Nguyễn Tường Thiết
Tặng Nhung, “đứa con đầu ḷng” của nhà văn
Thạch Lam.
Tôi
gặp anh tất cả bốn lần. Bốn lần đó trải dài hơn ba thập niên. Không
nhiều. Đă thế dường như trong cả bốn lần đó ngoài cái gật đầu chào
chúng tôi không hề trao đổi với nhau lấy một tiếng. Anh vốn ít lời.
C̣n tôi th́ e dè. Tôi vốn có tính rất ngại bắt chuyện với một người
nổi tiếng, đặc biệt nếu người ấy lại là người có quyền thế. Trong
thâm tâm tôi biết nếu tôi mở chuyện th́ anh cũng sẽ vui vẻ bắt
chuyện ngay. Đằng sau gương mặt lầm ĺ ít nói ấy anh là người rất
b́nh dị. Nhưng lần nào cũng thế sau cái gật đầu chào, tôi không bao
giờ cất tiếng. Để đến bây giờ ngồi trước bàn máy vi tính một buổi
sáng mùa thu miền Tây Bắc nước Mỹ, tôi viết đôi ḍng về anh mà ḷng
không khỏi gợn chút nuối tiếc: bài viết của tôi v́ thế sẽ không ghi
lại một mẩu đối thoại nào, dù ngắn, để làm kỷ niệm giữa anh và tôi.
Mà nào giữa chúng tôi đâu có phải người xa lạ ǵ cho cam? Anh là
nguời rất thân cận trong đại gia đ́nh Nguyễn Tường chúng tôi, là
chồng của người em họ tôi, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam.
Tôi nhớ lại h́nh ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn lần th́ có đến ba
anh hiện lên trước ly rượu. Đó cũng là h́nh ảnh cha tôi thường
thoáng hiện mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly rượu anh trầm ngâm yên
lặng. Cha tôi cũng thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ về anh ḷng
tôi không khỏi có ngầm một sự hănh diện thầm kín rằng ḍng họ tôi có
được một người rể như anh nổi tiếng là người thanh liêm. Cách đây
sáu năm khi tái bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn Gịng Sông Thanh
Thủy, tôi đă viết lời đề tặng anh trên trang đầu cuốn sách những lời
thật ḷng: “Tặng anh Ngô Quang Trưởng, với cả tấm ḷng quí mến và
ngưỡng mộ”.
Cơ duyên nào mà một vị tướng lừng danh của quân lực miền Nam Việt
Nam lại kết duyên với cô con gái lớn của nhà văn tài hoa nhất Tự Lực
Văn Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả lời thật đúng cho câu hỏi này.
Người có thẩm quyền trả lời là bà Trưởng. Mang ḍng máu của nhà văn
Thạch Lam tôi nghĩ Nhung nếu muốn viết cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng
không có ư định viết hồi kư về anh v́ thật t́nh tôi không biết
nhiều. Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ niệm với anh trong dăm lần
gặp gỡ hiếm hoi.
Trước khi gặp anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi đă nghe lan truyền
câu chuyện về một mối t́nh tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc hai binh
chủng khác nhau của QLVNCH, một không quân và một nhẩy dù, với cô
con gái lớn của một nhà văn nổi tiếng. Hai quân nhân cùng yêu một cô
gái. Đó là chuyện thường t́nh trong cuộc chiến. Điểm đặc biệt họ lại
là đôi bạn rất thân nhau. Trước cái chết có thể đến bất cứ khi nào,
họ giao ước với nhau trong t́nh bạn là nếu người nào nằm xuống trước
th́ người kia nguyện sẽ suốt đời chăm lo cho cô gái kia. Người phi
công sau đó tử nạn máy bay và định mệnh đă đẩy cô em họ tôi gắn liền
cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều lần gặp Nhung tôi toan hỏi
Nhung về câu chuyện t́nh này có đúng sự thực hay không, nhưng tôi
lại thôi không hỏi. Với tôi đó là một huyền thoại đẹp, hăy cứ để
nguyên vẹn như thế trong trí tưởng tượng của tôi.
Năm 1962 tôi ở Sài G̣n và dậy học tại trường trung học Minh Tân ở
Biên Ḥa. Một bữa anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh Tân, chở
tôi từ Biên Ḥa về Sài G̣n trên chiếc xe lambretta của anh. Đến Thủ
Đức anh tôi đề nghị ghé thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong lúc nói
chuyện với Nhung th́ có tiếng xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nh́n ra. Từ
trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy xuống. Hai bông mai trên ve
áo trận. Anh Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ chức vụ Tiểu đoàn
phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm thước, nước da ngâm đen,
khuôn mặt sần sùi khắc khổ. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là anh không
những không đẹp trai, lại không có cái “tướng” hùng của một quân
nhân. Trí tôi lúc ấy thoáng hiện câu chuyện t́nh tay ba và tôi h́nh
dung khuôn mặt anh chàng phi công tử trận chắc là phải hào hoa và
đẹp trai hơn anh Trưởng.
Năm 1967 tôi gặp anh Trưởng lần thứ nh́ ở Huế th́ trên ve áo trận
của anh hai bông mai đă thay thế bằng một ngôi sao. Anh đă lên
tướng! Người sĩ quan tôi trông không có “tướng” ấy, năm năm sau đă
được thăng tướng trong một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ tôi bắt
đầu có lời đồn đăi là từ khi anh Trưởng lấy Nhung th́ như diều gặp
gió đường binh nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ một Trung úy Tiểu đoàn
phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn tướng Sư đoàn trưởng Sư
đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài G̣n tôi bay ra Huế hai tuần lễ và tá
túc tại đại học xá Nam Giao, nơi mà hai năm trước tôi đă từng là
sinh viên nội trú để theo học ở Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao
tôi đi bộ đến thăm cô em họ, lúc này đă khó gặp v́ ở một nơi rất
“kín cổng cao tường”. Tư dinh của tướng Trưởng là một biệt thự trên
đường Lê Thánh Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh ṭa nhà giây
thép gai giăng đầy, ở bốn góc là bốn lô cốt thiết lập bằng những bao
cát với những họng súng chĩa ra từ lỗ châu mai. Người lính gác cổng
vào trong nhà báo và Nhung đă ra tận cổng để tiếp tôi. Chúng tôi
đang nói chuyện ở sa lông th́ anh Trưởng về. Trông anh mệt nhọc
nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi
chưa nhập ngũ, vẫn c̣n là sinh viên, dù vậy trông anh tôi cũng có
cảm giác hơi khớp. Không biết có phải v́ ngôi sao trên ve áo anh
khiến tôi thấy anh oai vệ hơn không. Tôi đứng dậy chào anh trong lúc
Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết, con bác Tam đấy!”. Anh không
nói ǵ, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng ra chỗ quầy rượu nơi có đặt
mấy chai Martell có ngâm những củ sâm bên trong, anh rót rượu vào ly
rồi cầm ly rượu trên tay không uống, anh chậm răi bước tới bước lui
trong pḥng khách, đầu cúi nh́n sàn nhà vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.
Năm 1970 khi tôi gặp lại anh lần thứ ba th́ tôi đă là một quân nhân.
Sau biến cố Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68 Thủ Đức. Ra trường
tôi phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục CTCT ở Sài G̣n.
Năm ấy khoảng gần tết thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam mất tôi đi
viếng thím trong bộ quân phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh tướng
Trưởng trong cư xá sĩ quan Chí Ḥa. Họ hàng chúng tôi đứng chật hai
bên quan tài đặt chính giữa pḥng khách. Xe jeep đậu trước cửa. Anh
Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ lưỡi trai cặp tay – chiếc mũ gắn hai
ngôi sao đen – anh đứng yên lặng trước quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng
ở bên này quan tài, đối mặt anh lần đầu trong tư thế một quân nhân,
một Thiếu úy trước một Thiếu tướng, tôi cảm nhận tất cả cái trọng
trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn
trên gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút sau anh đội mũ lên đầu rồi
vội vă bước ra xe đi mất.
Năm 1972 sau “mùa hè đỏ lửa” tôi là một trong ba sĩ quan của Khối Kế
Hoạch/ Tổng Cục CTCT đi thanh tra vùng giới tuyến. Ba người ấy là
Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu tá Nguyễn Công Luận và tôi với cập bậc
Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế trú đóng hai tuần lễ ở Mang Cá trong
cổ thành Đại Nội. Không khí nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần đầu
tiên kể từ ngày ra trường tôi trực diện với cuộc chiến. Cộng quân
lúc này thỉnh thoảng vẫn tiếp tục nă pháo vào cổ thành Huế. Mỗi lần
nghe tiếng đạn rít trên không trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu
nhào xuống giao thông hào nơi hàng trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh
chủng và cấp bực cùng nhào xuống trú pháo. Theo bản năng tự nhiên
mỗi lần nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là tôi lại chúi đầu xuống
đất mặc dù tôi biết rằng nghe được tiếng đạn rít tức là ḿnh đă
thoát chết v́ đạn đă bay qua khỏi đầu. Chính trong lúc trú pháo này
mà tôi hiểu được nỗi kinh hoàng mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái
Ḥa và những chiến sĩ sư đoàn 5 Bộ Binh tử thủ An Lộc đă phải hứng
chịu trước những trận mưa pháo dữ dội hơn gấp cả ngàn lần. Trước khi
ra Huế lần này tôi đă đi chôn anh Ḥa tại nghĩa trang Quân Đội Biên
Ḥa. Anh tử trận ngày 7-7-1972 đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh và ngay đêm đó anh bị pháo
chết. Nội trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ tôi đă lên chức hai lần,
từ Trung úy lên cố Thiếu tá. Và cũng chính trong lần ra Huế này mà
tôi được nghe được rất nhiều giai thoại về anh Trưởng, “người hùng
tái chiếm Quảng Trị” lúc này đă được vinh thăng Trung tướng với ba
sao trên ve áo và giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I. Tất
cả những giai thoại đó nếu được ghi lại đầy đủ tôi nghĩ có thể viết
thành một quyển sách. Giai thoại về sự thanh liêm trong sạch của anh
cũng có. Giai thoại về tác phong chỉ huy của anh cũng có. Giai thoại
về ḷng thương lính dưới quyền của anh cũng có.
Tôi nhớ là trong giao thông hào giữa hai đợt pháo kích một vị sĩ
quan cạnh tôi sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa tôi với anh
Trưởng hỏi tôi có đi thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế này không.
Tôi trả lời không. Rồi tôi nói thêm: “Ḿnh chả dại. Đang ngon lành
trong ngành CTCT lại ở hậu cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại kư giấy tống ḿnh
ra tiền tuyến th́ mệt lắm. Mà không phải tôi nói giỡn đâu. Một người
anh họ tôi cùng khoá với tôi 2/68 đă bị lănh búa rồi. Ông tướng hănh
diện đi khoe với cố vấn Mỹ là có người anh họ đang chiến đấu ở ngay
tuyến đầu!”
Lần thứ tư tôi gặp anh Trưởng là vào tháng 7 năm 1993 tại Virginia,
tiểu bang êm đềm của nước Mỹ. Như một khúc phim được quay nhanh, hai
mươi ba năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở Việt Nam tôi lại thăm
anh Trưởng tại tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại vùng thủ đô Hoa
Kỳ. Cuộc chiến Việt Nam như một giấc mơ hăi hùng nhưng không thực
lúc này đă trở thành dĩ văng. Năm đó vào tháng 7 chúng tôi bay qua
miền Đông nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi được tổ chức tại nhà anh
cả tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu tiên gặp anh Trưởng trong bộ
thường phục, trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo mông-ta-gu màu đỏ
trông anh mập ra, trẻ trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên tôi nh́n thấy
ở anh vẻ an b́nh hiện trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ là bề ngoài.
Bên trong chắc hẳn anh mang nặng nỗi đau và niềm cay đắng của một vị
tướng bại trận sẽ mang theo anh cho đến tận cuối đời. Anh đích thân
rót rượu và ân cần mời tất cả mọi người. Tôi toan tiến lại gần anh,
nói với anh vài lời, đặc biệt là bầy tỏ tấm ḷng của tôi đối với
anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ trong bụng anh có thể đă nghe
những lời bầy tỏ tương tự như thế rất nhiều lần rồi, nói ra lại
thành khách sáo, vả lại chúng tôi là người nhà, c̣n thiếu ǵ những
dịp khác để gặp anh tâm t́nh. Nhưng tôi đă lầm. Dịp khác để gặp anh
đă không bao giờ đến, cho đến khi anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 22
tháng 1 năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ tư tôi gặp anh ở
Virginia đó cũng là lần chót. Và chúng tôi vẫn chưa bao giờ trao đổi
với nhau được lấy một lời. Tôi chỉ c̣n cách tự an ủi là ba năm trước
khi anh mất anh đă đọc những lời chân t́nh của tôi viết về anh trên
trang đầu cuốn sách Gịng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng. *
* *
Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở
Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ
mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là
hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn
trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo
này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.
Từ trong nhà bước ra anh nói ngay:
– Tôi quên mất rồi. Không biết lần này ai trả tiền, ông hay tôi?
– Tôi cũng không nhớ. Nhưng nhầm nḥ ǵ. Để tôi trả cho. Anh cứ “vô
tư” đi cho tôi nhờ!
– Này này! Ông đừng có lợi dụng cái bệnh Alzheimer của tôi nhé! Cái
ǵ cũng phải cho nó ṣng phẳng...
Trong lúc lái xe tôi nghĩ đến sự t́nh cờ hi hữu đă khiến chúng tôi
gặp lại nhau và ở gần nhau trên nước Mỹ. Bốn mươi năm trước chúng
tôi có một thời gian cùng phục vụ tại Khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT.
Anh Hậu lúc ấy là Thiếu tá nhưng anh chỉ tạm trú ở Tổng Cục vài
tháng trước khi chờ biệt phái sang Phủ Tổng Thống. Hồi đó tôi nghe
đồn anh có “gốc” lớn lắm. Sau này kể anh chuyện ấy anh cười nói:
“Gốc mẹ ǵ! Toàn là đồn nhảm không à!”. Tôi cũng nhớ là sau khi biết
tôi là con của ông cụ, anh Hậu, tác giả tập thơ Chuyện Chúng Ḿnh,
có đọc cho tôi ngay câu thơ mà anh đă làm trước đó mười năm: “Yêu
Nhất Linh tôi chọn tên Nhất Tuấn”. Cùng sang Mỹ năm 1975 và cùng
chọn tiểu bang miền Tây Bắc nước Mỹ để định cư, chúng tôi đă có dịp
gặp nhau thường xuyên từ hơn ba mươi năm nay.
Ăn trưa xong, bên tách trà nóng, chúng tôi ngồi ôn chuyện cũ. Lẫn
trong câu chuyện h́nh ảnh của những người mà chúng tôi đă từng quen
biết năm xưa, người mất kẻ c̣n, lần lượt hiện ra. Tội nghiệp Trung
tá Ngô Văn Hùng, Trưởng khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT, xếp của chúng
tôi, đă chết v́ ngộp thở trên chuyến tàu hỏa chở những tù nhân cải
tạo ra Bắc. Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo, Trưởng pḥng Nghiên Cứu Kế
Hoạch, xếp trực tiếp của tôi, cũng đă ra đi tại tiểu bang New Jersey
miền Đông nước Mỹ. Trung tá Vĩnh Huyền, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn
50 CTCT, người mà anh Hậu vẫn khen là có gương mặt và tác phong rất
bảnh, đă từ lâu tôi mất liên lạc, không biết c̣n ở Calgary bên
Canada hay không. Và Thiếu tá Nguyễn Công Luận nữa, không biết anh
c̣n ở San José hay không, sức khoẻ anh hiện ra sao...
Bên ngoài lướt qua khung kính của nhà hàng mưa nhẹ bay bay. Băi đậu
xe lá vàng phủ ướt nhẹp. Bây giờ là cuối thu, những chiếc lá của
hàng cây phong trồng trên băi đậu xe đă bắt đầu chuyển từ màu vàng
óng sang màu đỏ tía. Mỗi lần cơn gió mạnh thổi lá rụng lả tả bay đậu
trên mui trên kính những chiếc xe hơi nằm trên băi.
Tôi nh́n anh Phạm Hậu ngắm hàng râu mép của anh và bỗng thấy anh
cũng bảnh y như Trung tá Vĩnh Huyền trong h́nh ảnh kư ức tôi năm
xưa. Chỉ khác là bây giờ râu tóc của nhà thơ này đă chuyển sang màu
muối tiêu. Nhớ đến Trung tá Vĩnh Huyền tôi lại liên tưởng đến lần
chúng tôi ra Huế năm 1972 và tôi nói với anh Hậu:
– Tôi đang viết giở một bài về tướng Ngô Quang Trưởng, nghe nói anh
có làm bài thơ về ông Trưởng hay lắm, anh có thể đọc cho tôi được
không?
Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay tôi đă kể cho
anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh chết
tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm
sau khi anh chết, ư nguyện đó đă được gia đ́nh thực hiện. Theo lời
Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm th́ anh Trưởng có một người
tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ
từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đă đón Nhung và các con Nhung
tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang b́nh tro anh Trưởng về
Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại
ngoại ô thành phố Sài G̣n. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài
xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá
lớn và dài ở sâu trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết
Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không
biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe
lên đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có
một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết
định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió.
Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau
khấn xong ngửng lên th́ trời đất bỗng dưng quang đăng hẳn lên mây
tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người
tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng
danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân nơi mà chú
tài xế kia đă nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ
Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đă đưa vị tướng chấn lĩnh vùng địa đầu lên
đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đă kéo vị tướng ấy xuống chốn
cùng thảm bại.
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ư nguyện của người đă
khuất gợi lên trong tôi h́nh ảnh vừa bi hùng lại vừa lăng mạn, như
là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối t́nh của viên dũng tướng với cô con
gái đầu ḷng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ sau đây của
anh:
Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
Bao chiến công... cũng thế mà thôi
Hải Vân... tro rắc bốn trời
Hạt tro nào... lạc vào nơi cổ thành?
Nhất Tuấn
Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù VN (3/1954-9/1954).
Nguyễn Tường Thiết
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại