Bút kư của Lê Việt
Năm 2008, ngày 15 tháng 11, tôi trở về Hà Nội vào giữa Mùa Thu. Ước
mơ đầu tiên của tôi là t́m lại những đặc thù của Mùa Thu xứ Bắc, với
gió heo may lăng đăng, với nắng hanh vàng ấm áp và với khí trời âm
u, se lạnh tạo cho ḷng người những t́nh cảm vui buồn thú vị. Nhưng
khi bước ra khỏi máy bay tại phi trường Nội Bài, tôi đă cảm nhận
ngay những vọng tưởng về Mùa Thu xứ Bắc trước khi trở về thăm quê,
chỉ c̣n là những ảo tưởng. Một luồng khí nóng ập xuống giấc mơ của
tôi. Vội cởi chiếc áo da mang trên ḿnh, rồi ngước nh́n nền trời vẩn
đục những cụm mây báo hiệu một cơn mưa sắp đến, tôi rảo bước qua khu
nhận hành lư. Sau khi tŕnh chiếu khán và thẻ thông hành, bước ra
khỏi phi trường, tôi thấy nhấp nhô một đám già trẻ lớn bé chừng vài
chục người, mặt mày hớn hở, trong số có hai bà già đầu bạc, tay cầm
hai bó hồng giơ cao, miệng cười toe toét, rồi trao tặng những bó hoa
ấy cho tôi và một người bạn Mỹ theo tôi về thăm Việt Nam. Một bà cao
và mập nói:
- Chúc mừng anh về thăm nhà.
Chăm chú nh́n hai bà già này, tôi tự nhủ thầm: Họ là ai? Định thần,
tôi nhận ra hai bà già này là hai cô em kế tôi; không phải nhờ diện
mạo, vóc dáng hay h́nh hài mà nhờ linh tính tự nhiên của t́nh ruột
thịt. Đối diện từng người, tôi hỏi:
- Đây là Uyên Trang?
- Dạ! Phải.
- Đây là Uyển Trang?
- Dạ! Đúng.
Trong khi đó, mấy chú em, đứng sau cười rũ rượi, tiến lên phía
trước, nghiêng ngả những cái đầu, tranh nhau soi nh́n mặt tôi, ư
muốn đố tôi, họ là những ai? Trước khi về thăm nhà, tôi gửi ảnh cho
họ để tiện nhận diện khi đón tôi tại phi trường. Nhiều lần, tôi nhắc
họ gửi ảnh của họ cho tôi, nhưng họ cứ lờ đi. Có nghĩa rằng, âm mưu
chọc quê tôi đă được họ bàn thảo từ trước. Có lẽ tôi chỉ cần nêu lên
đây một vài h́nh ảnh để các bạn có thể nh́n ra cái hiện tượng ngỡ
ngàng của tôi, sau trên 50 năm tôi sống xa gia đ́nh như thế nào!
Lê Hải Đức là em út của gia đ́nh gồm tám anh chị em. Ngày tôi dời
nhà ra đi, Hải Đức lên sáu. Tôi không quên được h́nh ảnh Hải tḥ ḷ
mũi, đội nghiêng chiếc mũ nồi đen, chạy quanh cây ổi trong vườn, say
mê t́m quả chín, hơn là để ư đến lời chào từ biệt của người anh cùng
những sa sút của gia đ́nh lúc bấy giờ. Năm nay, Hải Đức đă 60 tuổi,
tóc bạc gần trắng mái đầu. Chú ấy có 5 con gái. Bốn đứa đă có chồng,
mỗi đứa có hai con. Chỉ cần biết như thế, bạn cũng đủ nhận thức được
ḍng thời gian cuốn hút ra sao đối với thân phận con người!
Trên nửa thế kỷ cách biệt, tôi trở lại thăm quê lần này bằng dĩ
văng. Có những người quan niệm “thà mơ giấc mơ của dĩ văng, c̣n hơn
chứng kiến những phũ phàng của hiện tại”. Tuổi tôi đă cao. Tuy tuổi
tác không phải là thước đo ḷng người, nhưng cái nh́n biến đổi theo
thời gian cũng khiến tôi do dự, phân vân. Nhất là cái chế độ nghiệt
ngă đang ngự trị trên quê tôi không đem lại ḷng tin cho những người
bỏ nó ra đi như tôi... Thế rồi, một ngày cuối năm, trước lễ tạ ơn,
như một tiền định, Frank Ford từ Virginia gọi điện thoại cho tôi để
chúc nhau nhân mùa nghỉ lễ. Trong câu chuyện, Frank ngỏ ư muốn trở
lại thăm Việt Nam là nơi ông ta và tôi từng làm việc chung những năm
của thập niên 1960 và c̣n để lại trong nhau những dấu ấn kỷ niệm
tưởng chừng như vẫn c̣n mới. Phải nói rằng, cũng nhờ Frank mà tôi đă
mạnh dạn về thăm Việt Nam. Lư do là sự hiện diện của ông ấy được ví
như tấm lá chắn an toàn cho tôi trước những biến cố khó ai lường
trước, dưới một chế độ đơn thuần dùng chính trị để cai trị. Là công
dân cắc ké của nước Mỹ như tôi, khi đi dưới chiếc dù che của công
dân Mỹ chính gốc như Frank Ford, vẫn an toàn hơn là tấm vải mỏng che
thân của người Mỹ gốc Việt với chiếc thẻ bài công dân được chính
quyền Mỹ ban cho để sống, để làm việc, và để đóng thuế. Tấm thẻ bài
này không được cộng sản công nhận v́ họ có quyền làm luật để không
công nhận cái t́nh trạng nửa vời gọi là xong tịch của người Mỹ gốc
Việt. Song tịch được cộng sản giải thích: Người Việt ở nước ngoài,
mặc dù đă gia nhập quốc tịch để trở thành công dân các nước sở tại,
khi về Việt Nam, nếu chưa xin từ bỏ quốc tịch Việt Nam, vẫn là công
dân Việt Nam và bị luật pháp Việt Nam chi phối. Chỉ cần một sơ ư
nhỏ, một người có thể bị vu cáo tội khủng bố, phản động hay CIA tức
làm gián điệp cho Mỹ, y hệt như thời chiến tranh Việt-Pháp, chỉ cần
mang theo ba mầu biểu tượng của lá cờ Pháp, là bị buộc tội Việt gian
tay sai cho Pháp. Đại sứ Mỹ Mike Marine ca tụng những người đ̣i dân
chủ tại Việt Nam là những anh hùng thật tâm yêu nước, nhưng ông vẫn
khuyên Việt kiều về nước nên giữ ǵn cái miệng, nếu không th́ ṭa
đại sứ Mỹ không có đủ ch́a khóa để mở cửa nhà tù giùm họ. Hiện nay
Việt Nam đang trên ṿng đua thí nghiệm tṛ chơi quốc tế WTO với hạn
định 12 năm, Việt Nam phải theo kịp kinh tế thị trường. Nhưng lấy
cái ǵ bảo đảm trong thời gian ấy, Việt Nam đă hiểu đủ để tôn trọng
luật chơi quốc tế, trong khi t́nh trạng đất nước tụt hậu vẫn đè nặng
lên guồng máy cầm quyền cái mặc cảm tự ti vô cùng nguy hiểm.
Xa nhau lâu ngày, buổi đón tiếp của đại gia đ́nh dành cho tôi hết
sức cảm động. Tuy chẳng nhận ra nhau, nhưng niềm vui hiện lên nét
mặt từng người, kể cả đàn cháu chắt sinh sau đẻ muộn, đă khiến tôi
quên hẳn mệt nhọc sau gần 20 tiếng đồng hồ lắc lư trên máy bay, cùng
những giờ khắc chờ đợi trên đoạn đường dài nửa ṿng trái đất. Hai
chiếc xe riêng của hai con trai con chú Ḥa Đức là em thứ 5 của tôi,
dẫn đầu, theo sau là 2 chiếc xe van đưa cả đoàn người về nhà chú ấy
để cùng hưởng một bữa cơm chiều đă được đàn cháu dâu chuẩn bị chờ
sẵn. Qua 6 giờ, nhà chú Ḥa đông nghẹt những khuôn mặt lạ hoắc, sau
giờ tan sở đến chào tôi. Họ là những con cháu dâu rể nội ngoại do
các cuộc hôn nhân tác thành từ ngày tôi xa nhà. Tôi chỉ biết họ, sau
khi được giới thiệu qua những tương quan chi chít bàng hệ hay trực
hệ, thân thuộc hay thích thuộc. Rất tiếc, tôi không có cái đầu bác
học để nhớ đủ tên tuổi và chi phái từng người. Gọi là buổi cơm
chiều, nhưng đại gia đ́nh đă chuyện tṛ, nhậu nhẹt đến quá nửa đêm.
Tội nghiệp Frank cũng tham dự, nhưng chỉ nh́n ngó quanh quẩn từng
người, chẳng biết họ nói những ǵ! Tôi chỉ thông dịch đại khái v́
tôi bị họ quay hỏi liên miên đủ mọi thứ chuyện từ ngày tôi giă từ
đất Bắc vào Nam, nhất là những năm tháng sống trên đất Mỹ, xen lẫn
những kỷ niệm quá khứ trong những ngày tôi c̣n sống với gia đ́nh
dưới sự nuôi dưỡng của cha mẹ. Giờ phút này đă gây nhớ trong tôi
những t́nh tự mà tôi đă vô t́nh đánh mất từ thời niên thiếu, cho đến
bây giờ mới cảm nhận được những tiếc nuối sâu xa của đời sống gia
đ́nh dưới một mái nhà.
Vào những ngày tôi và Frank cư ngụ tại nhà chú em tôi tại Ô Quan
Chưởng, Hà Nội bị luân phiên cắt nước. Thật là dễ dàng khi đi ăn
tiệm, nhưng tắm rửa là cả một vấn đề nan giải, nhất là đối với Frank
không hề quen lối tắm bằng gáo múc nước. Thế là sau ba ngày sống
trong cảnh Hà Nội thiếu nước, Tôi và Frank đă phải dời khỏi nhà chú
em đến ở khách sạn trên đường Hàng Bạc, nằm giữa khu phố cổ thuộc
trung tâm Hà Nội, cách Hồ Hoàn Kiếm khoảng nửa cây số. Lần đầu tiên
leo lên taxi đến đường Cổ Ngư để thưởng thức món bánh tôm cổ truyền
nổi tiếng của Hà Nội, tôi và Frank giật ḿnh khi nghe tài xế phán số
tiền phải trả là 75,000. Tôi tính nhẩm khoảng 5 Mỹ kim. C̣n Frank
rút trong túi ra cái máy tính, loay hoay được máy trả lời $4,69, là
giá của một đoạn đường dài khoảng 3 dặm, nhưng mất gần một tiếng v́
kẹt xe. Nhiều con đường Hà Nội chỉ rộng khoảng 10 mét, trong khi đủ
mọi loại xe lưu thông, từ xe đạp, xe ba gác, xe gắn máy, xe hơi, xe
vận tải, kể cả khách bộ hành cũng có quyền nghênh ngang đi giữa
đường để xe tránh, chứ không tránh xe. Tại ngă ba, ngă tư, dù có đèn
xanh, đèn đỏ, nhưng đèn nào cũng là không đèn, nếu không có công an
đứng gác. Ngay cả đường dành riêng cho người đi bộ, dù có vạch
trắng, vạch vàng phân định, nhưng các loại xe vẫn băng qua một cách
hồn nhiên. Ai không dám đi th́ đứng ́ ra đấy mà đợi những ḍng xe
triền miên lưu thông không bao giờ dứt. Ngày đầu c̣n rụt dè. Những
ngày sau cũng quen dần. Có một lần tôi suưt bị taxi cán trên đường
dành riêng cho người đi bộ, nếu tôi không kịp dừng bước. Thế mà
người tài xế c̣n sừng sộ, trợn mắt nh́n tôi, có ư trách tôi không
biết ǵ về luật giao thông được những người lái xe tự ư làm ra và
được sở lộ vận mặc nhiên chấp thuận. Trong số những người lái xe gắn
máy, không phải chỉ có người Việt mà có cả người ngoại quốc được dân
địa phương gọi chung là Tây Ba Lô, ám chỉ dân da trắng thường đeo
cái backpack sau lưng, thơ thẩn khắp nơi trên hè phố để hiếu kỳ t́m
hiểu những sinh hoạt của dân Hà Nội vô cùng xa lạ đối với họ. C̣n
người Hà Nội, cứ thấy đàn ông hay đàn bà da trắng thuộc bất cứ quốc
gia nào, họ đều gọi là ông Tây hay bà Tây. Những em và cháu của tôi
cũng không tránh khỏi cái ngoại lệ này. Họ đều gọi Frank là ông Tây,
mặc dù họ đều biết ông ấy là người Mỹ.
Sống giữa Hà Nội, tất nhiên phải thăm thú Hà Nội trước tiên. Thắng
cảnh đầu tiên vẫn là Hồ Hoàn Kiếm hay c̣n gọi là “Hồ Gươm”, một danh
xưng đẹp như mơ đầy sức hấp dẫn, cùng những cảnh vật và phố xá quanh
hồ. Tuy xa cách Hà Nội lâu ngày, nhưng tôi vẫn c̣n nhớ địa h́nh Hà
Nội, cho dù Hà Nội thay đổi quá nhiều cái mă bề ngoài trong cái thời
gọi là đổi mới, nhưng chắp vá, kết nối vụng về. Bờ Hồ Hoàn Kiếm ngày
xưa thông thoáng, là nơi thư giăn tinh thần của người Hà Nội, hôm
nay đă biến thành nơi làm ăn của những người nghèo níu kéo du khách
để xin tiền, hay của những nam, nữ vạ vật ngửa nghiêng trên những
chiếc ghế công viên để đón chờ, mời gọi khách mua hoa hoặc thậm thụt
đưa ra những món hàng quốc cấm như cần sa, nha phiến. Những hàng ăn
hay quán bán kỷ vật cho du khách được xây cất đó đây quanh bờ hồ, đă
che khuất tầm nh́n của người thưởng ngoạn khiến mặt bằng của cảnh hồ
như thu nhỏ lại. Tuy nhiên, v́ là bộ mặt của thủ đô, là trung tâm
thu hút du khách, cho nên công tác giữ ǵn vệ sinh cho Hồ Hoàn Kiếm
cũng được chăm sóc chu đáo. Nh́n từ một góc độ nào đó, những bóng
liễu xanh non lả lướt trên mặt hồ vẫn c̣n lưu giữ trong con tim Hà
Nội những vẻ đẹp nên thơ. Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc và Nhà
Thủy Tạ vẫn giữ nguyên h́nh thái cũ, vẫn lung linh soi bóng trên mặt
hồ phẳng lặng, yên b́nh. Cầu Thê Húc sơn mầu đỏ thắm, lối đi vào đền
Ngọc Sơn cây xanh, lá phủ vẫn c̣n gợi nhớ trong tôi những kỷ niệm xa
xưa, nhất là mầu sắc tôn giáo của lễ bái miếu đền đă từng dung chứa
những tâm hồn giản dị để duy tŕ phần nào sự tử tế giữa con người
sinh sống tại Hà Nội trước những manh động của thời thế. Vào một
ngày đầu Xuân 1950, tôi được nghe lần đầu bản Thiên Thai của Văn Cao
do ca sĩ Minh Đỗ hát tại Nhà Thủy Tạ xây trên mặt nước Hồ Gươm. Đến
nay, mỗi lần nghe Thiên Thai, h́nh ảnh thanh b́nh của Hà Nội năm xưa
lại trở về trong tôi.
Trở lại với Hà Nội hiện thực, những lúc thả bộ trên các đường phố
hay viếng thăm các viện bảo tàng, các nhà văn hóa như Văn Miếu, ngay
cả các đền chùa, nhà thờ tôi không c̣n thấy rơi rớt một chút nào cái
lối sống của Hà Nội xưa cũ. Văn Miếu nói đủ chữ phải gọi là “Văn
Miếu Quốc Tử Giám” được long trọng mang tên trường đại học đầu tiên
của các sĩ tử Việt Nam từ triều đ́nh Nhà Lư. Mỗi lần đón tiếp khách
quư hay các bậc lănh đạo quốc tế, các quan chức của Hà Nội ngày nay
thường đem khoe cái giá trị lịch sử của Văn Miếu Quốc Tử Giám. Cũng
v́ thế, du khách thăm viếng Hà Nội coi Văn Miếu như một thắng cảnh
không thể bỏ qua. Ngày nào Văn Miếu cũng nườm nượp người thăm, đông
như trảy hội. Tuy nhiên, chẳng mấy ai biết, những chỗ khuất của ṭa
Văn Miếu cổ kính kia đă biến thành nơi giải quyết nhu cầu tiêu hóa
của dân bán hàng rong v́ Hà Nội thiếu nhà vệ sinh, nhất là khi mặt
trời bắt đầu trả lại bóng đêm cho Hà Nội. Chữ nghĩa được dùng để mô
tả Hà Nội là chốn “Ngàn Năm Văn Vật” đă trở thành một khuôn sáo
trước những cảnh sống chen chúc,chụp giật trên khắp nẻo đường Hà
Nội. Cùng đi với tôi, Frank thấy những ǵ lạ đều xà tới thăm hỏi,
nhất là những món hàng nội hóa. Thấy khách là ông Tây mắt xanh, mũi
lơ, người bán thường lên giá vô tội vạ. Tất nhiên, tôi là người
trung gian chuyển ngữ, trong khi ông Tây Frank trố mắt nh́n tôi và
nh́n người bán hàng, rồi từ chối không mua. Mỗi lần như thế, ông Tây
Frank chẳng bao giờ hiểu được người bán phản ứng ra sao bằng những
lời lẽ thường là khó nghe. Tôi là người nghe đủ và lănh đủ. Có lần
Frank từ chối lời mời của một bác đạp xích lô bằng cái lắc đầu và
tôi là người mang tội “mất gốc” v́ tôi không bênh người Việt đạp
xích lô mà lại về phe với ông Tây mũi lơ. Khi thấy không khí bắt đầu
căng thẳng, tôi bèn giục Frank lẹ bước để tránh rắc rối có thể xảy
ra. Trong những ngày thơ thẩn trên các đường phố Hà Nội, chúng tôi
c̣n chứng kiến những cảnh đánh lộn đến thâm mày vỡ mặt trước những
cái nh́n vô tư của khách qua đường. Bởi thế ngày gần đây khi nghe
câu chuyện em Nguyễn Thị B́nh v́ nhà nghèo nên phải làm công cho một
tiệm phở từ năm em 11 tuổi. Trong suốt 10 năm, em bị vợ chồng chủ
tiệm hành hạ tàn nhẫn, thế mà xóm giềng vẫn câm nín, cán bộ công an
khu phố vẫn làm thinh cũng chỉ v́ chủ tiệm quen các ông lớn và có
tiền được pháp luật bao che th́ cái cảnh đánh lộn ngoài đường phố
chỉ là những chuyện nhỏ chẳng làm ai ngạc nhiên cũng là lẽ đương
nhiên. C̣n một điều đặc biệt nữa, cần kể cho các bạn nghe, nếu trong
túi c̣n xúng xính tiền, du khách không cần đến ngân hàng để đổi
tiền. Trên đường phố, nhất là tại các góc phố mọc lên tua tủa những
ngân hàng di động được hóa trang bằng những chiếc túi xách rách rưới
chia thành nhiều ngăn với những chiếc khóa kéo đựng tiền Hồ và tiền
Mỹ được sắp xếp ngăn nắp để công việc đổi chác diễn ra mau lẹ. Thấy
Việt kiều hay người ngoại quốc, các ngân hàng di động này liền t́m
đến gạ hỏi. Giá hối đoái thường cao hơn giá chính thức, nhờ thế cung
cách làm ăn này khá thành công. Frank đưa ra nhận xét, họ phải thuộc
một tổ chức nào, v́ họ nhiều tiền lắm! Tuy nhiên, xin lưu ư, nếu bạn
là Việt kiều mặc áo gấm về làng mà dám đổi tiền theo kiểu này th́
đây là cơ hội để công an truy bức túi tiền của bạn. Cảnh đổi tiền
lậu này, không riêng ở Hà Nội mà ở Sài G̣n cũng diễn ra khắp các
đường phố.
Những ngày lang thang trên mảnh đất quê hương, từ Hà Nội đến Hạ
Long-Quảng Ninh, Tam Thanh-Lạng Sơn, Sapa-Laokay, Hải Dương, Bắc
Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Ninh B́nh, Thanh Hóa, Quảng Trị, Huế, Nha
Trang, Đà Lạt đến Sài G̣n... tôi nhận thấy, sinh hoạt của người dân
về mọi mặt: duy vật, duy tâm, duy lư, duy thức... đều như nhau. Đất
Bắc Hà được mệnh danh là cái nôi của nền văn hóa và văn minh dân tộc
bắt đầu đổi mầu từ biến cố gọi là Cách Mạng Mùa Thu 1945 được Việt
Minh rầm rộ phát động một cách hết sức lăng mạn qua ánh sao vàng
trên nền cờ đỏ. Tính chất lăng mạn của cuộc cách mạng này đă thu hút
thành công khá nhiều các thành phần văn nghệ sĩ ưu tú của đất nước.
Khỏi nói đến giới trẻ ti toe mới lớn c̣n say mê táo bạo hơn nửa
trước cao trào yêu nước được tô điểm bằng những làn điệu thi ca mới
lạ hàng ngày thổi vào tâm hồn họ. 1946, Hà Nội bị Pháp tấn công, cái
nhăn hiệu “Tự Vệ Thành” oai phong và đầy khích lệ đă khoác lên vai
thanh niên thời ấy cái lư tưởng cứu quốc đẹp như trăng sao. Họ là
những thành phần được Việt Minh triệt để lợi dụng nhằm thực thi chủ
thuyết xă hội cực tả theo mô h́nh cách mạng cộng sản kiểu Nga Xô
Viết. Riêng giới trí thức Việt Nam thời ấy, phần lớn khôn ngoan,
tinh tế hơn. Nhờ nhận thức khá bén nhậy mặt trái của thời cuộc, từ
Phong Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 đến thời cơ Việt Minh đánh tráo
quốc kỳ tại Nhà Hát Lớn Hà Nội để cướp chính quyền tháng 8 năm 1945,
giới trí thức Bắc Hà đă khéo léo bảo toàn khá vững cái thái độ bàng
quan đối với thời cuộc bằng cách đắp chăn nằm yên. Cho đến năm 1954,
sau Hiệp Định Genève với 9 năm gọi là “kháng chiến” chống Pháp (có
người nói lái thành “khiến chán”) và 300 ngày ân huệ do hiệp định ấn
định để dân cư từ bắc vĩ tuyến 17, có đủ thời giờ lựa chọn nơi sinh
sống, giới trí thức Bắc Hà mới tỏ rơ thái độ chính trị của họ đối
với Việt Minh. Ngoại trừ hoàn cảnh khó khăn riêng lẻ, những người am
hiểu thời cuộc đều t́m đường di cư vào Nam, mặc dù họ phải bỏ lại
sau lưng tất cả tài sản tinh thần cũng như vật chất để mạo hiểm dấn
thân vào cuộc hành tŕnh không biết ngày mai. Thời bấy giờ, khi nói
đến dời bỏ làng xă để định cư sinh sống tại một nơi khác, tuy vẫn là
đất nước ḿnh, dân Bắc Hà coi đó như một hành động tha phương cầu
thực, bất nhân, bất hiếu và phản bội tổ tiên. Đời sống của họ gắn
liền với nơi sinh trưởng chắc như keo sơn. Ĺa bỏ đất Bắc di cư vào
Nam cách xa hàng ngàn cây số không hẹn ngày về, họ coi như đi biệt
tích. Sài G̣n ngày ấy đối với dân Bắc Hà xa xôi chẳng khác một quốc
gia hải ngoại. Sở dĩ cha mẹ tôi, dù có tây học, nhưng cũng không
muốn dời bỏ sinh quán theo tôi vào Nam, cũng chỉ v́ nặng ḷng với mồ
mả tổ tiên c̣n kẹt lại ở bắc vĩ tuyến 17. Ngày ấy, chính cha tôi đă
giục tôi ra đi v́ ông nh́n rơ, dù tôi ở lại miền Bắc cũng chẳng làm
được ǵ khác, ngoài cái nghề cán bộ nếu may mắn gặp thời, bằng không
th́ bị chế độ cách ly, phong tỏa.
Mùa Thu 1945, Việt Minh đem vào Hà Nội một mớ cán bộ của thời cuộc.
Đến năm 1954, Việt Minh đă biến Hà Nội thành cứ địa của Nga Xô và
Trung Cộng. Những cuộc đổi đời cay nghiệt này đă làm chao đảo nếp
sống truyền thống của người Hà Nội. Ngôn ngữ trào lộng gọi Hà Nội
hôm nay là Hà Nội 9 nút, con số tiêu biểu nhờ thời cơ mà h́nh thành
hơn là do tài đức và sức người. Chín nút là số thành của hai con số
4+5, rút ra từ hai số cuối của 1945 và 1954. Đây là những thời điểm
xảy ra hai biến cố lớn tạo cho Việt Minh cơ hội thực thi Chế Độ Xă
Hội Chủ Nghĩa để tiến lên Cộng Sản Chủ Nghĩa dẫn đến giấc mơ Thế
Giới Đại Đồng theo lư thuyết của Karl Marx và Lenin. Tuy nhiên, v́
sức người có hạn cho nên Việt Minh đă đứt gánh giữa đường. Sau gần
30 năm chinh chiến, giết hại khoảng 3 triệu con người nói cùng một
ngôn ngữ, Việt Minh đă đầu hàng Tư Bản Chủ Nghĩa và né tránh cái
danh xưng này bằng bộ mă xanh đỏ vá víu gọi là “Kinh Tế Thị Trường
Theo Định Hướng Xă Hội Chủ Nghĩa” để che mắt thuộc hạ và công luận.
Ngày nay, mỗi lần nhắc đến Hà Nội 9 nút, người Việt cả nước đều
biết, đây là một Hà Nội pha trộn thân phận của cả 3 miền đất nước do
thời cuộc đẩy đưa để hóa thành một giọng nói, một thói tục và một
nếp sống đặc thù của người Hà Nội hôm nay. Người ta nhận ra cái chất
giọng của người Hà Nội hôm nay bằng cảm quan của thính giác hơn là ư
nghĩa của ngôn ngữ. Các đài phát thanh trong nước cũng như hải ngoại
đă cho thính giả nhiều cơ hội nhận ra thực chất của giọng nói này.
C̣n muốn biết nếp sống của người Hà Nội th́ phải sống trong ḷng Hà
Nội để chứng kiến tận mắt những ngơ ngách của một Hà Nội đổi mới
mang danh Hà Nội 9 nút. Một triết gia Đức nhận xét chung như sau:
“Để nhận biết bộ mặt thật của một quốc gia, hăy quan sát luật đi
đường của quốc gia đó có được người dân tôn trọng hay không?” Thiết
tưởng, câu nói này đă phản ảnh đầy và đủ t́nh trạng sống không riêng
tại Hà Nội mà cả nước Việt Nam. Thống kê chính thức từ nhà cầm quyền
cộng sản cho hay, trung b́nh hàng năm có khoảng 10,000 sinh mạng
được gia đ́nh và xă hội nuôi dưỡng, đă chết một cách tức tưởi v́ đủ
mọi loại tai nạn giao thông.Tuy nhiên cũng có những ông Tây hay ông
Mỹ v́ muốn chung vốn ít mà kiếm lời nhiều bằng đầu tư lao động giá
rẻ tại các quốc gia chậm tiến, đă không ngớt ca tụng t́nh trạng giao
thông bát nháo được các ông gọi là đầy sinh lực và vô cùng hiếu động
của Việt Nam hiện nay. Thật là miệng nhà tham có gang có thép!
Trở về giọng nói của người Hà Nội, trong số bốn đài phát thanh quốc
tế nói tiếng Việt gồm RFI, RFA, VOA và BBC, nghe thử, các bạn sẽ
nhận diện ngay được cái giọng nói Hà Nội ngày nay ra sao, cho dù các
bạn không từng sống ở Hà Nội trước đây. Ngày nay, tuy ư thức hệ cộng
sản đă làm biến đổi sâu xa nếp sống cổ truyền của người Việt, nhưng
đối với vận mệnh của một quốc gia, cộng sản chưa đủ sức tàn phá tảng
băng ngầm của nền văn minh dân tộc kết tinh từ lâu đời. Hiện nay, ư
thức hệ cộng sản đang bị phá sản do sức ép của trào lưu dân chủ và
dân quyền thế giới. Tất nhiên cộng sản Việt Nam cũng không thoát
khỏi cái luật đào thải bắt buộc này. Bây giờ chỉ c̣n là vấn đề thời
gian theo tiến tŕnh chung của thời tin học biến hóa không ngừng để
nhanh chóng đẩy lùi hiện tại vào dĩ văng. Tuy nhiên, sau nhiều năm
sống lam lũ dưới cái chế độ lạc hậu từ cốt lơi, muốn cùng thế giới
đồng hưởng hơi ấm của ánh sáng mặt trời, người Việt hôm nay phải
vượt trội bằng những bước nhảy phi mă cả về tâm lực, trí lực lẫn thể
lực và nếu muốn rút ngắn thời gian th́ không thể phó mặc cho thời
thế xoay vần. Thay đổi một ư thức hệ chính trị, tuy khó, nhưng không
phải không làm được theo ư muốn. 24 quốc gia Đông Âu, điển h́nh là
Đức Quốc đă nhanh chóng thanh toán xong tàn tích của chế độ cộng
sản. Dẫn chứng điển h́nh là chỉ trên 10 năm thống nhất, bà Angela
Merkel, từ dân của một Đông Đức cộng sản phản dân chủ đă trở thành
thủ tướng của một nước Đức tự do dân chủ. Cũng phải đặc biệt kể đến
nước Nga là quốc gia đầu tiên áp dụng chủ thuyết cộng sản để thiết
lập chế độ chính trị nhằm thực hiện giấc mơ cộng sản hóa thế giới,
nhưng ngày nay nước Nga đă thay đổi cả quốc kỳ lẫn quốc ca để mạnh
dạn dấn thân vào trào lưu chính trị của thế giới mới. Nói tóm lại, ư
thức hệ cộng sản đă bị phá sản. Hiện nay, những nước c̣n đề cao chủ
nghĩa cộng sản như Trung Quốc và Việt Nam chỉ là tṛ bịp bợm. Họ
dùng h́nh ảnh của những Karl Marx, Lenin, Mao Trạch Đông hay Hồ Chí
Minh chỉ để che đậy dă tâm của họ đối với dân chúng, nhất là giới
trẻ sinh sau đẻ muộn, từng trải qua thời ăn bo bo đến nay được ăn
cơm đă cảm thấy măn nguyện mà không biết rằng, sức tiến như vũ băo
của thế giới bên ngoài đă bỏ xa họ nhiều thế hệ về mọi mặt của đời
sống.
Lâu ngày, mới có dịp về thăm quê, tôi mừng lắm! Nhất là nếp nhà
không v́ thời thế mà thay đổi là niềm vui lớn nhất của tôi. Tuy
nhiên, có nhiều trừ lệ khiến tôi phải đắn đo suy nghĩ. Ngày dời nhà
ra đi, tôi không thuộc thành phần ủng hộ chế độ đương thời. Và trên
60 năm sống tại miền Nam và tại hải ngoại, theo thành kiến của người
trong nước, nếu tôi không giàu th́ cũng không nghèo. Ước lệ này
không đúng với hoàn cảnh của nhiều người và của riêng tôi. Chẳng
phải thần thánh, nhưng nhờ hiểu được cái luật tự tại vô thường đă
biến thành bản chất, cho nên tôi thản nhiên sống trên ḍng định
mệnh. Các em, ngay cả các cháu nội ngoại gồm những đứa chưa sinh
ngày tôi xa quê, đều chia sẻ những niềm vui với tôi một cách hồn
nhiên, không v́ tôi không có một chút quà nhỏ nào từ Mỹ đem về.
Chiếc huy chương t́nh cảm tôi được gia đ́nh ban tặng quả là tuyệt
vời. Tuy nhiên, tôi phải ngậm ngùi để nói với các bạn rằng, chính
trị và chiến tranh đă kéo lùi tâm thức các thế hệ người Việt trong
nước đến một tầm mức đáng sợ, không loại trừ gia đ́nh tôi. Các em
tôi kém tôi chẳng bao nhiêu tuổi, nhưng tư duy giữa họ và tôi không
thể nào ḥa đồng với nhau. Sau khi nhận biết hiện tượng này, những
câu chuyện tâm sự nhỏ to chỉ c̣n là những kỷ niệm vui buồn của quá
khứ hay hiện tại.
Không kể Uyên Trang và Uyển Trang chỉ biết thầm th́ với anh chuyện
chồng con và gia đ́nh. qua những cảnh nhà êm ấm, mặc dù trên nửa thế
kỷ sống gian lao cùng cha mẹ, đến khi lấy chồng, ảnh hưởng của các
loại chiến tranh nóng lạnh đă không xâm nhập được vào tâm hồn họ.
C̣n các em trai của tôi là những đứa con nhỏ tuổi của gia đ́nh, v́
bị liệt vào thành phần đối kháng của chế độ, cho nên bị Việt Minh
loại trừ ra khỏi nhiều sinh hoạt xă hội. Theo lời Hạnh Đức là em
trai lớn nhất của tôi thuật lại, nhờ chú ấy có tài thể thao và văn
nghệ được Việt Minh trọng dụng, cho nên Hạnh Đức được học hành để
trở thành cán bộ ngành sư phạm. Và cũng nhờ Hạnh Đức mà hai em trai
cuối của gia đ́nh đă thoát khỏi ṿng ḱm kẹp của cộng sản.
Tôi nghĩ rằng, Việt Minh không đủ tài sức để kéo lùi tư duy của các
thế hệ dân Việt từ 1945 đến nay. Lư do giản dị là Việt Minh ra đời
từ luận lư máy móc vô hồn của chủ thuyết cộng sản. Ngay Lenin khi
biến thuyết Karl Marx thành chế độ cộng sản tại Nga năm 1917 cũng
chỉ là thăm ḍ, ṃ mẫm. Sau 70 năm thí nghiệm, sát hại 20 triệu dân
Nga gồm đủ mọi thành phần, chủ thuyết cộng sản đă gục ngă kể từ thập
niên 1990. Hiện nay, chỉ c̣n một số nước, trong đó có Việt Nam, về
h́nh thức gọi là cộng sản, nhưng thực chất chỉ là chế độ chính trị
được tập đoàn mệnh danh là Đảng Cộng Sản lợi dụng để cai trị dân
theo bản năng hơn là bản ngă. Sau 20 năm “đánh Mỹ cứu nước” đến nay
Việt Minh đang “rước Mỹ cứu ḿnh” là một chứng minh. Lănh đạo một
nước với bộ máy cầm quyền vô sản thất học, Việt Minh trị dân không
do tự chủ mà chỉ lo vọng ngoại để cứu ḿnh. Từ nhân vật chủ thể được
thần thánh hóa như Hồ Chí Minh, ngay từ lúc khởi đầu cuộc gọi là
Cách Mạng Mùa Thu 1945, cũng chỉ lo giữ ḿnh bằng tinh thần cống
hiến ngoại bang như cống hiến Quốc Dân Đảng Trung Hoa, cống hiến
Cộng Sản Mao Trạch Đông và thời kỳ chưa cướp chính quyền tại Việt
Nam, Hồ Chí Minh cống hiến Cộng Sản Xô Viết kể cả cống hiến Pháp và
Mỹ để có đủ từ ngữ vay mượn nhằm khai sinh bản văn mệnh danh là
Tuyên Ngôn Độc Lập đọc tại vườn hoa Ba Đ́nh Hà Nội ngày 2 tháng 9
năm 1945, mở đầu một chế độ phản trắc, lợi dụng ḷng yêu nước của
nhân dân Việt Nam để phục vụ tham vọng của chủ nghĩa cộng sản. Cái
tinh thần cống hiến đó đă trở thành di sản, gây lụy cho các thế hệ
người Việt sống ở trong nước, mặc nhiên liên quan đến các chi thể
nội ngoại thuộc đại gia đ́nh người Việt chúng ta. Đây là nguyên nhân
giải thích cái khung tư duy của anh chị em ruột thịt của tôi bị dồn
ép, hạn chế khiến cho tiếng nói của họ, tuy gần gũi tôi về t́nh cảm,
nhưng trở thành quá xa lạ về ư thức hệ. Bước vào nếp sống của dân
gian, cái tinh thần cống hiến đó c̣n sâu xa hơn nhiều... Tôi xin kể
cho các bạn nghe câu chuyện:
“Một sáng Hà Nội đẹp trời, tôi và ông bạn Mỹ viếng thăm Viện Bảo
Tàng Lịch Sử Việt Nam. Từ ṭa nhà trưng bày cổ vật đến quang cảnh
chung quanh ṭa nhà này đều lặng lẽ, trang nghiêm tích tụ t́nh tự
ngàn đời của hồn thiêng đất nước. Tôi thận trọng quan sát trước khi
cùng Frank bước đến trạm đóng tiền lệ phí thăm viện. Một bà béo lùn
tuổi chừng 40, trong chiếc áo dài mầu đỏ, phục phịch từ bên trong
bước ra, hất hàm hỏi tôi:
- Bác muốn ǵ?
Từ tốn, tôi trả lời :
-Tôi muốn mua 2 vé vào thăm viện bảo tàng.
Lừng khừng, bà ta đáp:
- Người Việt phải trả 30,000 c̣n người ngoại quốc 3,000 đồng.
- Ngạc nhiên, tôi hỏi:
- Tại sao người Việt phải trả gấp 10 lần người ngoại quốc?
Bà ta cau có nh́n tôi, rồi nói:
- Đó là giá chính phủ, không cần giải thích.
Thấy trên vai tôi đeo chiếc camcorder, bà ta phán:
- Máy quay phim phải trả 30,000 và máy chụp ảnh thêm 20,000.
Tính ra Mỹ kim, số tiền này chẳng đáng là bao, tôi và Frank thuận
trả đầy đủ, rồi nh́n nhau cười. Kể câu chuyện này, tôi muốn lưu ư bà
con cô bác là người Việt trong nước vẫn chất chứa hiềm khích đối với
người Việt hải ngoại, hoặc v́ mặc cảm hay bị nhồi sọ những giáo điều
chính trị thù nghịch giữa cộng sản và quốc gia, giữa cộng sản và tư
bản đă ngấm vào xương tủy họ từ nhiều năm qua. Kể đến đây, tôi nhớ
lại lúc mới chân ướt chân ráo trở về thăm quê, tôi đă nghe tiếng
chửi xéo khi gia đ́nh đến đón tôi tại phi trường Nội Bài, đă sơ ư
ngăn cản lối đi của họ.
Ḷng người biến đổi, c̣n trời đất Bắc Hà cũng biến đổi khác xưa
nhiều lắm. Theo vận hành tự nhiên của thời tiết, lẽ ra Mùa Thu phải
là mùa dinh dưỡng của vạn vật, khởi đầu thời an nghỉ hàng năm để
bước qua Mùa Đông tàng trữ sinh lực với giấc ngủ dài, trước khi sang
Xuân đâm chồi nẩy lộc, tái tạo sức sống, để rồi trưởng thành trong
Mùa Hạ... Môi trường sinh hóa thiên nhiên ấy đă bị ḷng tham của con
người phá hủy từ đất liền đến biển cả, liên lụy đến hệ sinh thái của
trời đất. Tai họa đốn rừng bừa băi, bức phá các mạch đất để thực
hiện chủ trương mệnh danh là công nghiệp hóa, đă tạo ra những xung
động bất thường của khí hậu và thời tiết gây nguy hại đến con người
và vạn vật. Nạn băo lụt rồi hạn hán và các thiên tai dịch họa triền
miên xảy ra trong những năm qua là những dẫn chứng. Viết đến đây,
tôi cảm thấy thương xót cho quê hương tôi đă rơi vào bàn tay cai trị
của những kẻ mù ḷa nh́n xuống không thấy đất, nh́n lên không thấy
trời, u mê tăm tối khiến cho dân tộc và đất nước tôi ch́m đắm trong
lạc hậu đau thương tính đến nay đă gần 70 năm.
Gặp nhiều nghịch cảnh trong chuyến thăm quê càng khiến tôi thương
nhớ Việt Nam, v́ gia đ́nh, v́ kỷ niệm, v́ phong tục tập quán, v́
h́nh ảnh quen thuộc của quê hương đă ăn sâu vào tâm trí tôi từ thuở
thiếu thời. Nếu t́nh thế biến đổi, tôi sẽ trở về sống với quê hương
để ôm ấp những phong vị c̣n lại của quê hương, sau những thăng trầm
khó tránh của thời cuộc và luật sinh hóa... Những ngày về thăm quê
đă cho tôi một cái nh́n tường tận và một xác định vững chắc về cảm
tính chưa tṛn của tôi đối với quê hương. Hà Nội là gốc của cuộc
hành tŕnh, v́ Hà Nội là nơi đại gia đ́nh nội thân ngoại thích của
tôi hiện cư ngụ. Hưng Yên là gốc của quê nội và Bắc Ninh là gốc của
quê ngoại tôi từ thuở nào tôi không biết được điểm mốc chính xác của
thời gian. Tôi chỉ nhớ lờ mờ, lúc ấu thời, tôi được về thăm sinh
quán của mẹ tôi tại làng Nội Duệ Cầu Lim, nhân một dịp Tết âm lịch
nào đó tôi không nhớ rơ. Bây giờ h́nh ảnh quê ngoại của tôi chỉ c̣n
ghi lại trong kư ức cái ấn tượng của một ngôi chùa rất lớn trải ḿnh
trên sườn đồi, dưới những ṿm cây xanh ngắt và cảnh chùa được trang
điểm bằng những tà áo tứ thân, những dải yếm lụa đào, váy lĩnh đen,
khăn mỏ quạ, e ấp dưới những vành nón quai thao trắng ngà làm tăng
thêm vẻ duyên dáng của những thiếu phụ nơn nà xinh đẹp với những
điệu Ḥ Quan Họ lịch sử của đất Bắc Hà. Những ngày lưu ngụ tại Hà
Nội, nhà sách trung ương trên đường Tràng Tiền là nơi tôi lui tới
nhiều lần để lựa chọn t́m mua những DVD Quan Họ hay những bộ sách
viết về huyền học. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy chế độ đương thời cho
phép xuất bản những loại sách có nội dung trái ngược với lư thuyết
Mác-Xít, nhưng họ lại ngăn cấm, bắt bớ, giam cầm những người cổ vơ
cho tự do, dân chủ chống lại chủ nghĩa cộng sản.
Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Đông, Hải Dương, Quảng Ninh, Thái B́nh... là
những tỉnh rất gần Hà Nội. Dân cư các tỉnh này có thể lên Hà Nội làm
việc trong ngày rồi trở về sinh quán. Hà Nội với lịch sử 36 phố
phường là do dân cư ngụ tại các tỉnh ven đô tạo lập qua nhiều thế
hệ. Hưng Yên giỏi nghề kim hoàn kết thành Phố Hàng Bạc, Hà Đông giỏi
nghề dệt lụa làm thành Phố Hàng Đào, Bắc Ninh giỏi nghề làm đồ mă
hợp thành Phố Hàng Mă vân vân... Riêng Thanh Hóa có đất Lam Sơn, nơi
Lê Lợi khởi binh chống quân Minh 10 năm để tạo dựng nhà Hậu Lê, c̣n
ghi thêm công nghiệp của bà Triệu chống quân Đông Ngô vào thế kỷ thứ
3 sau thời Hai Bà Trưng chống quân Nam Hán trên 200 năm, nhằm mưu đồ
độc lập và tự chủ cho đất nước. Đất Thanh rộng lớn về diện tích mặt
bằng, nổi tiếng với lập ngôn “gạo trắng nước trong” có những tương
quan gắn bó rất chặt chẽ với đất Bắc Hà, không riêng về an ninh kinh
tế mà cả về chính trị và xă hội. Danh xưng Hồ Hoàn Kiếm giữa ḷng
thủ đô Hà Nội với huyền sử Lê Lợi, vị vua đầu Nhà Hậu Lê trả lại
kiếm báu cho Thần Rùa sau khi dẹp xong quân Minh, là một giai thoại
nối liền Thanh Hóa với Hà Thành, nhằm tạo cơ hội cho dân Bắc Hà nới
rộng thêm đất đề định cư lập nghiệp. Ấn tích này c̣n ghi dấu tại Đền
Ngọc Sơn là tài sản của quốc gia có tầm vóc quốc tế, gắn liền Hồ
Hoàn Kiếm với nước non Lam Sơn.
Một tháng thăm quê, tuy là thời gian quá ngắn sau 54 năm xa quê,
nhưng đă để lại trong tôi những kỷ niệm khó quên. Hồi c̣n học lớp sơ
đẳng của bậc tiểu học, tôi c̣n nhớ, trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư có
bài thuật chuyện một khách đi du lịch nhiều nơi, thưởng ngoạn nhiều
cảnh lạ xứ người, đến khi trở về chốn cũ mới thấy “Quê hương là đẹp
hơn cả”. Vẻ đẹp của quê hương không phải chỉ là cảnh vật mà c̣n là
t́nh tự quê hương. Nơi tôi sinh trưởng không phải là Hạ Long, Sa Pa
hay Lạng Sơn, tuy nhiên, những địa danh này vẫn cho tôi những t́nh
cảm nồng nàn đối với quê hương. Có người Việt trẻ hôm nay ở Mỹ sưu
tầm để triển lăm gần 2000 bức ảnh về Việt Nam cổ kim với ư tốt là
giới thiệu Việt Nam với thế giới. Người trẻ này ngay t́nh cho biết,
Hạ Long được nhiều người ca tụng, nhưng vẻ đẹp của Hạ Long, theo
anh, không thể so sánh với Grand Canyons của Mỹ. Cảm quan của người
trẻ này không sai, cũng chỉ v́ anh ta sinh ra và lớn lên trên đất
Mỹ. C̣n Việt Nam đối với anh chỉ là một h́nh ảnh mơ hồ. Từ Mỹ về
thăm Hạ Long một lần, làm sao người trẻ này có đủ cảm nhận để con
tim thốt lên tiếng nói yêu thương đối với quê hương.
Viết đến đây, tôi được tin, một tạp chí du lịch ăn khách nhất của Mỹ
đă b́nh chọn Hà Nội là thành phố thứ 6 trong số 10 thành phố trên
thế giới được du khách đặc biệt chiếu cố. Đây là loại tin giật gân
lôi kéo giới truyền thông thi đua nhau khai thác nhằm lôi cuốn độc
giả cũng như khán thính giả bằng thông tin và b́nh luận đa dạng.
Những ư kiến khen chê đủ kiểu bừng bừng nổi lên các mặt truyền thông
kể cả mạng lưới thông tin quốc tế. Riêng tôi, căn cứ vào hai chuyến
đi Hạ Long thuộc Quảng Ninh và Sapa thuộc Lào Cai, với những sự thật
mắt thấy tai nghe và qua những câu chuyện trực diện với các du khách
ngoại quốc đồng hành, tôi thu góp để nêu lên một kết luận tổng quan
như sau:
Họ chọn Hà Nội, trước hết v́ du lịch Hà Nội rẻ nhất thế giới. Trung
b́nh một ngày, tốn phí về ẩm thực, chuyển vận kể cả khách sạn của
một người khoảng 50 Mỹ kim. Điều này không sai, v́ tôi và Frank là
những chứng nhân tại chỗ, nói theo ngôn ngữ Mỹ là một “fact
finding”. Du lịch đối với người Tây Phương là một tập quán. Trong
khi cái túi tiền hạn chế của mấy ông, mấy bà Tây Ba Lô không cho
phép tiêu xài lớn, tổn phí ít ỏi là một lư tưởng. Ít tiền mà ăn
ngon, ngủ yên và được du ngoạn những nơi ḿnh chưa biết th́ c̣n ǵ
bằng. Tôi và Frank đều đồng ư, bỏ ra ngoài ư thức về vệ sinh thực
phẩm, chỉ một bữa ăn đầy đặc sản được công ty du lịch thù tiếp trong
khi du thuyền vẫn tiếp tục hành tŕnh đến các hang động thiên nhiên
của Hạ Long, cũng đủ thỏa măn ư khách. Ngoài ra, du khách đến Việt
Nam v́ hiếu kỳ. Cuộc chiến Việt Nam kéo dài từ 1946 đến 1975 mang
theo nhiều bộ mặt từ nội xâm đến ngoại xâm, từ lư tưởng quốc gia đến
ư thức quốc tế, từ bàn tay bọc nhung của tư bản đến bàn tay bọc sắt
của cộng sản, từ tham vọng cá nhân đến hận thù đoàn thể vân vân...
dù vô tư cách mấy, những người xem truyền h́nh, đọc báo hay nghe
phát thanh cũng không thể không biết một Việt Nam nhỏ xíu, nhưng đa
sự. Tranh giành, chém giết, trả thù bừa băi trên 50 năm, rồi t́m
cách đi đêm để trở về khởi điểm của sinh hoạt b́nh thường, nếu không
điên rồ cũng là mất trí. Có lẽ lịch sử thế giới cổ kim, chưa ai
chứng kiến một cuộc chiến chứa đựng nhiều mâu thuẫn trá h́nh, vừa
nội xâm vừa ngoại xâm, vừa yêu nước vừa phản quốc, vừa giả dối vừa
ngay t́nh... như cuộc chiến Việt Nam. Chỉ cần nghe người phát ngôn
của Việt Nam đương quyền vừa công nhận vừa chối bỏ t́nh trạng khủng
bố, bắt giam những người làm chính trị trong nước bằng luận điệu
Việt Nam không có chính trị phạm mà chỉ có thường phạm là một ngụy
biện gian trá. Có người nghĩ rằng, đây là mánh mung của các con buôn
chính trị trong nước hợp tác với các công ty du lịch ngoại quốc nhằm
lôi kéo thêm loại du khách thời sự đến thăm Việt Nam. Loại du khách
này không phải là loại Tây Ba Lô mà là du khách loại sang, tiêu tiền
không cần tính toán.
Ghé Sài G̣n, tôi đến thăm một người cháu họ Bàng sinh năm 1954 tại
Bắc Giang. Hầu hết người họ Bàng đều thuộc sắc tộc Thái gần biên
giới Hoa-Việt. Bố nó là một cán bộ gộc từng theo Hồ Chí Minh để
kháng chiến và rất hănh diện có đứa con trai sinh năm 1954 là năm kỷ
niệm chiến thắng Điện Biên Phủ để tiến tới kư kết hiệp định Genève
ngày 20 tháng 7, biến vĩ tuyến 17 thành lưỡi dao chia cắt Việt Nam
thành hai mảnh, lấy ḍng sông Bến Hải chảy qua tỉnh Quảng Trị làm
lằn ranh chia đôi đất nước. Chính cái lằn ranh định mệnh này đă làm
nổ ra cuộc chiến huynh đệ tương tàn trong suốt 20 năm và buồn thay,
cái gốc của vấn đề lại do ư thức hệ phát sinh từ một chủ thuyết
ngoại lai do một ông tổ Karl Marx nào đó của họ sinh tại Đức Quốc
cách đây trên 2 thế kỷ. Họ đánh Pháp đuổi Mỹ đâu phải v́ ḷng yêu
nước mà là do tham vọng của cộng sản muốn xích hóa thế giới để thực
hiện giấc mơ đại đồng không bao giờ trở thành hiện thực. Từ thời
Mạnh Tử với chủ trương “Xa Đồng Quỹ“trước khi Chúa Giêsu ra đời trên
3 thế kỷ, đến thời Thành Cát Tư Hăn thiện chiến với vó ngựa Đại Mạc
đạp chết mọi đồng cỏ của đất Mông Cổ, san bằng giới tuyến từ Á qua
Âu vào thế kỷ 13, rồi đến thời Nă Phá Luân và thời Hitler thuộc
trung cận đại đă chiếm gần hết lục địa Âu Châu, cuối cùng cũng phải
cúi mặt đầu hàng nguyện vọng ḥa b́nh và ngay thời đương đại, cái
chủ trương “toàn cầu hóa” cường điệu của những nhà tư bản vô h́nh,
những King Makers tiền rừng bạc bể, có thể nặn ra vua và tổng thống,
nhưng không thể vượt qua hàng rào cản của đoàn người biểu t́nh từng
đợt luân phiên nhau chống đối âm mưu nô lệ hóa con người.
Trong khi trang trải tâm tư trên trang giấy này, tôi đang chờ một
biến cố tất nhiên sẽ đến như thân tầm lột xác thành cánh bướm, như
nụ hoa đâm chồi từ cây cành, như hạt lúa nứt mầm để trở thành cây mạ
để tiếp tục chu kỳ sinh hóa bất tận hay một “symphony inachevée” đan
kết những nốt nhạc thuận nghịch cần thiết để tạo thành một bản nhạc
giao hưởng kéo dài tưởng chừng không bao giờ dứt. Tất cả đều là hiện
tượng nằm trong ḍng biến dịch tự nhiên cũng như khí hậu và thời
tiết đổi thay giữa 4 Mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông để tiếp nối chuỗi dài
sinh tồn huyền diệu của thiên nhiên. Biến cố Hoàng Sa và Trường Sa
đang đưa hai nước cộng sản Trung Quốc và cộng sản Việt Nam vào vũng
lầy của tư kỷ và tham vọng cũng không thoát ra ngoài luật gieo gió
gặt băo, hay gieo nhân nào gặt quả ấy của chu kỳ sinh hóa.
1945, Hồ Chí Minh đem mầu cờ đỏ với ngôi sao vàng từ khối Nga Hoa
cộng sản về treo tại Việt Nam, rồi dùng chiêu bài “cách mạng giải
phóng” để lừa dối dân tộc Việt. Đến nay, trước khi thiết lập đơn vị
hành chính Tam Sa trên đảo Hải Nam để quản trị Hoàng Sa và Trường
Sa, cộng sản Trung Quốc đă treo biểu ngữ tại nhiều thành phố in h́nh
cờ đỏ với 5 sao vàng nhỏ bao quanh ngôi sao vàng lớn, nhân dịp kỷ
niệm quốc khánh 2007 vừa qua. Ngôi sao vàng nhỏ thứ 5 này tượng
trưng cho sắc tộc nào, ngoài Măn, Mông, Hồi, Tạng là 4 sắc tộc được
đeo vào cḥm sao định mệnh của Trung Quốc. Ư đồ đen tối của nước Tàu
ngày nay muốn biến Việt Nam thành chư hầu thứ 5 đă lộ nguyên h́nh.
Tần Cương, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đă trắng trợn
nói rằng, “sinh hoạt của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và Trường
Sa thuộc lănh thổ Trung Quốc là chuyện b́nh thường”. Thế mà cộng sản
Việt Nam vẫn tiếp tục lừa dối dân bằng luận điệu: “Hai nước anh em
đang t́m giải pháp ḥa b́nh để thương lượng với nhau về vấn đề lănh
thổ”, rồi đem công an áp đảo, cấm đoán mọi cuộc biểu t́nh chống
Trung Quốc của những người Việt Nam yêu nước.
Hăy tỉnh thức, đừng để tập đoàn bất nhân bán nước v́ tham vọng riêng
tư mà đưa chúng ta vào tuyệt lộ. Vận mệnh của ta là do chính ta định
đoạt, không thể nhờ mấy ông giáo sư ngoại quốc lo giùm, cho dù họ là
giáo sư của những đại học nổi tiếng. Có thể, họ là học giả của lịch
sử Trung Quốc vĩ đại của họ, nhưng chắc chắn họ không thấu hiểu được
dân t́nh Việt Nam của trên một ngàn năm Bắc thuộc, nhất là gần 70
năm nô thuộc dưới thời cai trị của cộng sản. Thật là khôi hài đến
cười ra nước mắt, khi nghe một đài phát thanh quốc tế nói tiếng Việt
đă phỏng vấn một ông giáo sư thuộc một đại học Mỹ về biến cố Hoàng
Sa và Trường Sa. Vị giáo sư này xác quyết là Trung Quốc không có mưu
đồ chiếm hai quần đảo này, mặc dù trong cuộc phỏng vấn, nhiều lần
ông ta thú nhận là ông không hiểu rơ vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa,
nhưng phóng viên của đài này vẫn tiếp tục truy hỏi khiến ông ba lần
phải cảm thấy “thú vị” khi trả lời về một vấn đề mà ông không hiểu.
Xin nhắc lại đây, lời của nhà cách mạng Phan Chu Trinh cho đến hôm
nay vẫn c̣n là chân lư, khi cụ viết: “Bất vọng ngoại, vọng ngoại giả
ngu” nhằm khơi dậy ḷng tự tin khi mưu đồ một cuộc cách mạng cứu
nước. Là sĩ tử của đất nước, nhất là thành viên của một cơ quan
truyền thông chuyên nghề hướng dẫn dư luận phải hiểu được ư nghĩa
của câu nói này.
Bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa chống Trung Quốc xâm lược hiện đang
bước vào giai đoạn vô cùng tế nhị. Người trong nước dùng cờ đỏ sao
vàng làm biểu tượng chống cộng sản Việt Nam bán đất bán nước cho
cộng sản Trung Quốc. C̣n người ngoài nước dùng cờ vàng ba sọc đỏ
cùng nhắm chung một mục đích với người trong nước. Lợi dụng cơ hội
này, các cán bộ thuộc Nghị Quyết 36 của cộng sản Việt Nam đ̣i trưng
cả hai lá cờ khi biểu t́nh chống Trung Quốc tại hải ngoại. Họ ngụy
tạo nhiều lư do như sau:
- Lá cờ là căn cước của mọi cuộc biểu t́nh.
- Nếu bạn dị ứng lá cờ của tôi th́ tôi cũng dị ứng lá cờ của bạn.
- Theo thăm ḍ dư luận th́ có đến 60% người Việt hải ngoại tán thành
ư kiến dùng cà 2 lá cờ tại các cuộc biểu t́nh chống Trung Quốc, được
họ coi như cơ hội bằng vàng để đạt đến mục đích.
Cơ hội này là cơ hội ǵ? Theo họ, đó là cơ hội họp thức hóa lá cờ đỏ
sao vàng trong các cộng đồng người Việt tị nạn và cũng là mục đích
được Nghị Quyết 36 của cộng sản Việt Nam triệt để ủng hộ. Rơ rệt
nhất là ngày gần đây, Lê Công Phụng hiện là Đại Sứ của CSVN tại Hoa
Thịnh Đốn, đă dành cho họ một cuộc phỏng vấn để họ có cơ hội giúp
Phụng thanh minh là Phụng không bán đất bán nước, mà Phụng chỉ bí
mật chia đất chia nước cho Trung Cộng qua những hiệp ước kư kết vào
cuối năm 1999 và 2000. Hậu quả trước tiên là luật sư trẻ Lê Chí
Quang đă bị tù oan cũng chỉ v́ bài viết: “Hăy coi chừng Bắc Triều”
tố cáo Phạm Văn Đồng được Hồ Chí Minh cho phép kư cái công hàm
14-9-1958 xác nhận Hoàng Sa và Trường Sa là những quần đảo nối liền
với lục địa Trung Hoa.
Chúng ta cần thận trọng khi ứng xử đối với vấn đề đầy thử thách này.
Nhân dân trong nước dùng cờ đỏ sao vàng để biểu t́nh v́ họ ở cái thế
chẳng đặng đừng. Tuy nhiên, chính nhờ thế mà họ đă ứng biến thành
mục đích vừa chống cộng sản Trung Quốc vừa chống cộng sản Việt Nam.
Cái khí thế này đang bừng bừng dâng cao trong các blogs của họ được
thể hiện qua âm thanh và h́nh ảnh trên các mạng Internet truyền đi
khắp nơi trên thế giới, trong đó phải đặc biệt kể đến Ngọn Đuốc Thế
Vận Olympic Bắc Kinh khi đến Saigon, người trẻ trong nước đă nêu lên
h́nh ảnh lá cờ đỏ 1 sao vàng của Việt cộng bị lá cờ đỏ 5 sao vàng
của Trung cộng uy hiếp để làm dấy lên ḷng công phẫn của toàn dân
đối với thái độ đầu hàng hèn hạ của CSVN.
Là một ngụy biện khi cho rằng, giới trẻ Việt Nam kể cả các sinh viên
du học không biết lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của thời Việt
Nam Cộng Ḥa và của người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại. Nói như
thế chẳng khác ǵ người học lịch sử mà phủ nhận quá khứ. C̣n căn
cước của người biểu t́nh đâu phải chỉ là lá cờ. Ai cấm người biểu
t́nh dùng biểu ngữ để chứng tỏ căn cước của họ. Khi dùng từ ngữ “dị
ứng” để phân biệt “cờ ta” và “cờ bạn” là một âm mưu chia để trị của
Nghị Quyết 36 nhằm biến người Việt hải ngoại thành dân của các ṭa
đại sứ cộng sản Việt Nam.
Là một nghĩa vụ khi người Việt hải ngoại cùng với nhân dân trong
nước chống đối chủ nghĩa bá quyền của cộng sản Trung Quốc. Tuy
nhiên, chúng ta đừng quên rằng, kẻ bán đất bán nước cho cộng sản
Trung Quốc là cộng sản Việt Nam và kẻ chiếm đất chiếm nước Việt Nam
là cộng sản Trung Quốc.
Là người Việt, dù đang sống tại quê hương hay xa quê hương, không
một ai không yêu mến và thương nhớ quê hương. Không một ai không
mong ước nước nhà độc lập, tự do, dân chủ và nhất là có chủ quyền để
chúng ta thật sự ngạo nghễ khi sống tại quê hương hay trở về thăm
viếng quê hương với niềm tự hào là người Việt làm chủ nước Việt. Tuy
nhiên, xin đừng quên rằng, ủng hộ nhân dân trong nước chống Trung
Quốc xâm lược, không có nghĩa là chúng ta biến cộng sản Việt Nam
thành một loại ngư ông ngồi không hưởng lợi để tiếp tục duy tŕ chế
độ độc tài, độc đảng trên đất nước chúng ta.
Xa quê lâu ngày, tôi về thăm quê một tháng mà ḷng buồn vời vợi.
Chẳng lẽ đất nước và con người chúng ta phải ôm chịu măi những dằn
vặt, khổ đau như thế? Ḷng xót thương những thế hệ hy sinh xương máu
từ ngày lập quốc để bảo toàn lănh thổ c̣n vang vọng trong thâm tâm
dân tộc. Nói như Đại Thần Nguyễn Trăi: “Từ Đinh, Lê, Lư Trần gây nền
độc lập... Dẫu cường, nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào
cũng có”. Và nói như nhà văn Vơ Thị Hảo ngày gần đây từ Hà Nội: “Dân
tộc ta đang cần một Minh Chủ”. Đúng thế! Hơn lúc nào hết, dân tộc ta
đang cần một hào kiệt, một minh chủ ra tay diệt gian, trừ bạo nhằm
mưu cầu độc lập và hạnh phúc thật sự cho quê hương chúng ta.
Lê Việt
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại