USS MIDWAY – Ông Bạn Già Năm Xưa

Trần thị Khánh Vân

Cuối cùng tôi cũng đă trở lại… Chiếc Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway nằm ngạo ngễ trong Vịnh San Diego như chờ đón tôi về, để đưa kư ức tôi đi trở lại ba mươi năm cũ, trong một chuyến viễn du đầy nước mắt , tan tác , cam go, nhưng cũng không thiếu ngoạn mục.  Như một vị Tướng ǵa đă về hưu, trên người đeo đầy huy chương và mề đay của các chiến công lẫy lừng. Từ  Đệ Nhị Thế Chiến, quần thảo  với Hải Quân và Không Quân Nhật Bản, đến Chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam, và sau cùng là Chiến tranh giải phóng Kuwait, trong Chiến dịch Băo Cát Sa Mạc.  Bị thương tích nhiều lần và đă được sửa chữa không biết bao nhiêu lần để rồi cuối cùng, v́ tuổi tác , mệt mỏi , được về hưu, nằm nghỉ ngơi ở Cảng San Diego của miền Nam California hiền ḥa, nắng ấm.
 
Riêng tôi, chiếc USS Midway đă để lại trong ḷng những cảm kích sâu xa, vừa thân ái, vừa nhớ nhung.  Tôi có cảm tưởng được về thăm lại ông bạn ǵa ân nghĩa  năm xưa.  Tôi muốn được ngồi xuống cạnh ông để nghe ông nói.  Giọng ông thật trầm ấm, không vội vă, và ông đă từ tốn kể  cho tôi nghe về  những chiến tích oai hùng của một thời vang bóng.   Chuyện mà lúc nào tôi cũng thích nhất là kỷ niệm của tôi với ông, đă t́nh cờ gặp nhau trong những ngày cuối tháng 4 tan tác của 30 năm về trước.

 
Năm 1972 chính phủ Hoa Kỳ bày ra cái gọi là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.  (Vietnamization) để tiện bề kư Hiệp Ước Paris với Cộng Sản Bắc Việt . Cố-vấn Quân Sự và các viên chức hành chánh sẽ phải rút về Mỹ, để trao toàn gánh nặng chiến tranh cho người Việt Nam.  Cũng vào năm ấy,  nhờ có một ít vốn liếng Anh Ngữ nên t́nh cờ tôi được tuyển chọn vào Cơ quan Viện Trợ Quốc Tế Hoa Kỳ (USAID) . Họ huấn  luyện cho tôi và một số người trẻ tuổi khác trở thành “Thơ-kư Thượng thặng” (Admin. Assistant / Executive Secretary) để phục vụ trong văn pḥng quan trọng của Cơ quan USAID thay thế cho các  Thơ-kư người Hoa Kỳ.
 
Sau 10 tháng huấn luyện miệt mài tôi bắt đầu chính thức làm việc cho USAID vào giữa năm 1973.  Tôi được bổ vào làm việc cho Chương tŕnh “Phát Triển Kinh Tế Hậu Chiến” (Post War Economic Development Program ).  Tôi thích chí lắm v́ được tham gia vào những Chương tŕnh cải tiến đường xá, cầu cống, v.v…    Bắt đầu từ Thành phố Đà-Nẵng trở xuống miền Nam.  Đầu óc ngây thơ, nông cạn của tôi nghĩ rằng chiến tranh sẽ chấm dứt và nước VN đau khổ của tôi sắp sửa được sống trong thanh b́nh ,thịnh vượng.  Chương tŕnh Phát Triển Kinh Tế Hậu Chiến đúng là một cơ hội hiếm có cho tôi được góp phần vào việc xây dựng đất nước.  Tôi cảm thấy ḿnh vô cùng may mắn !
 
Đầu năm 1975 t́nh h́nh nước VN nói riêng và Đông Dương nói chung th́nh ĺnh thay đổi nhanh chóng.
 
Tôi nhớ rơ những biển chuyển khủng khiếp đă liên tiếp xảy ra chỉ trong vài tháng đầu năm.  Bắt đầu bằng sự rút lui của người Mỹ ra khỏi Cam Bốt.  Người dân Cam Bốt đă hốt hoảng bỏ chạy Cộng Sản Pôn Pốt.  Người Việt Nam lúc đó đă ái ngại cho số phận của ngườidân xứ láng giềng .  Họ đâu ngờ chỉ trong hai, ba tháng sau đó miền Nam Việt Nam từ Quảng Trị, Đà-Nẵng, Huế, Nha Trang, Saig̣n, Cần Thơ, Cà Mau và những miền duyên hải cũng đă quay cuồng và đảo điên trong cơn lốc di tản của lịch sử.
 
Khắp mọi nơi, hàng trăm ngàn người đă chen lấn, xô đẩy nhau để chạy trốn.   Lo âu hoảng hốt đă hiện rơ trên nét mặt mọi người.  Gia đ́nh tôi cũng ở trong t́nh trạng này.  Ngày 26 tháng 4 gia đ́nh tôi được lên danh sách di tản do Cơ quan USAID đảm trách.  Mấy ngày trước đó, chúng tôi đă căn dặn nhau mỗi người chỉ được đem theo 1 va ly nhỏ và một ít dollars để pḥng thân, chuẩn bị người Mỹ đến nhà đón đi.  Có vài người bạn tôi đă đi trước chúng tôi vài  ngày.  Tôi và gia đ́nh trong ḷng như lửa đốt.  Đêm tôi ngủ không dám chợp mắt v́ mong đợi tới phiên ḿnh.  Lâu lâu trong đêm tôi lại nghe tiếng thở dài năo ruột của mẹ, cha , anh, chị và em tôi.  Ai cũng im lặng, lo lắng không biết ngày mai sẽ ra sao.  Đi đâu ? Về đâu  ? Làm sao mà sinh sống ? Ở lại với Cộng Sản được ư ?  Cha mẹ và các anh chị lớn của tôi đă từng nếm mùi Cộng Sản!  Họ đă bỏ cả tài sản , cơ nghiệp lại miền Bắc để di cư, chạy trốn  vào Nam năm 1954.
 
Sáng ngày 27 tháng 4 tôi trở  lại sở USAID ở đường Lê-văn-Duyệt để nghe ngóng.  Đa số viên chức Mỹ đă lên đường về Mỹ (sau này tôi mới biết họ đă sang đảo Guam và đảo Wake ở Thái B́nh Dương để lo việc di tản cho người Việt Nam).
 
Tôi và một số nhân viên người VN ở lại được lệnh tiêu hủy các giấy tờ c̣n lại.  Tới  5 giờ chiều, chúng tôi vẫn ở dưới pḥng để cho các hồ sơ gọi là “MẬT” vào máy cắt vụn.  Th́nh ĺnh tôi nghe thấy bên ngoài những tiếng nổ lớn như tiếng bom.  H́nh như máy bay đă thả bom ở gần đâu đó.  Chúng tôi hốt hoảng nằm sát xuống sàn nhà ẩn núp.  Mọi người nép sát vào nhau và không biết phải làm sao.  Tôi nhớ rơ trong căn pḥng nhỏ dưới hầm của cơ quan USAID lúc đó có tôi, hai người bạn gái đồng nghiệp tên Châu Thuận Anh, chị Phạm thị Mỹ, và ông Ron Pollock là ông xếp trực tiếp của cô bạn gái, Trịnh thị Phương Dung đă ra đi từ hôm trước.  Tất cả chúng tôi 4 người ở đây một thời gian khá lâu.  Chúng tôi không dám ra ngoài đường v́ nghe radio nói Dinh Độc Lập đă bị trúng bom và lệnh giới nghiêm 24/24 được ban hành khẩn cấp.
 
Thế là chúng tôi  không có cách nào trở về nhà được nữa !
 
Cho tới nửa đêm ông Ron Pollock đề nghị mọi người lên xe của ông để về khu riêng cho viên chức Mỹ ở gần đó để lánh nạn.  Xe của ông có mang số T (Ngoại Giao) nên ông hy vọng sẽ không bị làm khó dễ.  Chúng tôi theo ông về một building ở gần Dinh Độc Lập (không nhớ rơ ở đâu).  Ngoài đường đêm tối vắng hoe không một bóng người.
 
Cả đêm tôi và các bạn lên sân thượng để theo dơi những trái hỏa tiễn của Việt Cộng bắn vào phi trường Tân Sơn Nhất và thành phố Sài g̣n.  Lửa cháy, khói mù  mịt khắp nơi, nhất là phía phi trường.  Nước mắt tôi tuôn rơi không ngừng.  Ḷng tôi rối bời v́ biết rằng cơ hội ra đi không c̣n nữa.  Tôi chỉ mong trời mau sáng để t́m cách trở về nhà với gia đ́nh tôi.
 
Sáng hôm sau, ông Ron Pollock bảo chúng tôi hăy đợi thêm một vài tiếng v́ lệnh giới nghiêm vẫn c̣n hiệu lực.  Tôi nhận thấy có thêm 4 cô gái  khác cũng đă có mặt ở đây.  Tôi nghĩ chắc ho cũng là nhân viên USAID.  Tất cả chúng tôi đều lo lắng và không biết phải làm ǵ.  Tôi nhớ ông Pollock gọi điện thoại cho ai không biết,  nhưng sau đó ông bảo t́nh h́nh lúc đó khẩn cấp lắm rồi.  Ông e ngại cũng bị kẹt lại như chúng tôi !
 
Ông chậm răi bảo ba người chúng tôi, Châu Thuận Anh và chị Mỹ đă có thể t́m cách về nhà tuỳ ư hoặc lên xe của ông để đến một địa điểm di tản (Evacuation Location). H́nh như ông đă biết sẵn những chỗ này trước, nên ông có vẻ rất b́nh tĩnh.  Lúc ấy tôi  mới nhận thấy ông Pollock thật là phúc hậu và đáng kính phục, v́ ông không ích kỷ lo cho riêng cá nhân ông mà thôi.  Ông đă lo lắng cho cả bảy nhân viên của ông, những người Việt Nam xa lạ, không bà con ǵ với  ông.
 
Cả 7 người chúng tôi đều quyết định lên xe để ông đưa đi  đâu th́ đi.  (Châu Thuận Anh bằng tuổi tôi, chị Mỹ lớn hơn chúng tôi 3-4 tuổi ǵ đó.  C̣n 4 nguoi kia tôi không nhớ rơ tên tuổi).  Khi ra tới cổng và đường cái, chúng tôi đă không ngờ cảnh hỗn loạn đă diễn ra khắp nơi.  Chẳng ai để ư đến luật giới nghiêm nữa.  Mọi người cuống cuồng trên đường phố, hớt hăi lo t́m đường chạy.  Xe cộ bí lối v́ những rào cản dựng lên ở nhiều ngă đường!
 
Trên đường đi, thấy chúng tôi ngồi chung xe của Bộ Ngoại Giao Mỹ, nhiều người đă tỏ vẻ giận dữ, chỉ chỏ vào chúng tôi.  Có người c̣n liệng đá vào xe chúng tôi và chưỉ rủa dữ dội.  Chúng tôi sợ hăi ngồi nép sát vào nhau.  Ông Pollock lúc nào cũng giữ vẻ b́nh tĩnh và im lặng lái xe đưa chúng tôi đi.
 
Nơi chúng tôi đến đầu tiên là Ṭa Đại Sứ Mỹ, cách đó không xa.  Thật không thể tưởng tượng được cả nhiều ngàn người đang chen lấn, xô đẩy ở ngoài cổng để mong vào được bên trong .  Tôi thấy vài người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đứng trên nóc Ṭa Đại Sứ và trên hàng rào,một  tay cầm súng, và tay kia kéo từng người vào.  Người ta chen lấn, xô đẩy, đè lên nhau trong cơn hoảng hốt tột cùng.  Ông Pollock quyết định không vào đó nữa và  sau đó ông chở  chúng tôi đến một địa điểm khác.  Tôi không biết địa điểm này ở đâu, nhưng tôi đă chứng kiến tận mắt  cảnh tượng  1 chiếc trực thăng đậu trên nóc một building nhỏ, và một dây người nối đuôi nhau, chen lấn để lên được chiếc trực thăng này.  Ông Pollock lắc đầu,và  quyết định bỏ đi đến một địa điểm khác.  Sau này, tôi đọc báo mới nhận ra cảnh tượng hốt hoảng này được đăng tải nhiều lần trên tất cả báo chí và truyền h́nh Mỹ.  Tôi cũng thấy h́nh ảnh này được ghi lại trong các tài liệu lịch sử Chiến tranh Việt Nam của Mỹ.
 
Đến được địa điểm thứ ba…th́.không thấy một bóng người.  Th́ ra người Mỹ đă  bỏ rơi địa điểm này.  Không hiểu tại sao ?
 
Sau cùng ông Pollock bảo chỉ c̣n cách tự lái xe  ra phi trường Tân Sơn Nhất để vào căn cứ DAO, là một căn cứ hành quân của lính Mỹ.  Ông Pollock cố gắng len lỏi qua những con đường đầy người chạy loạn.  Th́ ra mọi người cũng đôn đáo chạy t́m địa điểm để di tản như chúng tôi !
 
Khi gần tới cổng Phi Long th́ xe phải ngừng hẳn  v́ cổng đă bị rào cản ngăn gần hết lối vào.  Một người lính Việt Nam cầm súng tiến lại gần chúng tôi.  Anh lính VN chỉ mặt ông Pollock và hằn học nói 1 câu tiếng Anh  “You Amerian….you sold our country.  We hate you!”  Ḷng tôi đau như cắt!  Nước mắt tuôn rơi!  Phải, người Mỹ đă bán đứng miền Nam của tôi.  Tôi sinh ra ở đất Bắc, nhưng tôi đă lớn lên và đă yêu mến miền Nam như tất cả những người miền Nam hiền lành chân thật.  Trong ḷng tôi thật căm hận!
 
Nhưng ông Pollock vẫn b́nh tĩnh và  nhỏ nhẹ xin lỗi anh lính Việt Nam.  Anh lính kéo rào cản lại, ngăn hết cổng để ông không vào được nữa.  Ông Pollock quyết định quay xe trở ra và bắt đầu di chuyển băng qua một cánh đồng hoang ở gần phi trường.  Lúc đó hỏa tiễn pháo kích của Việt Cộng bắn tứ phía.  Có lúc rơi rất gần chúng tôi.  Vào tới phi trường TSN tôi thấy cảnh tượng đổ nát, cháy khắp nơi.  Có nhiều chiếc xe hơi, xe gắn máy, xe Jeep, xe nhà binh quăng bỏ ngổn ngang.  Chúng tôi đă đi dưới lằn  đạn pháo kích.  Lúc ấy tôi chẳng thấy sợ hăi một chút nào.  Tôi nghĩ ḿnh đang đi trong một giấc mơ hăi hùng.  Và giấc mơ đó sẽ tan đi sau khi tôi thức dậy.
 
Tới được cổng DAO tôi thấy có nhiều trực thăng Mỹ và lính Thủy Quân Lục Chiến đổ xuống bên trong.  Tôi và các bạn, cùng ông Pollock xuống xe, nhào xuống một cái rănh nước nhỏ gần sát cổng để ẩn nấp v́ đạn pháo kích nổ rát tai.  Có vài anh lính Mỹ chỉa súng lên trời , đang ẩn nấp và la hét inh ỏi.  Tôi thấy một anh lính trẻ măng v́ sợ qúa đă tiểu ướt ra quần, trong khi anh vẫn ôm súng la hét, chạy qua lại như đang ở trên chiến trường.
 
Một lúc sau, khi pháo kích giảm xuống một chút th́ chúng tôi được TQLC Mỹ cho vào cổng và  mọi người hối hả chạy theo nhau.  Lúc ấy tôi mới nhận ra nhiều ngàn người đủ mọi quốc tịch Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Đại Hàn, v.v..cùng gia đ́nh của họ đă sắp hàng dài cả cây số ở bên trong.  Cũng có rất nhiều người Việt Nam cũng chạy được vào đây.  Mọi người đều sắp hàng rất có trật tự.   Tôi thấy rất nhiều đồ vật như valy, xách tay, máy ảnh, radio, TV và có cả nồi cơm điện, các thứ linh tinh mà người di tản đem theo đều bị bắt buộc phải bỏ lại.  Chẳng ai thèm nhặt lấy.  Th́ ra trực thăng Mỹ không muốn chở nặng, nên bắt buộc tất cả mọi người di tản chỉ được cầm theo 1 xách tay rất nhỏ mà thôi.  Tôi chỉ có một chiếc áo dài đang mặc trên người.  Không có 1 hành lư nào!
 
Cuối cùng tôi và các bạn tôi cũng được lên chiếc trực thăng Chinook khổng lồ.  Ngồi ép xuống sàn của trực thăng, tôi thấy ḷng ngổn ngang như ṭ ṿ.  Thế là tôi đă bỏ đất nước ra đi!  Gia đ́nh tôi không biết giờ này ra sao ?  Lúc đó tôi chỉ muốn nhảy xuống biển v́ ḷng tôi tan nát ră rời .  Tôi không nói một lời với ai v́ tôi biết tất cả mọi người cũng ở trong tâm trạng hoang mang đau xót như tôi.
 
Khoảng hơn nửa tiếng sau (lâu lắm tôi không nhớ rơ) chiếc trực thăng chở  chúng tôi đến một Hàng Không Mẫu Hạm rất lớn mà tôi được biết đó là chiếc MIDWAY.  Ông Pollock đă nói với chúng tôi là Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ đă chuẩn bị sẵn ở ngoài khơi  vài ngày trước và người Mỹ đă biết trước cuộc di tản vĩ đại  này.
 
Vừa bước ra khỏi chiếc trực thăng để đứng trên HKMH Midway, tôi thấy có cả trăm người khác đă và đang đổ xuống trước chúng tôi.  Cảnh tượng lúc ấy cũng hỗn loạn nhưng không thê thảm bằng lúc ở Ṭa Đại  Sứ Mỹ v́ có cả trăm lính TQLC Mỹ đứng ra giữ trật tự.  Chúng tôi đứng dưới hangar thật lâu để được ghi danh sách trước khi qua một tàu buôn lớn khác mà Chính phủ Mỹ đă thuê sẵn đậu ở ngoài khơi vùng biển VN.  Tôi không thấy ông Pollock đâu nhưng sau đó ông đă trở lại t́m chúng tôi.  Ông nói yêu cầu chúng tôi giúp Hải Quân Mỹ làm thủ tục, danh sách cho người di tản v́ thủy thủ Mỹ không biết tiếng Việt nên rất lúng túng và mất th́ giờ, làm việc lâu lắc.  Chúng tôi đồng ư và công việc của chúng tôi bắt đầu ngay tức khắc.
 
Một dăy bàn đă được sắp sẵn ở bên hông tàu.  Chúng tôi ngồi cạnh những người lính Hải Quân để giúp họ viết tên tuổi của tất cả những người di tản vào một cuốn sổ.  Mỗi người cũng được dán trên người một mảnh giấy viết tên họ của ḿnh.   Trong khi làm việc, chúng tôi kêu đói và khát qúa nên được các lính Mỹ mang cho mỗi người một hộp đồ ăn và tiếp tục làm việc cho đến tối.  Hôm ấy là ngày 28 tháng 4, 1975.
 
Tối hôm đó, tôi được biết ông Pollock đă từ chối đi theo các nhân viên Ngoại giao khác lên máy bay để được chuyển qua Phi Luật Tân.  Ông đă quyết định ở lại để đi chung với chúng tôi. Có lẽ ông muốn trở thành một trong những người di tản đặc biệt, của một cuộc Chiến tranh Việt Nam tàn khốc với kết cục bi thảm và vô lư.
 
Làm việc tới nửa đêm th́ chúng tôi đều mệt lả.  Một Sĩ quan Mỹ được lệnh đưa chúng tôi đi nghỉ ngơi.  Chúng tôi phải leo lên, leo xuống, len lỏi qua những lối đi quanh co, nhỏ hẹp ở trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm.  Một lúc sau chúng tôi đến một pḥng khách rất đẹp, dù không lớn lắm.  Sàn được trải  thảm và  trang trí rất lịch sự  không khác ǵ  những pḥng tiếp tân sang trọng ở khách sạn .  Chúng tôi ngồi đứng tần ngần ở đấy vài phút th́ thấy một Sĩ quan khá lớn tuổi bước ra chào.  Sau vài lời giới thiệu của ông Pollock, chúng tôi được biết vị Sĩ quan này chính là ông Phó Đề Đốc Hạm Đội của nhóm Hàng Không Mẫu Hạm Midway.  Ông ta trịnh trọng mời chúng tôi xuống pḥng khách của ông và tỏ ư muốn nhường pḥng ngủ của ông cho ba đứa chúng tôi ngủ qua đêm.  Chúng tôi rụt rè từ chối và xin được ngủ trên những chiếc ghế sa lông lớn ở pḥng khách.  Trong pḥng có một chiếc truyền h́nh gắn lên tường để theo dơi trực tiếp việc di tản trên bong tàu..
 
Đêm hôm đó tất cả chúng tôi nằm lăn ra ghế và ngủ thiếp đi ngay.  Trải qua hơn 30 tiếng đồng hồ căng thẳng thần kinh, cơ thể chúng tôi đều kiệt quệ, nên không ai bảo ai đều thở phào và ḷng thầm biết ơn ông Phó Đề Đốc tốt bụng.  Riêng tôi thật biết ơn và cảm phục ông Ron Pollock vô cùng v́ ông lúc nào cũng điềm tĩnh và nhân hậu.  Chúng tôi có cảm tưởng ông đă lo lắng cho chúng tôi như một người cha vậy.
 
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi được ăn sáng ở ngay trong pḥng kháck. Chúng tôi đă ăn vội vàng v́ phải lên tiếp tục làm việc gấp, v́ người di tản đến càng lúc càng nhiều.
 
 
Tôi nghĩ chắc chắn rằng  việc di tản vẫn tiếp tục cả đêm hôm trước v́ người tới vẫn đều đặn.  Chúng tôi lại làm việc suốt ngày đêm.  Một số người di tản đến sau chúng tôi đă cho tôi biết Chính phủ Lâm thời Trần văn Hương và Dương văn Minh đă được thành lập để ḥa giải với Việt Cộng.  Tôi đâu thèm để ư đến chuyện này v́ ḷng tôi mong mỏi t́m được gia đ́nh mà thôi .  Tôi hy vọng cha mẹ, anh chị em tôi kiếm được đường chạy và tôi sẽ t́m ra họ.  Tôi vừa làm việc vừa khóc liên tục.  Nhiều anh lính Mỹ tỏ vẻ tội nghiệp cho chúng tôi.  Có mấy anh lính cho  chúng tôi địa chỉ ở Mỹ và căn dặn liên lạc với gia đ́nh họ để được giúp đỡ.  Tôi ừ ào cho qua chuyện.  Làm việc cho tới nửa đêm chúng tôi xin được đi nghỉ v́ mọi người đă mệt lả.
 
Sáng sớm hôm sau trời c̣n tờ mờ sáng, ông Pollock đă đánh thức chúng tôi dậy rửa mặt, làm vệ sinh và được ăn sáng ở ngay pḥng khách của ông Phó Đề Đốc.  Hai người lính Mỹ đă đem đồ ăn sáng đến phục vụ chúng tôi chu đáo.  Chúng tôi vừa ăn, vừa dán mắt trên máy TV để theo dơi những diễn tiến đang xảy ra trên bong tàu. 
 
Thật không thể tưởng tượng được!  Th́ ra  từ sáng sớm đă có hàng  trăm chiếc trực thăng của Không Quân VN đă và đang ào ạt bay đến  xin được đáp xuống chiếc Midway.  C̣i hụ báo động liên hồi và các lính Hải Quân của Hạm Đội chạy tứ tung để cứu giúp những người phi công VN.  Họ đem theo gia đ́nh, con cái, bạn bè...  Nét mặt họ đầy nét hốt hoảng và tuyệt vọng.  Khi những chiếc trực thăng này đáp xuống và mọi người ở trên trực thăng nhào xuống hết lập tức có một nhóm lính Mỹ chạy tới đẩy chiếc trực thăng này sang một góc.  Trực thăng đến nhiều như những đàn chuồn chuồn từ từ tiến về phía Hàng Không Mẫu Hạm Midway.  Chúng tôi ai nấy đều há hốc mồm ra để theo dơi cảnh tượng không tiền khóang hậu trong lịch sử này.  Có một chiếc máy bay nhỏ 4 người (sau nay tôi được biết là chiếc Cessna) cũng xin được đáp xuống.  Chiếc máy bay Cessna này đă bị từ chối và buộc  phải đáp xuống biển . Người ta thả cả chục chiếc phao xuống biển ,và nhiều người lính Hải Quân Mỹ nhảy xuống theo để cứu người phi công và gia đ́nh anh kịp thời.  Một lúc sau, tôi nhận thấy tất  cả những chiếc trực thăng VN đều được dọn qua một bên hông tàu và được đẩy luôn xuống biển, không khác ǵ những món đồ chơi bằng nhựa bị người ta vứt bỏ đi.
 
Ông Pollock thúc dục chúng tôi ăn sáng xong, để lên hangar tàu làm việc tiếp.  Tôi được biết là tất cả mấy ngàn người di tản hôm qua đă được trực thăng chuyển qua  những chiếc tàu buôn gần đó, mà ngày hôm sau chúng tôi cũng sẽ được đưa tới.  Nhưng đó là một chuyện khác mà tôi sẽ kể lại sau ( Bút kư 13 ngày trên biển ).
 
Làm việc ở dưới hangar,  nên tôi không được chứng kiến cảnh trực thăng ào ào đến nữa.  Hôm đó là ngày 30 tháng 4.  Các ông Không Quân và gia đ́nh họ cho chúng tôi biết thêm tin tức mới nhất là Chính phủ Lâm thời Dương văn Minh đă buộc phải đầu hàng Cộng Sản Việt Nam, Và Sàigon lúc đó đang ở trong một cơn lốc kinh hoàng  hỗn loạn.
 
Sau đó không biết mấy giờ, chúng tôi được đưa xuống pḥng để ăn trưa.  Rất nhiều lính Mỹ đă có mặt ở đây.  V́ có máy truyền h́nh để giữa pḥng, nên chúng tôi lại được theo dơi tiếp những chiếc trực thăng di tản của những người phi công Việt Nam đă một thời chiến đấu oai hùng.  Giờ đây tất cả đều đă tả tơi và rũ rượi như những con chim bị thương  và không có chim đầu đàn. Thật là đau xót và buồn thảm !
 
 Hạ cánh khẩn cấp!    Bất th́nh ĺnh c̣i hụ lại báo động liên hồi.  Tôi nghe trên loa phóng thanh, người ta ra lệnh cho một máy bay nào đó không được đáp xuống sân tàu v́ không c̣n đủ chỗ nữa.  Vài giây sau, trên màn ảnh TV hiện ra một chiếc máy bay cũng nhỏ như chiếc Cessna hôm trước.  Chiếc máy bay này nhất định không chịu đáp xuống biển.  Mấy người lính Mỹ cho chúng tôi biết rằng viên phi công Việt Nam đă đem theo vợ, con và anh nói nếu phải đáp xuống biển th́ mọi người sẽ chết hết.
 
T́nh h́nh thật căng thẳng và nguy ngập.  Viên phi công Việt Nam cứ bay ṿng ṿng ở trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm  Midway và muốn trực chỉ đáp xuống phần phi đạo c̣n lại nhỏ xíu trên tàu.  Cuối cùng, ông Hạm trưởng  Hàng Không Mẫu Hạm phải nhượng bộ cho phép đáp khẩn cấp.  C̣i lại hụ liên hồi  thật đinh tai nhức óc.  Trên màn ảnh vô tuyến, chúng tôi thấy rất nhiều lính Hải Quân đă chuẩn bị cấp cứu v́ tai nạn khủng khiếp có thể xảy ra trong nháy mắt.  Người ta chạy tới chạy lui, la hét om x̣m như đang chuẩn bị giao chiến.   Tôi thấy các ṿi chữa lửa được kéo ra và h́nh như có một tấm lưới lớn cũng được chuẩn bị giăng ra ở giữa bong tàu.
 
Thật là tài t́nh!  Chiếc máy bay của viên phi công Việt Nam hạ cánh xuống thật  nhẹ nhàng và ngừng lại sát nút trước ngay vạch đường kẻ, kế bên  đài quan sát trên cao, ở giữa tàu.  Mọi người vỗ tay hoan hô không ngớt.  Cả pḥng ăn của chúng tôi cũng ồn ào như chợ vỡ.  Họ phục tài đáp máy bay của viên phi công Việt Nam  qúa cỡ !  Trên màn ảnh truyền h́nh, tôi thấy nhiều người lính Hải Quân Mỹ chạy tới để giúp đỡ, mở cửa máy bay cho viên phi công vừa hạ cánh.  Chàng phi công Việt Nam  trông rất c̣n trẻ tuổi.  Anh đỡ vợ, con, nhẹ nhàng đưa xuống.  Người ta nhào tới chụp h́nh và bắt tay anh.  Tôi thấy cả ông Hạm Trưởng chiếc Midway cũng chạy ra bắt tay anh như thán phục một người hùng Không Quân của thế chiến.
 
Tôi đă quên mất ḿnh cũng đang là một kẻ di tản.  Tôi cười thở phào khoan khoái như chính bản thân ḿnh được thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
 
Chúng tôi lại trở về  chỗ làm việc như cũ.  Khi chiều xuống, trực thăng tới ít hơn.  Lâu lâu mới có một vài chiếc lẻ tẻ bay đến.  Chúng tôi được một Sĩ quan Mỹ dẫn đi xem hầu hết mọi nơi của chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Midway nổi tiếng này.  Lúc ấy tôi mới nhận thấy sự vĩ đại của nó.  Giống như một trại lính nhỏ.  Ngoài những chiếc máy bay chiến đấu và trực thăng c̣n có nhiều chiếc xe nhỏ chạy tới, chạy lui.  Các pḥng ngủ chật chội , thấp hẹp.Giường ngủ kê sát nhau như những chuồng gà. Thăm cả pḥng làm việc của lính Hải Quân, chỗ chơi, giải trí, nhà bếp ..v.v.  Cuối cùng, chúng tôi được đưa tới khúc đằng sau của hangar.  Trong một góc khá lớn, có một chiếc trực thăng duy nhất đă  đậu sẵn.  Chiếc này trông rất đẹp và  sạch sẽ và đă được người ta giăng giây thừng ở ṿng ngoài để không cho ai tới gần.
 
Tôi không hiểu tại sao họ lại đưa chúng tôi tới xem chiếc trực thăng này.  Khi tới gần, vị Sĩ quan mới cho  chúng tôi biết đó chính là một trong những chiếc trực thăng đầu tiên đáp xuống Mẫu Hạm Midway và người lái chiếc này không ai xa lạ, chính là Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Cựu Phó Tổng Thống VN Cộng Ḥa!  Th́ ra ông Kỳ cũng là một phi công “thượng thặng” nên ông đă bay ra đây sớm nhất !  Sau này tôi được biết chiếc trực thăng đẹp đẽ này là tặng vật của Tổng Thống Mỹ Gerald Ford, tặng cho Tướng Kỳ trước đó không lâu.
 
Tối hôm đó, chúng tôi được  ông Phó  Đề Đốc đăi ăn chung với ông.  Ông tặng chúng tôi mỗi người một cái bật lửa Zippo có khắc h́nh chiếc Hàng Không Mẫu Hạm – USS Midway.  Ông c̣n viết cho chúng tôi, mỗi người một lá thư cảm kích, để giới thiệu với những người mà chúng tôi, nếu cần sẽ được giúp đỡ.  Tôi đă cất kỹ hai thứ này như những kỷ vật vô gía.  Chúng là những con dấu chứng nghiệm một sự đổi đời của tôi.
 
Sau đó tám người chúng tôi được đưa đến một  chiếc trực thăng đă chờ sẵn.  Ḷng tôi bồi hồi xúc động.  Chiếc trực thăng cất cánh….từ từ xa dần chiếc Hàng Không Mẫu Hạm đầy ắp những kỷ niệm mà chỉ hơn hai ngày trước đó tôi đă không bao giờ ngờ tới.  Lúc ấy tôi không biết chiếc trực thăng này sẽ đưa chúng tôi đi đâu.  Nhưng mặc kệ, tôi thấy ḿnh cũng giống như một chiếc lá nhỏ  bị đưa đẩy cuốn bay  theo chiều gió.  Năm ấy tôi vừa tṛn  24 tuổi.    
           
Trần thị Khánh Vân.
 
 
Viết cho  hai con và người bạn đời của tôi
Thân tặng tất cả bạn bè mà tôi đă quen biết trong 30 mưoi năm trời lưu lạc..
To America, the country I have grown to love.

English version
 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại