Vương Mộng Long
Giữa tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đă xảy
ra bên ḍng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng tây nam.
Trong hai ngày 14&15 tháng Tư 1974, Tiểu đoàn 82 /BĐQ/QLVNCH bị hai
Trung đoàn 48/SĐ320 & 64/SĐ320/CSBV xa luân chiến, tấn công bằng
chiến thuật biển người. Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung
phong. Cuối cùng, địch đă dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt
điểm. Trưa 15 tháng Tư 1974 Cộng-Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711.
Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu đoàn 82/BĐQ vẫn không bỏ chạy
khỏi vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đă từ chối tản
thương, họ đă đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản
công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh,
Tiểu đoàn 82/ BĐQ trừ (-) đă trở lại trận địa để đánh một cú hồi mă
cực kỳ dũng mănh. Dạ chiến là sở trường của Biệt Động Quân Plei-Me,
v́ thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng-Sản bám trụ đă bị đánh bật
ra khỏi vị trí cố thủ. Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của
cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận.
Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng
tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên "Đồi Thịt
Bằm". Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mănh liệt như một
cơn dông mùa hè.
Rồi, t́nh h́nh lắng dịu, địch và ta lại gh́m quân, chờ dịp ra tay
khi phát giác sơ hở của kẻ thù. Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi
chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như ḿnh là một
tiểu tướng cầm quân thời Tam-Quốc. Tôi đă phải nặn óc, vận dụng hết
khả năng, kinh nghiệm, sở trường của ḿnh để đương đầu với một đơn
vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị ḿnh. Tôi biết rơ Sư đoàn 320
CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở
đoản. Địch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư đoàn
320/ Điện-Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ
rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh. Trong thời gian
này, có một mẩu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta,
trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320 /Điện-Biên, đă cảnh giác các đơn vị
dưới quyền, "Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với thằng
Hai Nâu". Pḥng 7 giải mă, cho tôi biết địch gọi TĐ82/BĐQ là "Thằng
Hai Nâu".
Một ngày, giữa tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang
lục soát vùng nam núi Chư Gô th́ được thông báo cái điện thứ nh́,
"Thằng Hai Nâu đang hoạt động dă ngoại, phải khẩn trương bôn tập,
đánh tiêu hao nó..." điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320/CSBV ra lệnh
cho Trung đoàn 48/SĐ320. Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống
nḥm, tôi thấy rơ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng bắc
Chư Gô rạp xuống như những luống cày. H́nh như trong đêm, cả trăm
người đă đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài
từ đông bắc xuống tây nam, sát chân núi Chư-Gô. Con suối này cắt
ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi. Tôi ra lệnh cho Đại
úy Quách cơ B́nh (k22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt
cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày hôm đó, tôi đă dội
hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây
gai xanh bên bờ con suối. Quân dă ngoại của tôi ém trong núi, không
lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô
tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới cổng nam trại Plei-Me tôi
mới lên máy gọi chú B́nh. Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa
tôi và Đại úy B́nh, th́ từ biên giới Miên, địch đă nă khoảng hai
trăm trái đại bác vào trại. Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm
vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đă bị ta phát
giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo
kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nh́ gốc Chợ-Lớn bị
tử thương. Rồi t́nh h́nh lại yên...
Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng-Sản chiều chiều
cưỡi ngựa, thám sát khu ngă ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về
hướng bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số.
Làng này đă bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm
sát ranh giới hoạt động của Trung đoàn 42/ Bộ Binh trừ (-) và Tiểu
đoàn 82/ Biệt động Quân. Trung tá Nguyễn thanh Danh (k19 VB) trung
đoàn phó Trung đoàn 42/ Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh. Tôi
muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt-Cộng gộc này. Sợ khi đụng
trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây
số trách nhiệm về hướng bắc. Chuyện không thể nói trên vô tuyến, v́
vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung tá Danh. Tại căn cứ
hỏa lực 711, Trung tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đă gặp Đại tá
Nguyễn hữu Thông (k16VB) trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 /SĐ22 Bộ
Binh đang có mặt. Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân
của Niên trưởng Thông.
Niên trưởngThông hỏi,
- Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần ǵ vậy em?
Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên trưởng Thông nghe
tin tức địch tôi vừa nhận được, và ư đồ hành động của tôi, rồi đề
nghị,
- Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về bắc, để tôi dễ bề xoay
trở.
Đại tá Thông đồng ư ngay,
- Okay, Làm đi! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú...
Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày v́ chú Quách
cơ B́nh (TĐPhó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi
chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại úy Bá, sĩ quan
chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất
trại. Toán viễn thám của Trung sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ
sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để
tôi thiết lập vị trí là Đại đội 1/82. Khi tôi đă hoàn tất tổ chức
địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về pḥng thủ
trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm đại
Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng tây bắc
Plei-Me. Tôi đă dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục
trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm
ăn này, những quân nhân c̣n lại trong đơn vị hoàn toàn không biết
thày tṛ tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới
việc tôi xuất trại.
Tôi chọn "Vùng làm ăn" trên đoạn đường xe be cách ngă ba Tỉnh lộ 6C
làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên b́a rừng của đoạn đường này
không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc
nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân
phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đă gài xong. Hướng nổ của hai
quả ḿn đánh chéo nhau thành h́nh chữ "W". Bụi lau nơi mô đất giữa
đường là điểm mốc. Hai lằn đạn ch́ của Claymore sẽ giao nhau chỗ
này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt
vào tử địa là coi như Diêm-Vương đă gọi. Ngày thứ nhứt trôi qua, vô
sự. Ngày thứ nh́ trôi qua, vô sự. Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng
bóng giữa đỉnh đầu...
Binh nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi,
- Thiếu tá! Có tiếng xe!
- Tao có nghe ǵ đâu?
Tôi quay sang hỏi chú Chi,
- Ê! Chi! Có nghe tiếng ǵ không?
Trung sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu,
- Dạ không. Em không nghe ǵ cả! ...
Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu,
- Em nghe rơ có tiếng máy xe mà ông thiếu tá! Đó! Đó! Nghe rơ chưa?
- Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm...
Rừng già xanh ŕ trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng tây, phía
làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao
ngỏng cổ quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây.
Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi
chúng kiếm ăn. Đoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động
cơ rơ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy
chiếc.
Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh,
- Chuẩn bị đánh tank! Đánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!
Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc
ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo
chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước. Bảy Biệt Động Quân, bố trí
trên b́a đường, ḍm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và
hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng
"thịt" được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín
thở, nép ḿnh trong cỏ, đợi chờ...
Tiếng động cơ đă gầm gừ dưới chân dốc. "Ỉm!
Ỉm!...́...́...́...Ỉm!..." đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy
toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đă có dịp nghe tank địch chạy
sát bên ḿnh vài lần. Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di
chuyển c̣n gây tiếng "két! két!" của xích sắt khi móc xích bám vào
guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng
"két! két!"
Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu
tiên tiến lên đỉnh dốc. Ṿm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi
chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Th́ ra đó chỉ là một chiếc xe
be! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi
vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên
M72 đi. Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà,
kéo chiếc thứ nh́ sau lưng. V́ phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên
động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi
thở phào, nhẹ nhơm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua
con dốc. Chú Ba lầm bầm,
- Đồ phá thối!
Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo
đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn bắc của trại. Khoảng bốn giờ
chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây
số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá
túc v́ xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku. Tôi cho lệnh
toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân
khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người
thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một
vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị
Việt-Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua đoạn đường đèo ngă ba làng
Xổm th́ chiếc xe kéo bị "lột dên" không tiếp tục được. Họ biết đường
vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi
cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong Câu
Lạc Bộ tiểu đoàn.
-Tôi là người quen của Trung tá Danh... bà chủ xe be khoe với tôi.
- Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho
Cộng-Sản à?
- Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi
phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rơ lệnh này, nên họ bắn bể
két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi
chúng tôi về.
- À ra thế!
Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng
không biết ǵ hơn. Tôi vào máy, gọi Trung tá Danh, báo cho anh biết
tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai
đoàn xe của họ sẽ dắt d́u nhau về qua căn cứ 711.
Ngày kế tiếp...
Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới
Việt Miên.
"Oách! Oách! Oách!... Quàng! Quàng! Quạc! ...Ụt! Ụt! Ụt!..." đàn
chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng tây, tiếng chim rộ
từng chập. Chúng tôi nín thở.
"K'rọc! ...K'rọc! ..."
"Hừm! ...Hừm!. ."
Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá!
Con cóc Claymore trên tay tôi đă sẵn sàng.
Tiếng "K'rọc! ...K'rọc! ..." -"Hừm! ...Hừm! ..." gần hơn, tiếp đó là
lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường.
Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa.
"K'rọc! ...K'rọc! ..." -"Hừm! ...Hừm! ..." Trong nắng xế tà, một đàn
ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng
ph́ phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta
giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói
thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, "Hừm!...Hừm!.." C̣n tiếng
"K'rọc!... K'rọc!..." đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên
mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước. Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua
tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường ṃn nhập
vào Tỉnh lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng.
Chớm bóng chiều. Muỗi rừng "O...o...o..." sau gáy. Sợ địch đánh hơi
nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống
vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng
tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có
con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra ḅ, không bay nổi.
Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày ṿ, không dám găi, không
dám đuổi xua đàn muỗi đói.
Chợt rừng chiều xào xạc...
"Oách! Oách! Oách! ...Quàng! Quàng! Quạc! ...Ụt! Ụt! Ụt!..." Hướng
tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng
chim rộn ră, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe
tiếng vó ngựa nện trên đường, "Lộp cộp!...Lộp cộp!...Lộp cộp!..."
Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm
chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu,
tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore.
"Lộp cộp! ...Lộp cộp! ...Lộp cộp! ..." một con ngựa đen, cao to,
chắc nó thuộc gịng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có
đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen,
có dây súng lục đeo chéo qua vai.
Tôi nghiến răng, bấm c̣ con cóc,
"K'rạch!"
Con cóc đă kích hỏa, nhưng quả ḿn không nổ!
Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước
dở hổng, quơ quơ lên trời.
"Hí!... Hí!... Hí!... í!.. .í!... í!..." Con ngựa cất vó, ngửa cổ
hí.
Một cái bóng đen bay ṿng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên
kia đường.
"Oành!" quả Claymore của Hạ sĩ Ba nổ! Ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc
lên, kéo theo cành lá găy. Tiếp đó, "Rẹt! Rẹt! Rẹt!..." bảy khẩu M16
bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất.
Con chiến mă quằn quại trên mặt đường xe be, miệng ph́ ph́ sùi bọt.
Tôi và Trung sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ sĩ Ba và bốn
tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Ḿnh ngựa bị ghim
đầy vết Claymore và vết M16. Nhưng trong ṿng bán kính một trăm mét,
chúng tôi không t́m ra dấu tích của chủ nó. Đại đội 3/82 của Thiếu
úy Phạm đại Việt đang hoạt động vùng tây bắc Plei-Me được điều động
hỏa tốc tiến về hướng bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.
Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử
địa. Nơi con suối hướng bắc con đường, chúng tôi t́m được dấu giày
lưu lại của con mồi. Con mồi đă thoát thân thẳng về hướng bắc.
Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi th́ phát giác ra rằng, sức điện đă
làm đứt một trong hai sợi dây ch́ gắn vào đầu ng̣i nổ, khiến ḍng
điện bị ngắt, trái ḿn câm. Chú Chi càm ràm,
- Chắc thằng "cội" này có bùa!...
Ít lâu sau...
Trung đoàn 42/SĐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về B́nh-Định, căn
cứ 711 được bàn giao cho Liên đoàn 24 BĐQ trách nhiệm. Lúc này vùng
hành quân của TĐ 82/BĐQ được thu hẹp lại về hướng nam hai cây số.
Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TĐ81/BĐQ. Thiếu tá Nguyễn
ngọc Lân đă đặt bản doanh Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 81/BĐQ của ông ngay
dưới chân ngọn núi lửa nơi ngă ba làng Xổm.
Trưa 27 tháng Bảy 1974 chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở
màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung đoàn
64/SĐ320 CSBV hướng bắc, Trung đoàn 48/SĐ320 CSBV hướng nam, đồng
loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Động Quân đang
hành quân mở đường dọc Tỉnh lộ 6C. Sau ḥa đàm Paris , chiến thuật
bôn tập tập kích đă được các đơn vị Cộng-Sản thuộc Mặt Trận B3 áp
dụng một cách bài bản và hiệu quả. Chiến thuật này là một sự phối
hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích. Bộ binh địch
khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch
tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng th́ bộ
binh địch đă ở kế bên ta rồi. Ta chưa kịp chấn chỉnh đội h́nh th́
địch đă xung phong. V́ vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt-Cộng đă
chặt đầu Thiếu tá Nguyễn ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TĐ81/BĐQ
bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đă bắt làm tù binh ông tiểu đoàn
phó TĐ81/BĐQ là Thiếu tá Trần văn Ngọc (k18 VB).
Trong khi đó, tại mặt trận phía nam, Trung đoàn 48/SĐ320 của địch
không tiến được bước nào. Suốt ngày 27 tháng Bảy 1974, ba đợt tập
kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám. Pháo
địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập
kích địch tới được mục tiêu th́ khả năng tác chiến đă giảm đi nhiều.
Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên
đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người. Trước đó,
pháo địch nổ dày dặc trên mặt Tỉnh lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri,
v́ quân mở đường của TĐ82/BĐQ không trải dài trên trục lộ như thói
quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn
các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào.
Cách bố quân dă ngoại đặc biệt lạ lùng này của TĐ82/BĐQ đă khiến
Trung đoàn 48/SĐ320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của
nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây-Nguyên, chiến thuật bôn tập,
tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.
Những ngày sau đó, tiền đồn Plei-Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục
cái màn xa luân chiến. Hết Trung đoàn 48/SĐ320 đến Trung đoàn
64/SĐ320, rồi tới Trung đoàn 26 Địa Phương/Mặt Trận B3 thay nhau
phơi thây trên các lớp rào kẽm gai pḥng thủ Plei-Me. Hai mươi đợt
biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư Đoàn Điện-Biên
vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn
cột gỗ giữa sân tiền đồn biên pḥng này. Trận đánh đă kéo dài ba
mươi tư ngày đêm. Sáng mùng 2 tháng Chín 1974 chiến dịch vây hăm
Plei-Me chấm dứt. Thêm một lần đụng độ, "Thằng Hai Nâu" đă chứng tỏ
cho địch biết rằng, ở Tây-Nguyên, Tiểu đoàn 82/ Biệt Động Quân là
một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại.
Trung đoàn 48/SĐ320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong
đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và
tái huấn luyện.
Tới đầu năm 1975,Trung đoàn 48/Sư đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ
công trong chiến dịch tấn công Ban-Mê-Thuột. Lúc đó Tiểu đoàn 82/BĐQ
đă chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng-Đức. V́ thế "Thằng Hai Nâu" và
những đơn vị trực thuộc SĐ320/Điện-Biên CSBV không c̣n dịp nào chạm
mặt nhau nữa...
Sàig̣n, ngày 7/5/1975,
Hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam ngừng lại nơi đầu
hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2, Sàig̣n. Một người cao lớn,
bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng-Sản Bắc-Việt bước xuống từ
chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp
da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của Quân-Đội
Nhân-Dân Việt- Nam , với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ. Xe
thứ nh́ có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan
Bắc-Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngơ TK9, t́m địa chỉ.
Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất
tiếng hỏi,
- Phải nhà này có Vương mộng Long không?
Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi pḥng khách. Tôi ở nhà một ḿnh. Mẹ
tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban-Mê-Thuột để t́m kiếm vợ con tôi.
- Phải! Các ông cần ǵ?
- Tôi muốn gặp Vương mộng Long.
Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh ḿnh, tôi
liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ
tốn trả lời,
- Tôi đây!
- À! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh khỏe không?
- Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.
Ông thượng tá Quân-Đội Bắc-Việt quan sát tôi vài giây rồi nói,
- Vất vả hai ngày nay tôi mới t́m được địa chỉ của anh. Tôi có
chuyện muốn nói với anh, anh có vui ḷng tiếp tôi hay không?
- Vâng, mời ông vào nhà.
Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm ṭ ṃ bu
quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt
quan sát căn pḥng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà
người lạ. Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, ch́a tay ra cho
tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi
ngay xuống ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha chút âm sắc lơ
lớ Thượng-Du Bắc-Việt, ông ta mở lời,
- Anh Long có nhận ra tôi không?
- Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đă gặp ông lúc nào.
- Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây-Nguyên cách đây một năm.
- À...
- Tháng Sáu năm ngoái, anh đă phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của
tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói
chuyện với anh vài phút. Thế nào, có được không?
- Ư...ư.. ông cứ tự nhiên...
Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách
của ông thật là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua
quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc? Năm nào gia đ́nh tôi vào Nam ?
Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi t́nh nguyện đi lính
Ngụy hay đă bị bắt lính, động viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao
nhiêu lần được tặng thưởng huân chương?
Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của
ḿnh không có ư tầm thù. V́ thế, ḷng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại.
Người sĩ quan Bắc-Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng
khói lửa mịt mù ở Điện-Biên-Phủ, ở Quảng-Trị, ở Tây-Nguyên.
Ông khách thao thao,
- Tớ là con quan Lang xứ Cao-Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh
Tây. Tớ phục vụ Sư đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ.
Đánh Điện-Biên tớ làm đại đội trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập Miền
Nam , tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm
chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy ḥa b́nh... Ông khách kể
tự truyện, theo đó, trước 1945 ông học trường Tây ở Hà-Nội. Ông sắp
thi "Diplôme" th́ Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng
chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể chuyện đánh
thắng Điện-Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân-Cảnh, thời Ngụy,
chuyện hai lần suưt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het),
chuyện Sư đoàn 320/ Điện-Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một
nửa về chiến trường B́nh-Định, một nửa xuôi Jarai. Rồi khách rầu rầu
vắn tắt nhắc trận thư hùng tháng Tư 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ
711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suưt tí nữa
ông ta đă bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đă thua tôi
(TĐ82/BĐQ).
Khi kể tới trận vây đồn Plei-Me 34 ngày đêm (tháng 7&8 năm 1974) ông
ta la lớn,
- Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng ĺ
như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết
truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng! Cuối cùng
tụi tớ phải bỏ cuộc! Gớm thật!
Sau câu, "Gớm thật!" ông ta vỗ đùi đánh "độp!" một cái, rồi nh́n
tôi, tán dương,
- Ĺ thật! Tớ khen cậu đó!
Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công
giải phóng Buôn Ma Thuột tháng Ba 1975 và màn bôn tập Quân Đoàn 2
Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông trung tá trung
đoàn trưởng CSBV đă được thăng cấp thượng tá. Khách nói nhiều hơn
chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông
ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở
miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ
cười như mếu.
Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đă ba lần, ông ta thắc mắc,
- Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, ĺ lợm như
thế?
Tôi chỉ trả lời thật gọn,
- V́ chữ hiếu!
Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa măn với câu trả lời của tôi, nhưng
ông ta cũng không gặng hỏi thêm.
Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về.
Nơi bực cửa, khách nh́n vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm,
- Tôi c̣n ở Sàig̣n ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận
huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói
với anh rằng, chúng ta đă đánh nhau hai lần trên Tây-Nguyên, hai lần
bất phân thắng bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh
là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, v́ anh là một ngôi sao sáng
hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng th́ tôi tối,
anh tối th́ tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời.
Thương cho anh, một v́ sao rụng.
- Cám ơn ông.
Vào lúc người sĩ quan Cộng-Sản cất bước, tôi cố với theo,
- Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm tôi giết hụt ông. Thế là
ḥa. C̣n trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, th́ ông thua tôi rành
rành. Về cái vụ Ban-Mê-Thuột, tôi công nhận, ông đă chiến thắng.
Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban-Mê-Thuột không phải là tôi.
- Anh nói đúng. Trong trận Buôn-Ma-Thuột không có "Thằng Hai Nâu".
Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh...
Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng
ngùng.
Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam và
người khách không mời rời con hẻm.
Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm-Tân, Thuận-Hải.
Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa-Kỳ tỵ nạn.
Từ tháng giêng 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời
với tôi như Phan trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng (KQ), Lư ngọc Châu
(BĐQ) vân vân, đều đă lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn. Riêng hồ sơ
của tôi và hai anh bạn Nguyễn thanh Danh (k19VB) và Lê văn Để (BĐQ)
vẫn bặt vô âm tín. Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở Công-An Quận 1 Thành
phố để hỏi hồ sơ của ḿnh th́ được biết, cô Huyền, người nữ Công-An
phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại
chuẩn bị theo học một lớp Anh-Văn kéo dài nửa năm. Một anh bạn gốc
Không-Quân đă giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại-Vụ. Anh
Danh và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà-Nội làm
thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu
đem hồ sơ ra Hà-Nội nộp cho Pḥng Xuất Cảnh Bộ Ngoại-Giao, sẽ lướt
qua ít nhứt vài ba danh sách.
Hà-Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn
mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, t́m dư hương ngày
cũ. Tôi đạp xe một ṿng quanh Sàig̣n, gặp người quen, xin viện trợ.
Trung tá Bùi văn Huấn, cựu liên đoàn trưởng Liên đoàn 22/ Biệt Động
Quân giúp tôi 100 ngh́n đồng. Bạn tôi, (TQLC) Mai văn Tấn (k21VB)
cho tôi 100 ngh́n đồng. Và anh Vũ văn Ích, một người anh con d́ con
già của tôi cũng giúp tôi 100 ngh́n đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ
phí lên đường về Hà-Nội.
Hà Nội, một ngày tháng 8 năm 1990...
Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông
vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường
và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời
chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, v́ nh́n thấy bên phải
con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn b́nh
dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn
tuổi đă đứng chờ, dơ tay ngoắc,
- T́m nhà trọ phải không?
- Phải...
- Pḥng ngủ quốc doanh bẩy ngh́n một đêm, nước tắm giới hạn, khổ
lắm! Về nhà tôi, năm ngh́n một đêm, nước nôi thả cửa...
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào pḥng ngủ quốc doanh.
- Một người, bẩy ngh́n một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba
ngh́n...
Tiếp viên pḥng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát. Tôi
bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đă chờ sẵn,
- Bên kia đường...theo tôi...
Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối
diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới
chục căn pḥng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn pḥng bên trái cư
xá,
- Nhà tôi đây...
Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ,
- Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho
chú, ch́a khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại.
Tắm giặt th́ ra đằng sau nhà, có mười pḥng tắm, nước chảy cả ngày.
Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu
chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán th́ thôi...
Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dăy mười pḥng tắm có ṿi
hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm
chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về
buồng th́ ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà.
Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nh́ của chiếc
tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả
giàn, năm ngh́n một đêm, rẻ chán! Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát
tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai
thước. Ba cái sạp kê thành h́nh chữ "U". Ba người nằm trong một căn
pḥng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rơ...
- Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về? ông chủ nhà gợi
chuyện.
- Hải-Dương
- Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?
- Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày...
- Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề ǵ?
- Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam ...
- Có thường ghé Sàig̣n không?
- Chuyến nào mà chẳng ghé...
- Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàig̣n, bây giờ chắc đông, vui lắm
nhỉ?
- Vâng, đông lắm, vui lắm...vậy chứ bác đă ở Sàig̣n hở? Bác làm ǵ
trong đó?
- Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học...
- Ủa! Vậy ra bác là giáo sư...
- Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm
th́ tớ về hiu...
- Tám nhăm, bác c̣n trẻ, sao về hưu sớm thế?
- Về vườn th́ đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần ḿnh.
Sau...chúng nó thải ḿnh, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng
nó thay ḿnh, kiếm ăn...
- Bác dạy môn ǵ trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay
tiến sĩ?
- Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược
(thời Tây) th́ xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng
của tớ chỉ có mớ lư thuyết Cộng-Sản thuộc nằm ḷng. Giải phóng Miền
Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lư Thuyết Đảng cho học sinh đại
học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà
quả thật, có ai biết ḿnh là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng,
tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng...
học sinh nghe theo răm rắp...
- Rồi sau đó...
- Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó
thay chân những tên i tờ như tớ... tớ về hiu, xin được căn hộ này để
ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường,
cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm...
- Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
- Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió ḥa th́ có đồng ra, đồng vào.
Giông băo vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng ǵ đâu
em ơi!
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, ḍ t́m con phố Hàng
Bài. Cô khách trọ cùng pḥng ṭ ṃ rướn cổ sang theo dơi,
- T́m cái ǵ đấy hở?...
- Phố Hàng Bài...
- Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! T́m làm ǵ cho mệt
xác!
Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nh́n trần nhà, miệng cười kh́ kh́,
- Chú em đi buôn đường Sàig̣n, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở
đâu th́ có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng...
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật,
- Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, cựu tù cải tạo. Tôi
ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ...
- Tôi cũng đă nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không c̣n
thuần túy Hải-Dương. Chỉ v́ tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đă
có đôi người của chế độ Sàig̣n cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ
ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận.
Đời chú như thế là may mắn lắm rồi...
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài,
- Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi
đi, thấy đúng lại sai...
Đêm xuống đă lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát
thanh Hà-Nội, Tô-Lan-Phương c̣n đang biểu diễn bài "Cô Gái Vót
Chông". Giọng cô Ca Sĩ Nhân Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn
chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và
cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông
chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn pḥng
chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn
chông Tô-Lan-Phương bị chặn lại ngoài hiên.
Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà
trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt ḿnh
như đang mềm đi, đang giăn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ
bắt đầu, "Anh ở đầu sông, em cuối sông..." Giọng cô ta không cao
vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca,
hai mi mắt tôi đă sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.
Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc
nộp hồ sơ xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba
mươi sáu phố phường Hà-Nội. Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như
đường phố cổ Hội-An trong Nam . Tiếng chuông xe điện "leng
keng...leng keng..." làm cho thành phố này già nua thêm. Mặt trời
đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một
gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch,
óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo ḷng, thịt ḅ khô, khoai
ngô nướng, nước chè tươi...
- Chè đỗ đen đi chú em...
- Cho tôi một bát.
Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên,
- Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?
Tôi giựt ḿnh, "Chẳng lẽ bà này quen ḿnh, gọi đùa ḿnh là đại tá?"
Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên
lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang,
- Bát to đấy nhá! Để lấy sức cuốc một ngày.
- Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên,
Tây-Nguyên lấy sức đánh... xích lô.
Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so
với cái mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu
xe già than thở,
- Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ sừ...
- Đại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao
quá..
- Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu... Mẹ
kiếp! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần ḿnh. Bây giờ ḥa b́nh, nó
duỗi ḿnh ra, nó ăn cả, đồ chó má! Thấy tôi trố mắt theo dơi câu
chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích,
- Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy!
Đáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông
phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân
dân mà sáu chục tuổi đầu c̣n phải đi đạp xích lô để kiếm sống th́
quả là tội nghiệp quá!
Người phu xe già thở dài,
- Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân
tớ ví như... một v́ sao rụng.
Tôi giật ḿnh, bốn tiếng "một v́ sao rụng" h́nh như tôi đă nghe một
lần ở đâu đó, lâu rồi...
Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét
ǵ quen không, th́ bên bờ hồ có tiếng gọi,
- Xích lô! Xích lô!
Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh,
- Mai tôi giả tiền nhớ! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay
trên...
- Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà...
Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá th́ ông đă nhanh chân đẩy xe
sang bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm
trước (tháng 5/1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rơ nét mặt của
người khách lạ đă tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh
Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàig̣n thất thủ. Tôi cố
ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại h́nh dáng năm xưa của ông thượng tá.
Ông thượng tá Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi
vai ngang, người phu xe già... cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó,
thân h́nh người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang
oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.
Khi chiếc xích lô lẫn trong ḍng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng
đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ.
Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn h́nh ảnh người phu xe già,
với câu than thở, "Bây giờ, thân tớ ví như...một v́ sao rụng"
***
Đêm thứ nh́, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên
này đường, trong ánh điện mờ. Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này,
bố tôi đă đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi
tṛn bốn tuổi. Hôm ấy bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ
con đương thời hay hát, "Ai yêu Bác hơn chúng em..."
Bố bịt mồm tôi lại,
- Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay... Con hăy hứa với Bố,
con sẽ không hát bài này nữa nhá!
Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe
đạp, bố vẫy tay.
Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không c̣n gặp nhau nữa. V́
hai năm sau, bố tôi đă bị giết. Những người mê say "bài hát không
hay" đă giết bố tôi...
Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên
cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đă đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong
nước mắt,
- Bố ơi! Bố ơi!... Con nhớ Bố ! Con thương Bố! Bố ơi! ...
Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sàig̣n. Ông
chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái-Nguyên pha tiễn khách. Tôi
bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.
Sáng mùa Thu Hà-Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Điện đường lập
ḷe. Quán hàng c̣n đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách
vào ga. C̣i tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên
cổng ga c̣n im tiếng, v́ chưa tới giờ phát đi những "bài hát không
hay".
Đứng trên sân ga Hàng-Cỏ, ḷng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương
đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi
v́ sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông...
Vương Mộng Long
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại