêm ít tiền giúp cho Mẹ trong khi các anh lớn đă vào quân đội và các em gái th́ tập may vá thêm.

Nhưng Mẹ tôi đă can đảm đứng lên làm lại từ đầu và chuyển qua nghề may sản xuất quần áo trẻ em và nhờ đó mà gia đ́nh đứng vững trở lại và từ từ đă trả hết nợ nần khi Ba tôi mang bệnh.

Một lần nữa Mẹ tôi lại cứu gia đ́nh thoát khỏi cơn nguy biến và gia đ́nh bắt đầu hưng vượng trở lại khi tôi học xong Tú Tài II, vừa vào đại học vừa đi làm giúp cho Mẹ, và khi mà hàng quần áo trẻ em cũng đang trên đà phát đạt với cửa hiệu ngay ngoài mặt đường Trương Minh Giảng, Quận Ba, Sàig̣n.

Giai đoạn thử thách thứ ba khi mất miền Nam vào tay Cộng Sản năm 1975 mới chính là khoảng thời gian mà h́nh ảnh người Mẹ hiền lại hiện lên rơ nét nhất để giữ vững cho đại gia đ́nh anh em chúng tôi không bị tan vỡ trước những âm mưu thâm độc của kẻ thù nhằm phá hoại các gia đ́nh có thân nhân theo chế độ cũ VNCH.

Trong lúc mà ba anh em chúng tôi đang bị giam giữ tại các trại tập trung th́ ở nhà Mẹ tôi có tên trong sanh sách những gia đ́nh trong thành phố Sàig̣n bị trục xuất đi kinh tế mới để bọn cán bộ phường khóm tịch thu nhà cửa và tài sản theo chính sách ăn cướp của Đảng và Nhà Nước của chúng trên toàn miền Nam.

Bao nhiêu lần chúng kêu Mẹ tôi ra Phường, ra Khóm để họp hành nhưng mục đích là để kư tên vào tờ đơn giao nhà cửa cho chúng nhưng Mẹ tôi đă cương quyết không kư không giao nhà và cũng không đi vùng kinh tế mới luôn.

Bọn chúng t́m cách chụp mũ Mẹ tôi là chống lại chính sách của Nhà Nước nhưng Mẹ tôi nói rằng Mẹ tôi chỉ hoăn thi hành chứ không phải chống lại lệnh của Nhà Nước. Lư do chưa thể giao nhà cho địa phương quản lư và chưa đi vùng kinh tế mới được v́ ba con trai đang đi tù "cải tạo", nếu giao nhà th́ khi ba người con được thả về biết t́m mẹ tôi ở đâu.

Suốt một năm trời chúng hạch xách mẹ tôi đủ thứ nhưng Mẹ tôi vẫn cương quyết theo lư luận của ḿnh và không kư nhận bất cứ đơn từ nào.

May mắn là sau đó chúng đă để cho Mẹ tôi được yên thân trong một thời gian v́ bọn cán bộ địa phương đă tịch thu được không biết bao nhiêu là căn nhà và tài sản trong thành phố Sàig̣n để chia chác cho nhau và cho cả bọn cán bộ từ ngoài Bắc vào nữa.

Thế nhưng Họa vô đơn chí v́ mới tạm yên vụ đi kinh tế mới th́ chúng quay sang đánh tư sản để một lần nữa lại trấn lột một cách trắng trợn người dân miền Nam.

Các bài bản trước kia áp dụng tại miền Bắc sau năm 1954 bây giờ bọn chúng đem ra thi hành tại miền Nam để ăn cướp công khai và vơ vét thêm một lần nữa tài sản dân chúng.

Mẹ tôi chỉ có một cửa hàng bán quần áo trẻ em coi như một tiểu thương tại Quận Ba mà cũng không thoát khỏi cặp mắt cú vọ của chúng. Rất may cho gia đ́nh là một anh trước kia giúp việc cho Mẹ tôi đă thông báo cho biết tin này nên Mẹ tôi đă di tản được hầu hết vải vóc, quần áo và những thứ quí giá ra khỏi nhà kịp thời.

Phường khóm đă cho một tiểu đội thanh niên nam nữ vào nhà Mẹ tôi và trú đóng ngay trong nhà 10 ngày đêm để đào bới, cậy vách, đào sân, xâm xoi mọi nơi chủ yếu t́m tiền và ṿng vàng để tịch thu.
Mỗi khi các em gái tôi đi chợ th́ chúng cũng cho người đi theo suốt từ nhà ra chợ và từ chợ về nhà, sợ tẩu tán tài sản.

Cuối cùng chán nản chúng cũng bỏ cuộc và rút quân bởi bọn chúng không lấy được ǵ v́ c̣n mấy lạng vàng th́ Mẹ tôi để ngay trước mắt bọn chúng trong phần giẻ lót của cái giỏ nan bọc cái ấm tích nụ vối mà Mẹ tôi vẫn uống hàng ngày mà bọn chúng không biết.

Ngoài việc phải căng thẳng đầu óc đối phó với bọn phường khóm ngày đêm ŕnh rập để hăm hai, Mẹ tôi c̣n thường xuyên liên lạc với gia đ́nh vợ con anh em chúng tôi để giúp đỡ, nhờ đó mà gia đ́nh tôi trong những năm tháng tôi trong tù, cũng không đến nỗi cơ cực như nhiều gia đ́nh khác.

Mỗi khi các cháu thiếu thốn ǵ th́ lại chạy ra bà Nội ở Trương Minh Giảng, cho nên tuy các cháu sống cạnh bên Ngoại trong Phú Lâm nhưng lại gắn bó nhiều với bên Nội và các cô chú trong những năm tháng đầy khó khăn đó.

Đến khi mà gia đ́nh được phép vào thăm nuôi anh em chúng tôi trong trại giam ở miền Bắc th́ Mẹ tôi là người tổng chi huy việc mua bán, sắp xếp các thùng quà hay giỏ hàng, xin giấy phép tại địa phương, mua vé xe lửa ra Hà Nội, v.v. và giao cho các em tôi mỗi đứa một việc.

Trong khi chuẩn bị các thứ gửi cho hai anh em tôi th́ ở nhà Mẹ và các em tôi lại luôn dành dụm tiết kiệm mọi thứ để ưu tiên cho hai anh em tôi trong tù.

Chuyến đầu tiên ra Bắc th́ Mẹ và cô em gái tôi là người đi thăm hai anh em tôi trước tiên để ḍ xét t́nh h́nh ra sao rồi những chuyến sau th́ Mẹ tôi mới chuẩn bị đầy đủ cho hai nàng dâu ra thăm chồng.

Sự chu đáo của Mẹ và các em tôi trong suốt mười bốn năm trời ṛng ră gửi quà và đi thăm nuôi từ Bắc rồi vào Nam, cộng với sự trợ giúp từ Mỹ gửi hàng về của vợ chồng anh Ba và vợ chồng cô Bẩy em gái tôi, đă giúp cho hai anh em tôi phục hồi được sức khỏe và thêm sức chịu đựng những năm sau này trong trại giam.

Anh cả tôi khi đang bị giam trên Hoàng Liên Sơn năm một chín bẩy chín đang trong t́nh trạng kiệt sức, đă nói rằng nếu mà không nhận được mười gói bưu kiện một kư lô gồm thuốc men, quần áo ấm và thực phẩm khô mà Mẹ tôi gửi ra ngay sau khi nhận được thư của anh gửi về, th́ anh đă không c̣n trên cơi đời này rồi.

Lúc đó họ chỉ cho nhận mỗi người một bưu phẩm một kư lô mà thôi nhưng Mẹ tôi đă t́m ra đượcmột người quen làm trong Bưu Điện Sàig̣n và nhờ đó mà em gái tôi đă gửi đi trót lọt mười gói mỗi gói đúng một kư nhưng trong mười ngày khác nhau.

Đó quả là một sáng kiến độc đáo mà tôi phục Mẹ tôi sát đất v́ nếu gửi một gói 10 kí lô hay gửi 10 gói mỗi gói 1 kí cùng một lúc th́ không những anh tôi không nhận được gói nào cả v́ gói quà vi phạm quy định của trại giam mà c̣n có thể bị làm kiểm điểm.

Thế nhưng gửi làm nhiều lần khác nhau th́ ở trại họ không để ư và anh tôi từ từ nhận được đủ cả mười gói bưu phẩm trước con mắt thán phục của các bạn tù.

Nhiều lúc nghĩ lại tôi nhận ra một điều là h́nh như có bàn tay an bài trước của Trời Phật cho người nào ra đi, cho người nào ở lại, người nào vào trong tù, khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản, để bốn năm sau khi gia đ́nh đă liên lạc được với thân nhân ở hải ngoại th́ cũng là lúc mà trại giam cho phép gia đ́nh gửi quà vào cho tù nhân.

Nhờ thế mà nguồn tiếp tế không những từ gia đ́nh ở miền Nam mà c̣n từ nhiều nước trên thế giới gửi về Sàig̣n nữa và nguồn hàng ấy và cả những thư từ cũng được chuyển vào trại giam đến những người tù.

Tôi nhớ lần đầu tiên nằm trong buồng giam, cầm trong tay lá thư của anh Ba tôi gửi từ bên Mỹ nằm trong thùng quà gửi vào, tôi không khỏi xao xuyến và ngậm ngùi trong ḷng.

Bức thư có đoạn viết mà lúc đó tôi chưa lư giải được như sau: "Tôi không hiểu tại sao và không thể giải thích được tại sao tôi và chú lúc nhỏ ḿnh rất gần gũi và chơi thân với nhau và cùng một cha một mẹ, cùng đi học một trường, mà lớn lên bây giờ hai hoàn cảnh thật khác xa nhau".

"Tôi bên này th́ đầy đủ trong một cuộc sống tạm gọi là sung túc và hạnh phúc có vợ con đoàn tụ trong khi chú th́ gia đ́nh ly tán và đang trong hoàn cảnh thật gian nan và đầy thử thách?".

Sau này khi tôi gập được Thầy Tâm và được đọc cuốn "Đức Phật và Phật Pháp" th́ tôi từ từ hiểu rằng đó là do Nghiệp lực.

Năm 1989, sau mười một năm bảo lănh th́ Mẹ và hai em út tôi được anh Ba tôi bảo lănh sang Hoa Kỳ và định cư tại miền Nam tiểu bang California từ đó đến nay.

Năm 1991 th́ vợ chồng cô em gái kế tôi cũng được ông anh này bảo lănh qua và một năm sau th́ gia đ́nh cô em kế nữa cũng rời Sàig̣n để qua Mỹ trong chương tŕnh ODP do anh tôi bảo lănh.

Thấm thoát nh́n lại th́ đă hơn hai chục năm kể từ ngày Mẹ tôi đặt chân lên vùng đất Tự Do ra khỏi ṿng ḱm kẹp và kiểm soát của chế độ Cộng Sản.

Mẹ và các em tôi thỉnh thoảng vẫn nhắc lại những ngày gian truân c̣n ở trong nước bị địa phương làm khó dễ v́ thế mà Mẹ tôi mới mắc phải bệnh cao huyết áp và bàn chân với vết sẹo vẫn c̣n đau khi trở trời v́ vấp trên toa xe lửa trong chuyến ra thăm tôi ngoài Bắc lần đầu tiên, và nhắc cả những khó khăn vất vả chuẩn bị quà cáp thuốc men quần áo đi thăm nuôi hai anh em tôi trong tù những ngày ấy.

Bây giờ Mẹ tôi đă già, sức đă suy yếu nhưng Mẹ tôi vẫn luôn luôn hănh diện là cả cuộc đời ḿnh đă hy sinh hết cho chồng, cho các con và không bao giờ đầu hàng và chấp nhận bọn Cộng Sản tại địa phương dù là chúng hăm dọa và áp bức gia đ́nh dưới mọi h́nh thức trong những năm đầu khi chúng chiếm được miền Nam.

Mẹ tôi đôi khi nh́n con cháu và nói :

" Mẹ sẽ không bao giờ về VN khi mà bọn Cộng Sản c̣n ngự trị dù là Mẹ rất nhớ quê hương ḿnh, nhớ miền quê Thanh Hóa của bên ngoại, nhớ căn nhà to như một dinh thự ở Hải Pḥng, nhớ con đường Trương Minh Giảng đầy kỷ niệm và miền Nam hiền ḥa, nhưng Mẹ nhất định không về."

"Chẳng hiểu sao bọn Cộng Sản chúng nó ác độc như vậy mà Ông Trời cho chúng nó sống lâu và quá sung sướng như thế?"

"Trên đời này có những người đă hăm hại Ba Mẹ để lấy tiền nhưng Mẹ đă tha thứ cho họ, chỉ riêng bọn Cộng Sản là Mẹ không bao giờ tha thứ cho các tội ác tầy trời của bọn chúng”.

Viết để riêng tặng Mẹ hiền - Cali mùa nắng ấm năm Canh Dần

Sức Người Trong Ṿng Xoay Định mệnh

Phần cuối của thiên hồi kư này là một chương đặc biệt mà tác giả ghi lại để kính dâng lên hương linh của tất cả các quân dân cán chính của VNCH đă vị quốc vong thân và dâng lên hương linh của tất cả các đồng bào tử nạn trong cuộc chiến tranh trước năm 1975 và sau khi Sàig̣n sụp đổ.)

Khi xâm chiếm xong miền Nam và nhuộm đỏ toàn bộ đất nước, và cái ngày mà Sàig̣n sụp đổ th́ nhà cầm quyền Bắc Việt đă hoạch định sẵn một kế hoạch khổng lồ và âm mưu thâm hiểm nhằm diệt trừ hết những mầm mống của chế độ cũ VNCH trên con đường đưa miền Nam vào hẳn trong quỹ đạo của chế độ xă hội chủ nghĩa.

Một mặt họ tập trung "cải tạo" hàng triệu viên chức sĩ quan chế độ cũ theo chế độ "học tập 10 ngày" hay "học tập 1 tháng" trong khi hàng triệu người khác phải theo học một khóa ngắn hạn ba ngày tại địa phương.

Mặt khác họ "cải tạo" lại xă hội bằng cách xua đuổi nhân dân trong các thành phố, nhất là tại Sàig̣n ra khỏi nơi đang cư trú để đi vùng "kinh tế mới" mà thực tế là những vùng hoang dă chưa khai phá hay nơi rừng thiêng nước độc vắng bóng người, để chiếm đoạt nhà cửa và tài sản của người dân trong mục tiêu củng cố thế lực và triệt tiêu các lực lượng "thù địch".

Mấy năm sau th́ họ đổi tiền và mỗi gia đ́nh chỉ được đổi tối đa lúc ban đầu là khoảng 200 đồng mà thôi, nếu có nhiều tiền hơn th́ nó sẽ trở thành tờ giấy trắng vô giá trị. Mục đích của đổi tiền là nhằm "bần cùng hóa" nhân dân để cho dân chúng trong miền Nam vốn giầu có hơn miền Bắc sẽ phải trắng tay và nghèo đói như nhân dân ngoài Bắc để có thể dễ bề cai trị hơn.

Một Định Mệnh cay nghiệt vừa phủ xuống miền Nam từ thành phố về đến ruộng vườn nông thôn sau tháng Tư năm một chín bẩy lăm. Cả miền Nam bị đắm ch́m trong đau thương sau những chính sách và biện pháp trục xuất dân đi kinh tế mới, rồi đổi tiền và đánh tư sản của cái chế độ mới tự xưng là chính quyền của nhân dân.

Mọi người dân lành chất phác của một miền Nam hiền ḥa phút chốc rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi thương, thẩy đều ngơ ngác bởi từ ngàn xưa đến nay chưa từng xẩy ra trên đất nước và quê hương này bao giờ - chính người Việt đang tiêu diệt người Việt v́ ư thức hệ Tư Bản đă bị thay thế bằng thể chế Cộng Sản.

Những con người của chủ nghĩa Vô Sản đang giáng những đ̣n chí tử vào chính nhân dân họ và reo rắc những nỗi kinh hoàng khắp nơi để làm tê liệt ư chí đối kháng nếu có c̣n rải rác trong xă hội.

Trong khi đó th́ trại giam mọc lên khắp ba miền đất nước để giam giữ, trả thù và đầy đọa những người trước kia đă từng chiến đấu chống lại cuộc xâm lăng của miền Bắc vào miền Nam, và cũng để cô lập các viên chức sĩ quan chế độ cũ khỏi gia đ́nh và ra khỏi xă hội.

Cái chế độ "khoan hồng nhân đạo" và "học tập cải tạo" thực chất chỉ là một nhà tù tập trung vô nhân đạo nhất trên thế giới nhằm giết dần ṃn những tù nhân chính trị này từng ngày, từng tháng và từng năm với một cuộc sống tù tội, xúc phạm nhân phẩm con người, lao động khổ sai hàng ngày ngoài nắng mưa của mùa Hè hay sương gió giá lạnh của mùa Đông mà đói khát, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu thuốc men, và phải sinh sống trong những điều kiện vệ sinh hết sức tồi tệ của các trại giam.

Rồi trong các mùa viêm nhiệt tại miền Bắc th́ các tù nhân phải hứng chịu các dịch bệnh tiêu chảy và kiết lỵ do vấn đề thời khí quá oi bức, buồng giam chật ních tù nhân, cộng với việc nấu ăn trong nhà bếp không vệ sinh và bảo quản không tốt.

Những dịch bệnh nhất là kiết lỵ tại nhiều trại đă cướp đi không biết bao nhiêu sinh mạng của tù nhân chính trị với lư do đơn giản là không có thuốc điều trị. Kiết lỵ là một bệnh rất đễ chữa trị nếu có thuốc trụ sinh v́ là bệnh nhiễm trùng đường ruột vậy mà nhiều người đă chết v́ nó một cách dễ dàng và oan uổng. Thực tế mà nói th́ chính ngoài dân chúng cũng c̣n không có thuốc men th́ làm sao mà trong tù có thể có được.

Bởi vậy nếu làm tù nhân trong các nước tiên tiến th́ c̣n có thể giữ ǵn được sức khỏe và c̣n có cơ hội sống sót mà trở về chứ sống trong một xă hội như miền Nam sau ngày Sàig̣n sụp đổ th́ cũng đă khó mà tồn tại rồi, đừng nói ǵ là trong bốn bức tường tập trung của trại giam XHCN.

Những đợt dịch bệnh ấy như những làm mây đen bao phủ các trại giam và quật ngă không biết bao nhiêu tù nhân. Nhưng trong những trường hợp bị căn bệnh quái ác này có một trường hợp thật lạ lùng và đối với tôi lúc đó mang tính cách huyền bí là anh Luân, Đại Tá chỉ huy trưởng đơn vị 101.

Khi đó anh Luân đang bị biệt giam tại trại Hà Tây, tỉnh Hà Sơn b́nh, th́ anh bị kiết lỵ, trại cũng chỉ cấp cho Xuyên Tâm Liên và anh dần dần kiệt sức chỉ c̣n nằm chờ chết v́ không ăn uống được ǵ dù là cháo loảng.

Thế nhưng, có một cái ǵ thôi thúc anh cố gắng ngồi dậy và dựa vào bức tường trong pḥng biệt giam rồi anh chuyên tâm niệm danh hiệu Đức Phật Bà Quán Thế Âm Cứu Khổ Cứu Nạn. Khi nào quá mệt th́ anh nằm xuống nghỉ một chút rồi lại gượng ngồi dậy để chuyên chú niệm danh hiệu Đức Phật Bà trong mấy ngày đêm liên tục.

Trong thâm tâm anh cũng chỉ cầu mong Đức Phật Bà nghe được th́ sẽ được Ngài thương xót mà đem anh đi khi anh nằm xuống mà thôi, nhưng như là một phép lạ, anh cảm thấy trong người từ từ bớt đau nhói trong bụng, kiết lỵ cầm dần dần, anh từ từ húp được ít cháo và sức khỏe dần dà hồi phục lại.

Anh đă khỏi bệnh truyền nhiễm này mà không có một viên thuốc trụ sinh nào trước con mắt cực kỳ kinh ngạc của bọn cai tù v́ chúng đă bảo bên tù h́nh sự chuẩn bị làm sẵn một cái quan tài bằng gỗ mộc rẻ tiền để chờ khiêng anh lên ngọn đồi nghĩa trang của trại.

Sau này khi ra khỏi khu biệt giam, anh thực hành quán Thiền với thầy Tông và các anh Trăi, đại tá không quân và anh Đồng Tuy, một người thầy về khoa Tử Vi, và dù có gia đ́nh thăm nuôi sau đó nhưng anh vẫn giữ ăn chay trường. Nh́n anh tóc bạc phơ nhưng lúc nào nói chuyện với tôi, anh cũng nở nụ cười hiền hậu như một tiên ông, tôi cũng học thêm được một nhân cách đáng quí của một con người mà tôi kính phục.

Trước kia khi c̣n là chỉ huy trưởng của cả một đơn vị quân báo oai hùng, anh vẫn luôn được sự kính trọng của thuộc cấp, bây giờ dù thân tù tội anh vẫn hiên ngang không đầu hàng kẻ địch dù đang sa cơ thất thế nên cuối cùng chúng cũng phải cho anh ra khỏi khu biệt giam. Tôi tin rằng Trời Phật đă ngó xuống và cứu anh trong giây phút thập tử nhất sinh đó bởi anh là một anh hùng.

Một thời gian sau anh được gọi ra thăm nuôi và khi vào trại, anh gọi tôi ra ngồi với anh trên băng đá trong sân th́ anh tâm sự với tôi là chính Ba của anh vào thăm nhưng ông ta là người của phía bên kia, không phải người Quốc Gia VNCH ḿnh cho nên anh đă dứt khoát từ chối lời đề nghị bảo lănh của ông để anh có thể ra tù sớm. Tôi lại càng thêm yêu mến anh hơn v́ anh đă đặt lư tưởng và chính nghĩa Quốc Gia VNCH của ḿnh lên trên t́nh Phụ Tử dù là người cha đó biệt tích đă lâu nay bất ngờ xuất hiện.

Muốn trị các bệnh tật th́ phải có thuốc nhưng thuốc men cung cấp cho các tù nhân không có ǵ ngoài Xuyên Tâm Liên, nó giống như một loại thuốc tễ cao đơn hoàn tán h́nh viên tṛn nhỏ, không ai biết nó được bào chế ra sao, gồm những hợp chất ǵ, và không biết nó dùng để trị bệnh ǵ nữa.

Nhức đầu, cảm, sốt cao độ cũng cho Xuyên Tâm Liên, kiết lỵ cũng Xuyên Tâm Liên, đao bao tử cũng nó luôn, có anh khai bị ói mửa cũng Xuyên Tâm Liên. Riết rồi chẳng ai muốn đi khai bệnh xin thuốc làm ǵ v́ đă biết loại thuốc nào mà bệnh xá trại sẽ cung cấp.

Chính v́ thế mà trong ba năm đầu tiên chúng tôi bị chuyển ra Bắc, sức người chỉ có hạn trong những điều kiện khắc nghiệt của thời tiết và chế độ ăn uống thiếu thốn nên người nào cũng ốm o gầy ṃn dần một cách thảm thương như những bộ xương khô c̣n cử động bởi v́ chúng tôi cũng giống như một sợi giây đă bị kéo ra quá căng rồi. Mỗi lần dịch bệnh tái phát th́ có khi đến hàng nửa đội lao động bị bệnh phải nằm tại buồng hay khiêng xuống bệnh xá.

Vào năm thứ hai ở ngoài Bắc th́ một đợt dịch Cúm lan tràn vào đến trong trại giam và hầu như tất cả mọi anh em chúng tôi đều bị nó quật ngă v́ lúc ấy sức đă quá yếu rồi. Ngoài đó dân chúng cũng rất là sợ cái căn bệnh "ông Cúm bà co" này nhưng v́ thiếu ư thức và thiếu kiến thức về bệnh dịch nên một khi nó xẩy ra th́ bùng phát rất là nhanh.

Bệnh xá trại không c̣n chỗ trống và bệnh nhân phải nằm ngay tại buồng giam của ḿnh và không ǵ ngán ngẩm hơn là các cán bô y tá của họ vào để chẩn bệnh xong rồi cũng phát cho mỗi người vài chục viên Xuyên Tâm Liên rồi quay gót ra đi.

Cuối cùng khi thấy quá nhiều người bị Cúm th́ họ t́m cách trấn an người tù bằng h́nh thức cho các bộ phận y tế của trại vào từng buồng giam để nhỏ nước tỏi vào mũi.

Anh Lạt bạn thân của tôi, là một Thiếu Tá Cảnh Sát đặc Biệt, khi c̣n ở trại giam Long Thành, miền Nam, năm đầu tiên, dáng người khỏe mạnh rắn chắc như lực sỹ, bây giờ như que củi và nói với tôi rất bi quan rằng có lẽ ḿnh sẽ không qua khỏi được cơn bệnh này.

Lúc đó tôi cũng chẳng khá ǵ hơn và chỉ biết an ủi anh rằng hy vọng đợt Cúm này sẽ chóng qua, nhưng không ngờ rằng ngày hôm sau th́ chính tôi lại bị sốt cao độ và cơ thể đau nhừ khắp người như bị tra tấn rồi mê man không c̣n biết ǵ nữa.

Đến khi tỉnh dậy th́ thấy ḿnh nằm trong bệnh xá trại và các giuờng đầy nhóc tù nhân. Chỉ có hai ngày bị "ông thần" Cúm này tấn công, tôi trở nên hốc hác đến độ các bạn tù xuống thăm không nhận ra tôi nữa dù là họ đang đứng ngay bên giường của tôi và hỏi thăm xem tôi đang nằm ở đâu.

Thế rồi tôi cũng chẳng hiểu sao, từ từ tôi lấy lại sức dù rằng bệnh xá cũng chẳng có ǵ "bồi dưỡng" ngoài ít cháo loăng mỗi ngày hai bữa, và vừa đứng dậy được th́ chúng tôi được lệnh phải ra lao động ngay v́ đợt Cúm đă làm cho kế hoạch sản xuất của trại bị chậm lại.

Đội của tôi lúc đó được phân công nhổ cỏ trong những đám ruộng c̣n ngập nước mà tay quản giáo nói là trại đă "ưu ái" cho lao động nhẹ.

Nhưng không may cho tôi là người chưa khỏe hẳn mà chân ngâm trong nước suốt ngày nên đêm hôm đó tôi lại lên cơn sốt mê man lần nữa.

Người lúc nóng ran lúc lạnh run như lên cơn sốt rét đến độ anh Luận, một Trung Úy trẻ tuổi nằm bên cạnh, phải lấy hai tấm chăn đắp cho mà hai hàm răng tôi vẫn đánh lập cập. Hôm sau tôi và cùng với ba anh nữa được cho nghỉ tại buồng ăn cháo một ngày.

Tôi tin vào Định Mệnh và có lúc cũng nói với anh Lạt lúc hai đứa đang bệnh một câu có vẻ như vô nghĩa nhưng rất thực tế và khôi hài rằng nếu ḿnh không chết th́…ḿnh sẽ sống và cả hai thằng đều mỉm cười.

Sau một năm tại trại Long Thành, miền Nam, và ba năm ngoài Bắc th́ h́nh như Định Mệnh đă mỉm cười với chúng tôi khi mà gia đ́nh trong Nam nhận được thư chúng tôi gửi liên quan đến vấn đề thăm nuôi và các thứ thật cần thiết như nhu yếu phẩm, thuốc men và quần áo ấm.

Tôi tin rằng Ơn Trên và Trời Phật đă nhủ ḷng thương xót những tù nhân chính trị này mà xui khiến cho đám vô thần đó mở cửa cho gia đ́nh chúng tôi được ra thăm nom và tiếp tế kịp thời. Nếu trễ một vài năm nữa th́ có lẽ nhiều người trong đó có tôi sẽ chẳng bao giờ c̣n nh́n thấy ánh nắng Mặt Trời nữa.
Đến khi Mẹ và em gái tôi đến thăm lần đầu tiên, nh́n những loại thuốc tây hiếm quí mà anh thứ Hai của tôi là Quân y nên đă gửi ra rất đầy đủ từ thuốc trị kiết lỵ tiêu chẩy, cảm cúm Contac, B-complex, Aspirin cho đến cả kẹo ngậm ho th́ ḷng tôi rất vui v́ nghĩ rằng ḿnh sẽ có dịp dùng nó để trị bệnh cho ḿnh và cho các bạn bè của ḿnh nữa.

Con người ta sau nhiều năm bị tù đầy giam giữ cũng ví như một cây khô hạn mà sự sống chỉ c̣n lung linh như ánh nến trước cơn gió.

Cũng bởi vậy mà khi có được các loại thuốc men trong tay th́ tác dụng kỳ diệu của các viên thuốc này giống y như thần dược trong các truyện cổ tích mà chúng ta đọc khi c̣n bé.

Một hôm tôi thấy anh bạn nằm cạnh bên là anh Bạch, Trung Úy trong số mấy trăm anh em từ trại Thạnh Mỹ Tây trong Nam theo tầu Sông Hương chuyển ra Bắc và về cùng trại với tôi đang ghè đầu vào tường.

Tôi lớn hơn Bạch hai tuổi nên coi như anh em nên lấy làm lạ bèn hỏi anh:

- "Ê! Cậu làm sao vậy?"

- "Nhức răng quá chịu không nổi phải ghè đầu vào tường cho bớt đau."

Tôi suy nghĩ măi v́ thông thường th́ nếu ở ngoài xă hội th́ chỉ có đi Nha sĩ mới chữa được thôi nhưng trong hoàn cảnh này đời nào họ chịu chở tù nhân ra thành phố để...chỉ chữa răng? Đến bệnh trầm kha nhiều lúc họ cũng vất xuống bệnh xá trại và chờ khi nào có chỉ thị mới đưa đi chữa bệnh ngoài tỉnh được nữa là.

Tôi sực nhớ trong tờ giấy anh Hai tôi chỉ dẫn là thuốc Aspirin chữa được các loại đau nhức nhưng không uống lúc bụng đói. Tôi bèn tự đóng vai bác sĩ bất đắc dĩ và lục trong ba lô ra ba viên Aspirin và đưa cho Bạch mà trong ḷng cũng cầu cho bạn ḿnh qua được cơn đau nhức này:

-"Anh ḿnh bảo rằng Aspirin chữa được đó, bây giờ cậu ăn ít bánh bột hấp - là phần ăn mỗi ngày của chúng tôi trong khẩu phần 15 kí chất bột cho người lao động - xong rồi uống một viên rồi hai tiếng nữa uống thêm viên nữa xem sao.

Tôi không dám cho uống cùng một dose 2 viên v́ sợ quá mạnh cho bao tử.

Bạch nghe lời tôi uống hai viên Aspirin trong hai tiếng đồng hồ và đúng là phước chủ may thầy không hiểu sao anh ta hết đau răng luôn từ đó.

Bạch chưa có gia đ́nh thăm nuôi cho nên tôi bảo anh giữ lại viên Aspirin kia pḥng hờ nếu nó có hành đau nhức lại th́ uống khi không có tôi bên cạnh. Từ đó chúng tôi thành bạn thân ngoài t́nh anh em làng giềng nằm cạnh nhau. Bạch là một người rất dễ thương, tính t́nh nhỏ nhẹ như con gái và thường cười để lộ cái...răng vàng sáng chói.

Năm sau th́ anh được tha về và có ghé thăm Mẹ và các em tôi tại Sàig̣n kể những chuyện vui buồn khi tụi tôi sống chung trong traị những năm tháng tù đầy cho Mẹ tôi nghe trước khi anh về tỉnh.

Một trường hợp nữa về sự diệu kỳ của thuốc gia đ́nh gửi vào là một ngày khi tôi đang nằm ở từng trên th́ thấy có ai giựt chân ḿnh, hóa ra là anh Nhơn, Đại Úy pilot trực thăng.

Tôi cũng thường là một khán giả hay nghe Nhơn kể chuyện về không quân ngày trước với những chiến công oai hùng của KQ VNCH.

Một trong những truyện làm tôi vô cùng xúc động là về người anh hùng phi công trẻ tuổi nhất của KQVN là Thiếu Tá Nguyễn Dzu, và về sự tàn bạo vô nhân tính như ác quỷ của những người cộng Sản.

Khi anh được vinh thăng Thiếu Tá th́ cấp bậc đó đă bị hoăn lại một thời gian v́ anh quá trẻ để gắn lon Thiếu Tá. Anh lập không biết bao nhiêu là chiến công kể cả diệt hàng chục xe tăng T-54 của Cộng Sản, phi đội của anh đă chặn đứng cả một trung đoàn địch không vượt qua được con sông Thạch Hăn.

Anh luôn t́nh nguyện lái thay các bạn ḿnh về phép nhưng không ngờ chuyến bay của anh thay cho một người bạn bên bờ sông Thạch Hăn trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm ấy lại là chuyến bay cuối cùng của Định Mệnh oan nghiệt.

Khi phi đội anh hoàn tất nhiệm vụ và lạng cánh bay về th́ anh nh́n thấy một cụm pháo pḥng không của địch, cụm pháo này đă bắn cháy một khu trục trong trận chiến hôm đó và anh quyết định ṿng trở lại một ḿnh bất chấp các bạn trong phi đội can ngăn và khi anh bắn được trái rocket trúng mục tiêu cũng là lúc mà máy bay anh trúng đạn pḥng không bốc cháy và anh bị trúng thương nơi chân.

Anh phải nhẩy dù khẩn cấp và không may cho anh là tuy cố gắng để lái chiếc dù về phía bên này bờ sông nhưng gió lại thổi nghịch chiều và anh đáp xuống phía bên kia bờ sông nơi mà địch quân đang kiểm soát, một chân trên bờ một chân dưới nước.

Các bạn anh đều quay lại để tiếp cứu và ngăn được ba lần toán VC và du kích địa phương từ những tàng cây trong rừng nhào ra để bắt anh nhưng đến lần thứ thư th́ không kịp nữa v́ chúng đă lôi được anh vào trong rừng. Viên Đại Tá cố vấn Mỹ của Không Đoàn khi nghe tin anh vừa bị bắt th́ lên ngay tần số và phát thanh liên tục ra ngoài Bắc và yêu cầu họ đối xử tử tế với Thiếu Tá Nguyễn Dzu, nhưng tin tức về anh th́ vẫn biệt tăm.

Năm 1973, khi có trao đổi tù binh giữa hai miền Nam Bắc th́ có một Hạ Sĩ Quan của chúng ta được trao trả có khai rằng anh đă phải mục kích cảnh bọn VC và quân Bắc Việt lập ṭa án nhân dân trong rừng để xử Thiếu Tá Nguyễn Dzu. Thiếu Tá Nguyễn Dzu vẫn kiêu hùng không khuất phục nên chúng tức quá ra lệnh tra tấn anh, nhưng anh vẫn ngửng cao đầu, rồi chúng điên cuồng lên và ra lệnh hành h́nh anh bằng tùng xẻo cho đến khi anh trút hơi thở cuối cùng.

Tùng xẻo là cứ đánh một tiến trống th́ xẻo một miếng thịt cho đến khi tội nhân chết th́ thôi, một thứ hành h́nh dă man như thời Trung Cổ mà chỉ có VC c̣n áp dụng trong thế kỷ thứ 20 này.

Anh Nhơn cũng kể rằng trong các cơ khí sửa máy bay có một anh Hạ Sĩ Quan rất giỏi về khoa Tướng số có xem cho Thiếu Tá Nguyễn Dzu rằng anh có đại nạn về sông biển và nên cho anh ta đi theo trong một phi vụ trực thăng nào đó ra ngoài biển với Thiếu Tá Dzu th́ anh hy vọng có thể cứu mạng được.
Thế rồi chiến sự lan rộng và quá căng thẳng những tháng ngày năm 1972 của Mùa Hè Đỏ Lửa và Thiếu Tá Dzu phải bay liên tục để yểm trợ quân bạn, không có một giây phút nào nghỉ ngơi và từ từ mọi việc dần rơi vào quên lăng nên người Hạ Sĩ Quan đó không có dịp "cải số" lại cho người pilot anh hùng tên Dzu. Âu cũng là Định Mệnh.

Ḍng tư tưởng của tôi chợt bị ngắt quăng bởi câu hỏi của anh Nhơn và mấy cái lay chân của anh:
- "Nghe nói toi có thuốc trị tiêu chẩy phải không, để cho moi vài viên?

- "Xin lỗi nẫy giờ ḿnh đang nghĩ về câu chuyện khác nhưng mà ông biết là tôi có bao giờ bán thuốc tây đâu chỉ dùng nó để chữa bệnh thôi, nhưng ai bị vậy?"

- "Ông Bẩy Bớp nằm dưới kia ḱa, hai ngày nay có ăn uống tí cháo nào đâu?"

- "Ông đưa cho ông ấy uống ngay một viên Imodium này, đây là loại tốt nhất mới có và nói ông ấy ráng húp ít cháo đi và tối uống thêm viên nữa, khỏi nói là thuốc của tôi nghe.

Thuốc Imodium khi ấy trị liệu như thần và sau khi uống hai viên xong th́ ông Bẩy Bớp đi lại được và không c̣n bị đi cầu nữa. Bẩy Bớp là biệt danh mà không biêt anh em nào đă đặt cho ông Tân là một người tù trong thành phần Đảng Phái cũng bị giam giữ.

Trước cửa buồng chúng tôi là một cái sân nhỏ và một bể chứa nước bơm vào từ nhánh sông Hồng cạnh con đê.

Buổi chiều trước khi kẻng điểm danh vào buồng th́ chúng tôi hay đi bộ trong sân. Một hôm sau khi họ "biên chế" lại các buồng th́ có một số anh chuyển qua buồng tôi và tôi chú ư thấy một anh đang cố chống gậy tập đi đi lại lại trong sân. Tôi bước lại hỏi thăm th́ hóa ra là anh biết tôi do bạn bè nói v́ tôi có thuốc tây nhưng anh rất ngại nên không tiện mở lời trước, tên anh là Chính, Thiếu Tá quận trưởng, anh nói:

- "Bà xă moi viết thư sắp ra thăm nên mấy hôm nay moi cố tập đi lại v́ hai chân suy dinh dưỡng nên đă rất yếu, moi không muốn bà xă ra gập moi trong t́nh cảnh chống gậy như thế này th́ tội nghiệp cho bà ấy lắm nhưng không biết phải làm sao. Nghe nói toi có thuốc bổ nên không biết nó có giúp ǵ được không?"

Tôi lại t́m trong các loại thuốc bổ ông anh gửi vào và đọc kỹ lại tờ hướng dẫn. Cuối cùng buổi tối hôm đó tôi đến chỗ anh nằm và đưa tặng anh một vỉ B-Complex của Pháp v́ trong đó nó có B1, B-6 và B-12 hy vọng có thể làm cho hai chân anh mạnh hơn.

Sau khi anh uống hết vỉ B-Complex đó, tôi rất vui mừng v́ anh đă bỏ được chiếc gậy và lững thững đi được từng bước một. Tôi bèn biếu anh một vỉ nữa và quả là như một phép lạ, hai chân anh trở nên vững hơn và anh đi lại được gần như thường.

Hôm mà bà xă anh đến thăm th́ cũng đúng lúc anh bỏ được cây gậy, mặc vào người bộ áo Treillis mà trại phát một cách oai hùng như xưa mà ra gập vợ.

Khi anh trở vào trại sau lần thăm nuôi đó th́ anh rất là vui và tinh thần phấn chấn hẳn lên và nắm tay tôi:

- "Cám ơn toi nhiều nhe, nếu không có thuốc của toi th́ chắc bà xă ḿnh khóc hết nước mắt rồi, v́ moi không muốn thấy vợ ḿnh khóc trước mặt bọn chúng, toi hiểu không?". Tôi gật đầu nói:

- "Anh may mắn lắm đó v́ tôi chỉ có độc nhất hai vỉ B-Complex gia đ́nh gửi cho chứ chẳng có thuốc bổ nào khác cả."

Tối hôm ấy anh mời tôi và một số bạn đến chỗ anh nằm để thưởng thức trà và cà phê ngon gia đ́nh mới đem vào, và từ đó tôi trở thành một người bạn thân mà anh thích tâm sự.

Thời gian khi chúng tôi chuyển trại vào Hàm Tân, trong Nam th́ lúc đó mới có loại trụ sinh Amoxycilin thay thế cho loại Ampicillin đă lỗi thời v́ Amox có thể uống bất cứ lúc nào không cần bụng đói như Ampi. Có lần chính tôi bị viêm họng, cổ họng vừa đau rát lại mẩn đỏ nên ăn uống không được, may có anh bạn nằm đối diện là Lê Văn Hoan, Thiếu Tá Cảnh Sát Đặc Biệt, đưa cho tôi có một viên mà uống xong th́ ngày mai thấy hết ngay bịnh. Quả là thần sầu thuốc men trong tù.

Luận, anh chàng nằm cạnh tôi trước kia, mà không biết ai đặt tên cho là "Nhái" có lẽ v́ nhỏ con, một lần nói với tôi rằng:

- "Ông mà cho người ta thuốc men th́…ông khỏi phải uống nó chứ có sao đâu".

Sau này khi mà tôi có cơ duyên gập được thầy của tôi là Thầy Tâm th́ thầy cũng bảo tôi rằng trong tù thuốc men rất là quí hiếm, một phần ḿnh uống để chữa bệnh cho ḿnh và một phần ḿnh đem cho anh em là rất có phước. Cái Tâm tốt của ḿnh truyền vào viên thuốc đó sẽ giúp cho viên thuốc bội phần công hiệu.

Chính nhờ vào t́nh thương yêu ruột thịt của gia đ́nh đùm bọc và cưu mang nên tôi cũng như hàng chục ngàn người tù khác đă có được sự tiếp tế liên tục trong suốt bao nhiêu năm trời mà tôi ví như nước Cam Lồ tưới vào các thân cây khô héo. Cũng nhờ vậy mà chúng tôi, người có dư lại giúp đỡ những người thiếu thốn hay người ít có thân nhân đến thăm hay gửi quà, nên đa số chúng tôi sức khỏe dần hồi phục và tinh thần cũng hưng phấn, thêm sức chịu đựng để chờ ngày ra khỏi trại về đoàn tụ với những người thân yêu.

Kể từ đó tôi bắt đầu tin rằng con người ta có số mạng. Số chúng tôi không chết trong tù nên xui khiến cho gia đ́nh đă gửi bưu phẩm và đến thăm nuôi kịp thời.

Trong thời gian ở trại Ba Sao Nam Hà ngoài Bắc, tôi có ở chung trại với anh Nguyễn Phát Lộc, Quyền Đặc Ủy Trưởng của Phủ ĐUTƯTB.

Anh là tác giả của cuốn Tử Vi Hàm Số rất nổi tiếng xuất bản trước năm 1975, không may là anh bị bạo bệnh và được ra ngoài thị xă chữa trị nhưng cũng không thuyên giảm. Anh vẫn thường nói với anh em chúng tôi rằng số anh không chết trong tù.

Một hôm anh có gia đ́nh đến thăm nuôi nhưng anh sức đă quá yếu không đi nổi nên phải cáng trên băng ca đưa anh ra khu thăm nuôi ở ngoài trại khoảng vài trăm thước và ngày hôm sau th́ anh qua đời trong ṿng tay của những người thân ruột thịt của anh.

Anh xem cũng đúng, v́ khi anh mất anh không ở trong ṿng rào của khu trại giam.

Tôi cũng tin vào Định Mệnh An Bài như anh Đồng Tuy đă chỉ dậy cho tôi một phần trong khoa Tử Vi:

"Nhất ẩm, nhất trác giai do tiền định" tức là "Một miếng ăn, một miếng uống là đều có định trước".

 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại