Đầu tháng 9-96, báo Ngày Nay ở Houston có đăng một lá thư, tác giả là một người đàn bà kư tên Nga (Sàig̣n) gửi cho người yêu cũ Duy, tức Đại Tá Không Quân Đặng Duy Lạc, người đă viết đoản văn "Gịng Đời" trên Đặc san Ngàn Sao của Hội Không Quân Houston, số mùa Hè 92 với bút danh Duy Lạc.
"Gịng Đời" là một bài văn hồi tưởng về cuộc t́nh lỡ của tác giả trong thời niên thiếu. Đó là mối t́nh đầu, như rất nhiều mối t́nh đầu dang dở khác, ở cái thời đại mà t́nh yêu trai gái coi như trái cấm bởi ṿng rào luân lư, và quan niệm tương giao nam nữ khắt khe của xă hội đương thời. Biết bao mối t́nh trong sáng, ngây thơ, chất phác, như những đóa hoa yêu hoa lệ nở rụt rè, rồi tan vỡ, để lại trong văn chương nhiều chuyện t́nh đẫm lệ, dư âm c̣n măi đến bây giờ.
Trong phần giới thiệu, Ngày Nay viết: "...
Tác giả (Duy Lạc) kể lại mối t́nh đầu của ḿnh vào thời niên thiếu,
lúc cắp sách đến trường huyện với một người con gái tên Nga học cùng
lớp. Lúc đó, vào dịp toàn dân kháng Pháp, 1945. Thời thế sau đó đổi
thay, ông Duy Lạc vào Nam, rồi trở thành một Sĩ quan Không Quân Việt
Nam Cộng Ḥa. C̣n cô Nga trở thành một người lính của phía bên kia,
vượt Trường Sơn vào Nam .
Chuyện không ngờ là tờ Ngàn Sao lọt được về Sàig̣n, và cô Nga ngày
xưa được đọc bài "Gịng Đời" và sau đó, viết một bài chuyển
ra ngoài với tên "Hồi Âm Gịng Đời"... Đây là một bức thư tâm
t́nh riêng tư giữa hai người bạn ḷng, nhưng t́nh tiết ghi lại một
giai đoạn phân ly nghiệt ngă của đất nước..."
Bài "Hồi Âm Gịng Đời" đăng trên Ngày Nay đă gây một xôn xao dư luận, nhất là trong dư luận Không Quân. Ở một vài nơi, có những báo khác đăng lại. Đây là chuyện t́nh cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ tính cách bi thương, lăng mạn, chung thủy và đằm thắm biết bao, trong bối cảnh đau thương của đất nước, với cuộc phân tranh đối đầu chủ nghĩa, huynh đệ tương tàn.
Lư Tưởng đăng lại bài văn "Hồi Âm Gịng Đời", v́ thứ nhất, ngoài tính chất bi thảm của một câu chuyện đầy bi thảm, c̣n v́ cái đoạn kết bất ngờ và đau sót là Đại Tá Đặng Duy Lạc đă chết đường đột, ít ngày sau khi bài báo được phổ biến. Có thể chăng, lá thư t́nh gởi muộn đă làm anh rúng động và cảm xúc, v́ ăn năn, hờn trách ḿnh ngày xưa đă rụt rè, yêu không dám ngỏ và đă hiểu lầm, hóa nên cuộc t́nh thành chia biệt 40 năm...?
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều... (Kiều)
Phải chăng chính cái tâm "quán tưởng" theo kinh Phật mà Nguyễn Du đề cập đến rất nhiều lần trong truyện Kiều, đă khiến con người ṇi t́nh nghệ sĩ Đặng Duy Lạc tưởng tượng thêm ra những t́nh tiết đẹp đẽ cho mối duyên dang dở, để càng nặng ḷng tiếc nuối, âu sầu, đắm đuối ḿnh trong niềm ai oán với tṛ chơi nghiệt ngă của định mệnh? Anh khổ dau, dằn vặt bởi gịng chữ bùi ngùi thương tội "Anh đă từ phương xa lại, ḿnh gặp gỡ nhau, anh gieo vào ḷng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt..." khiến "Anh Duy thân mến" của Nga đă bơi ngược gịng đời, day dứt niềm thương, đem xuống tuyền đài mối t́nh đằng đẳng chưa tan.
Thứ nữa, "Hồi Âm Gịng Đời" của Nga
Sàig̣n có một giá trị văn chương cao vượt trên "Gịng Đời"
của Duy Lạc khó mà phủ nhận.. Người nữ đó đă sống hết ngả truân
chuyên, trôi cuốn theo gịng cuồng lưu vận nước, vô độ thảm thương
hơn thân phận Thúy Kiều, khổ đau và tủi nhục trên cả Lara trong "Dr.
Jivago", vượt xa cơn khốn khó của Catherine Barkley trong "A
Farawell To Arms". Những nhân vật nữ đa truân của văn chương nhân
loại. Người đàn bà tên Nga đă cho đi ở lứa tuổi thanh xuân đẹp đẽ
đó, cả cuộc đời nàng v́ lư tưởng thiêng liêng dành cho đất nước,
thủy chung ôm giữ mối t́nh đầu câm lặng cùng niềm u oán... Để bốn
chục năm sau, bàng hoàng sống lại nguyên tṛn cảm giác bồi hồi xưa
cũ, nửa đêm ngồi viết lá thư dài, gửi "Anh Duy dấu yêu" những lời
nồng nàng tha thiết, bây giờ mới ngỏ... Để tim người t́nh năm xưa
quặn thắt và đau buốt nhức, tay cầm tờ thơ cũng run lên, như trước
đây, bên trời xa mù tắp, Nga cũng run lên "c̣n hơn bị B-52 trải
thảm", khi đọc "Gịng Đời" trên giai phẩm Ngàn Sao.
Thiên t́nh sử đă được viết ra bằng những gịng chữ đầm đ́a ngấn lệ,
văn chương tới độ chân thành, cảm động, khiến hoe rưng người đọc.
Thêm vào đó, "Hồi Âm Gịng Đời" c̣n là một tác phẩm sâu sắc, tát
thẳng vào mặt chế độ với những gịng chữ viết ra từ một người theo
cách mạng, nói về thực chất của cái gọi là "nhà nước", trên phương
diện thông tin chỉ thuần mục đích tuyên truyền "nhai đi nhai lại một
luận điệu cũ rích", về tệ trạng tham nhũng hối mại "chỉ cần đút lót
vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền.v.v... th́ cái ǵ to
như con voi cũng qua lọt", và thú nhận lầm lỡ đi theo Việt cộng chỉ
là do "định mệnh nghiệt ngă đă đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê
hương!"...Em tập kết v́ ngỡ ḿnh sẽ đến được một nơi như thiên đàng,
chứ không phải v́ lư tưởng hay v́ bị huyền hoặc bởi cái chủ nghĩa
hứa hẹn không c̣n có cảnh người bốc lột người...."
Đó là tâm trang năo nề của "người đàn bà góa bụa mái tóc đă bắt đầu
điểm sương ngồi viết thư cho người bạn t́nh xa cách nửa ṿng trái
đất.." tủi buồn ngậm giọt thương thân, nhớ lại mối t́nh thơ ngây
không dám ngỏ và thổn thức hồi niệm cuộc chia ly định mệnh, khiến
cho đời nàng giông băo "Nhiều đêm em đă khóc v́ nỗi bơ vơ của ḿnh
nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều..." Nhớ đến bóng h́nh
xưa thuở thanh xuân đèn sách học tṛ và giấc mơ lăng mạn "Có lần nào
anh say xưa oanh kích, mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng
may bị trúng đạn pḥng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng
bó cho anh, th́ không hiểu bọ ḿnh phải xử trí ra sao trong t́nh
huống ấy?"
"Hồi Âm Gịng Đời" nói lên đầy đủ cái thảm kịch của thế hệ chúng ta,
của phần số đau thương bất hạnh dân tộc ta gánh chịu. Lư Tưởng trân
trọng mời bạn đọc theo dơi và cảm xúc với từng gịng chữ phô diễn
chân thành tâm trạng người viết, để hiểu tại sao cái khổ đau ray rứt
đă khiến ông Đại Tá Phi công Khu trục Đặng Duy Lạc không gượng nổi,
phải từ giả anh em, từ giả bạn bè để ra đi mang theo t́nh yêu thánh
hóa sang bên kia thế giới...
(Đào Vũ Anh Hùng)
Duy Lạc.
Tôi sinh ra vào thế hệ của thập niên 30. Thế hệ của chúng tôi chịu nhiều xáo trộn điên đảo nhất trong gịng lịch sử 60 năm của dân tộc (1930-1990). Chúng tôi may mắn là nhân chứng của nhiều sự hưng vong của bao chế độ và cuối cùng được nh́n tận mắt sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ Cộng sản bạo ngược khắp thế giới. Đó cũng là một niềm an ủi cuối đời cho thế hệ chúng tôi, những người chống cộng sản phải bỏ nước ra đi lang thang, bơ vơ, chịu nhiều bất hạnh, mang nhiều nổi đau buồn trên đất khách.
Ngày xưa từ tuổi nhi đồng qua thời niên thiếu, chúng tôi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của luân lư đạo đức Khổng Mạnh qua các tập "Luân Lư Giáo Khoa Thư" ở nhà trường. Trong xă hội lúc bấy giờ, một thời văn chương lăng mạn của các nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hàng Mạc Tử, Chế Lan Viên.v.v... và nhóm chủ trương Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh đă mang lại cho chúng tôi một ít mơ mộng về t́nh yêu (Hồn Bướm Mơ Tiên), hay ư thức mơ hồ về các hoạt động cách mạng (Đôi Bạn). Sau đó từ năm 1935-1945, ḍng nhạc tiền chiến trữ t́nh và ḷng yêu nước của Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy,Tô Vũ, Đặng Thế Phong.v.v... đă thật sự thấm nhập tâm hồn tuổi trẻ vừa lăng mạn vừa khơi động t́nh yêu tổ quốc của tuổi thanh niên. Kế đến thế chiến thứ hai vào giai đoạn chót bộc phát dữ dội. Bom đạn của chiến tranh bắt đầu tàn phá quê hương. Nương theo sự thất trận của Nhật, nhiều phong trào yêu nước chống Pháp nổi dậy, cuối cùng đi đến ngày 19-8-1945, ngày toàn quốc khởi nghĩa mà bọn Việt Minh Cộng sản quỷ quyệt cướp lấy công đầu. Và cũng từ hoàn cảnh đó, đám thanh niên thế hệ chúng tôi một số vào rừng, vào bưng, vào chiến khu để theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Một số khác v́ c̣n trẻ tuổi, phải bỏ thành phố tản mác về vùng quê để tạm lánh cư.
Cũng như mọi gia đ́nh khác, cha mẹ chúng tôi vội vă bỏ hết gia sản chạy về vùng quê miền Trung. Từ đó đời tôi bắt đầu một khúc quanh: cơ cực cũng lắm, hạnh phúc cũng nhiều, chạy dài suốt một thời niên thiếu. Tôi dần dần yêu thích cảnh sống đồng quê. Say sưa với núi cao, biển rộng, rừng thông, đồi cát, ruộng mía nương khoai với những h́nh ảnh của đ́nh chùa, miếu măo. Tôi yêu thương làng tôi qua lũy tre xanh. Con đường nho nhỏ thông reo. Ngôi đ́nh cổ kính nằm bên chân đồi. Tôi mê nhất những buổi trưa hè ngồi nghe tiếng thông vi vu, réo rắt một điệu nhạc buồn như tiếng sáo diều từ lưng đồi vọng lại.
Tuổi thơ của tôi thấm đậm t́nh quê hương từ những ngày tháng êm đềm thơ dại đó.
Những năm đầu kháng chiến, gia đ́nh tôi chưa đến nỗi sa sút. Tôi được đi học tại trường Trung học cấp huyện, cất ngay trong làng. Ở miệt thôn quê thời kháng chiến, sự học hành bị gián đoạn nên học sinh tuy ngồi chung lớp nhưng tuổi tác chênh lệch nhau. Trong lớp "Đệ nhất niên" của tôi có độ mươi cô nữ sinh. Các cô thuộc người làng hoặc từ những làng kế cận đến học. Phần nhiều nữ sinh thuộc gia đ́nh giàu có trong đám hương mục ngày xưa như Chánh Tổng, Xă Trưởng, Hương Lư, Hương Hộ.v.v... Các cô tuy là gái quê nhưng trông cũng xinh đẹp lượt là lắm. Tôi thời đó học hành dốt nát, chỉ thích lêu lỏng ngoài đường. Chuyện nhà trốn tránh, chuyện bạn bè th́ mau mắn. Tôi lang thang suốt xóm trên làng dưới, tập đàn ca với đám nữ sinh cùng lớp, ít khi có mặt ở nhà.. Công việc nặng nhọc trong gia đ́nh tôi giao cho chú em kế gánh vác. Mẹ già nhiều lúc mắng mỏ rầy la, tôi vẫn trơ mặt thịt. Đă vậy tôi c̣n tơ tưởng yêu đương. Tôi yêu tha thiết một cô em tên Nga cùng lớp. Em ngồi dăy bàn trước mặt. Tôi c̣n nhớ chiếc áo chemise lụa mỏng và chiếc quần lănh đen của em. Em có đôi mắt nhung huyền sâu thẳm như đáy hồ thu mà tôi tự nguyện chết đuối trong đó những lần em quay lại nh́n tôi cầu cứu. Đôi môi em đỏ hồng gợi cảm. Những lúc em ban phát cho tôi một nụ cười cám ơn khi tôi cho cóp bi bài toán là những lần tim tôi như ngừng đập. Em thường liếc xéo tôi mỗi khi tôi trêu chọc. Cái nguưt dài, con mắt có đuôi, kèm theo một nụ cười mỉm của cô gái dậy th́, có lúc là một "message" ưng chịu kín đáo của thời đó.
Thật t́nh lúc bấy giờ tôi không đoán được Nga có cảm t́nh ǵ với tôi chưa. Nhưng riêng tôi, tôi đă mê tít nàng. Cứ mỗi ngày cô em nghỉ học là mỗi ngày tôi thẩn thờ nhớ nhung. Tôi tương tư nàng như Nguyễn Bính tương tư "Cô hàng xóm"
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn...
Tuy yêu thương mê mẩn như thế, tôi chưa dám nói một lời yêu thương
cùng nàng. Hồi đó tôi đen đúa xấu trai. Tóc chải bảy ba có thên một
chút tango ổ quạ ngay trước trán (thời trang 1945). Tôi gầy đét và
cao lêu nghiêu như cây sậy. Thật t́nh nh́n kỹ tôi chả giống con giáp
nào! Tôi chỉ được tiếng "người Sàig̣n" và một chút tài mọn về đàn ca
hát xướng. V́ vậy, tôi chủ quan nghĩ rằng em đă cảm t́nh với tôi.
Một hôm vào dịp nhà trường tổ chức đi cắm trại qua đêm ở một rừng
dừa ven biển. Dĩ nhiên tối hôm ấy có đốt lửa trại và thi đua văn
nghệ, giữa mấy trăm học sinh cùng trường. Tôi táo bạo ghi tên tham
dự, cốt để chứng tỏ với Nga về khả năng văn nghệ của ḿnh.. Đêm hôm
đó, trước đám đông đảo học sinh, tôi đơn ca bản nhạc "Nhớ Chiến
Khu", một bài ca tủ của tôi, "C̣n đâu trong chiến khu trên rừng
chiều. Bên đèo tiếng suối reo, ngàn thông réo..." Tôi đang mơ màng
vừa ca vừa diễn xuất bộ mặt sầu sầu của anh Vệ quốc Quân nhớ nhà,
nào ngờ đến đoạn cao nhất của bài hát, một phần v́ khớp, một phần v́
nh́n thấy cô nàng đang theo dơi ḿnh, tự nhiên tôi té giọng kim, dứt
đoạn, rồi ngừng ngang nửa chừng. Tôi đúng như trời trồng giữa tiếng
vỗ tay la ó của đám học sinh. Tôi xấu hổ, tay chân thừa thải, mặt đỏ
bừng chỉ muốn độn thổ cho xong. Tội nghiệp Nga, nàng cúi đầu thương
hại cho tôi.
Rồi có một lần, chuyện phải đến đă đến, Nga ngỏ lời mời tôi đến nhà nàng chơi vào chiều thứ bảy. Tôi sung sướng nhận lời. Dịp này nhất định tôi sẽ bộc lộ tâm sự với nàng bằng một lá thơ. Mấy ngày liền tôi ngồi nắn nót viết bức thư t́nh đầu tiên. Tôi c̣n nhớ rơ bức thư viết dài và hay lắm. Tôi diễn tả mối t́nh say đắm của ḿnh. Văn chương lăng mạn và ướt át vô cùng. Trong bức thư tôi c̣n làm dáng về vốn Pháp văn của ḿnh bằng hai câu bất hủ "L'homme sans amour comme La Terre sans Lumière" mà tôi thuổng được ở mấy bức thư t́nh của bà chị tôi. Chiều hôm ấy, tôi băng mấy cánh rừng dương để đến nhà nàng. Nhà Nga xinh xắn bao quanh bởi một vườn cau và một hàng rào bông bụp tím nhạt. Vườn có nhiều hoa và cây ăn trái. Tôi dạo chơi thơ thẩn trong vườn cùng nàng suốt buổi tối. Nàng bóc bưởi mời tôi ăn. Tôi trèo cây hái khế tặng nàng. Cứ như thế măi cho đến khi trăng treo đầu ngọn cau và hoa bưởi bắt đầu tỏa hương thơm ngát, tôi mới từ giă nàng. Trước khi về tôi dúi vội bức thư vào tay nàng. Nàng ngập ngừng e thẹn nhận lấy thư tôi.
Sau ngày trao bức thư t́nh, tôi cảm thấy yêu đời, mơ mộng nhiều hơn.
Và trong khi tôi nao nức đợi chờ hồi âm, th́ hởi ơi! Hai câu Pháp
văn bất hủ tôi viết cho nàng được loan truyền khắp nơi nhất là trong
đám nữ sinh. Mấy bà chị họ, mỗi lần gặp tôi đều tủm tỉm cười, làm
tôi xấu hổ vô cùng. Tôi loáng thoáng đoán rằng tôi đă lầm và quá chủ
quan, chớ nàng không hề yêu thương hay t́nh cảm ǵ với tôi. Nàng đă
đem bức thư của tôi bêu rếu để làm tṛ cười. Từ đó tôi không nh́n
nàng. Tôi đau khổ hận đời, hận nàng và trốn học luôn...
Cho đến một ngày trước khi xuống tàu bỏ trốn vào Nam, v́ vô t́nh hay
cố ư, Nga chận tôi trên con đường làng vắng vẻ, gương mặt xanh xao,
ánh mắt buồn buồn. Nàng khóc thật nhiều và giải thích với tôi rằng
nàng đă yêu tôi. Chuyện bức thư là lỗi bất cẩn của nàng (Nga cho
người bạn gái mượn quyển sách trong đó có dấu bức thư). Nàng trách
tôi tại sao bỏ học và trốn tránh không nh́n mặt nàng. Lần đầu tiên
tôi run run cầm tay nàng, nh́n sâu vào đôi mắt lệ nhạt nḥa, thổn
thức không nói một lời, bởi v́ ngày tôi nhận được hạnh phúc t́nh yêu
đầu đời và cũng là ngày tôi xót xa chia tay mối t́nh học tṛ ngắn
ngủi đó. Ngày hôm đó, tôi đau đớn vĩnh biệt Nga mà chính nàng không
hề hay biết.
Con thuyền đưa tôi vào Nam chập chùng giông băo. Giông băo xô dạt con thuyền. Giông băo ngay trong ḷng tôi...
Tôi có người em kế, cùng trạc tuổi. Chúng tôi là hai thái cực. Chú
Lâm hiền ḥa thích sống trong gia đ́nh. Tôi mê cuộc đời hải hồ lang
bạt. Lớn lên, hai anh em cùng vào quân đội. Tôi đi lính Không Quân
đồn trú tại Pleiku.. Chú đi sĩ quan Thủ Đức đóng đồn ở Daksut. Những
ngày cao nguyên sôi động, nhiều lần từ trời cao, tôi xót xa nh́n chú
bị vây hăm dưới đồn. Anh em tuy đóng quân cùng một vùng nhưng chả
bao giờ gặp nhau. Thỉnh thoảng hành quân ngang đồn, tôi bay thấp để
chào chú, hoặc liên lạc FM để thăm hỏi sức khỏe và nhắn tin nhà, thế
thôi. Vậy mà chú Lâm vẫn vui vẻ sống cuộc đời gian khổ bộ binh. Măi
đến ngày bỏ nước ra đi, chú ra đi một ḿnh không kịp đón gia đ́nh vợ
con. Những năm tháng xa quê hương, chú Lâm vẫn sống cảnh đơn lẻ ở
một tiểu bang xa lắc xa lơ. Nhưng mấy năm gần đây, chắc có lẽ chịu
hết nổi cảnh "Đồn Lẻ Chiều Xuân" chú đă âm thầm bước thêm bước nữa
để nếm mùi "một cảnh hai quê". Thật tội nghiệp!
Hôm Tết vừa qua, nhân dịp đi công tác cho hăng ở Hà Nội. Lâm ghé
Sàig̣n thăm nhà và về làng thăm quê cũ. Một sự việc bất ngờ và cảm
động là chú Lâm đă t́m được dấu tích của Nga ngày xưa. Đuợc biết
nàng đă trốn ra Bắc năm 1956 và sau ngày Viẽt cộng cưỡng chiếm miền
Nam, nàng trở về với quân hàm Đại úy và là vợ lẽ của một ông tướng
già Việt cộng. Hiện nay nàng đang ở Sàig̣n, khu cư xá sĩ quan Chí
Ḥa và ông tướng già đă chết. Trước khi trở về Mỹ, Lâm có đến t́m
gặp nàng. Nga sững sốt mừng rỡ khi nhận ra Lâm em của tôi. Nàng vui
vẻ kể chuyện xưa về tôi với chú Lâm và nói rơ lư do v́ sao nàng bỏ
xứ ra đi. Trong câu chuyện thăm hỏi, Lâm đă cố khơi lại chuyện t́nh
ngày xưa của chúng tôi. Lâm nói: "Anh tôi vẫn nhắc nhớ về chị." Nàng
cúi đầu lặng lẽ, giọng buồn buồn: "Dạ vâng, tôi đoán thế." Và nàng
cảm động cho biết người làng đă kể: Có lần tôi một ḿnh lái xe về
thăm vườn cũ t́m lại người xưa, và người xưa không c̣n nữa. Lâm tiếp
tục thăm ḍ: "Chị có biết anh tôi ngày xưa làm ǵ không?" "Dạ tôi
biết, nghe nói anh ấy là một phi công trong Không Lực Cộng Ḥa."
"Chị có oán hận, căm thù ǵ chúng tôi không?" Nga lắc đầu cười chua
chát, "Tôi không nghĩ đến điều đó, và chẳng bao giờ nghĩ như vậy,
nhất là đối với anh ấy..."
Nàng trả lời với đôi mắt mơ màng xa vắng. Chắc có lẽ chú Lâm đă vô t́nh khơi dậy những kỹ niệm thời học tṛ của nàng. Những kỹ niệm tưởng như đă chôn vùi dưới lớp bụi thời gian sau bốn mươi năm xa cách.
Và trong buổi chiều hôm đó, theo lời nhật xét của chú Lâm. Nga như "lội ngược gịng thời gian" t́m sống lại quảng đời con gái ngây thơ, cùng với mối t́nh thơ mộng và đẹp nhất của đời nàng. V́ đó là mối t́nh đầu và mối t́nh không có đoạn cuối.
Nga Sàig̣n.
Anh Duy thân mến,
Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn giông
miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng
đă làm cho cái nóng oi bức của Sàig̣n dịu bớt. Mưa đă dứt, chỉ c̣n
những giọt nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng
hứng nước bên hiên nhà. Nghe tiếng giọt nước gơ đều đặn, rồi nghe
tiếng nhịp tim ḿnh đập, em bỗng thấy h́nh như ḿnh mang một tâm
trạng bồi hồi. Đặt bút viết là thư này cho anh, ḷng em cũng cảm
thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là
lần chào ly biệt.... Không biết rồi lá thư này có thể đến tay anh?
Nếu may mà thư đến, đọc xong anh sẽ nghĩ ǵ? Thôi em cũng liều...
Cầm bằng như gió mang đi...
Tuần trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ quan với
em trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, v́ đồng lương nhà nước trả
không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền phát
cho nhân viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước
ngoài. Ở chỗ này th́ em phải giải thích th́ anh mới rơ tại sao ngày
nay nước ḿnh lại có cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xă hội
chủ nghĩa anh em ngưng viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đă mở
cửa, khuyến khích người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương. Tuy có
lệnh kiểm soát gắt gao ở các cửa khẩu hải quan những món hàng quốc
cấm như sách báo tuyên truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham
nhũng tràn lan không có cách ǵ ngăn cản nổi. V́ thế, du khách chỉ
cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền..v.v... th́
cái ǵ to như con voi qua cũng lọt. Người dân ở quê nhà bây giờ
không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào ngày ấy tin tức đều nhai đi
nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta c̣n khôi hài nói rằng chỉ
có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền, c̣n hầu hết
đều... cuội! V́ thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo chí
bằng Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước ngoài.
Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ:
- Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng
Em chưa kịp hỏi chi ấy món quà ǵ, chị Hạnh đă dúi vào tay em một tờ báo. Chị nói:
- Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi hăy đem ra đọc. Đọc để xúc động v́ "người ta" c̣n nhớ tới ḿnh!
Nh́n trang b́a tờ báo có h́nh một nửa chiếc máy bay phản lực đậu trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa xôi, em linh cảm một điều ǵ đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm từ bên Mỹ đi công tác cho hăng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến t́nh cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng đến một điều gí đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng Ḥa lăng mạn, có thể đem chuyện t́nh hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay, em run c̣n hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán pḥng không ở Việt Bắc. Chị Hạnh trấn an:
- Làm ǵ mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công an nào dám đụng đến?
Em run không phải là sợ công an khám xét thấy ḿnh mang món hàng quốc cấm. Em run v́ không hiểu điều dự đoán của ḿnh có phải là sự thực. Em run v́ liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn c̣n nhớ đến ḿnh. Anh đừng cười em già rồi mà c̣n vớ vẩn.
Chị Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu dọc
Trường Sơn. Chị ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như ḿnh, nên em
thường nhỏ to tâm sự trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy
nghe về anh, người bạn học cùng trường thủa thiếu thời.
Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đă say giấc nồng, em
len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em
dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, "Chắc chắn là anh đây
rồi?!" Em tự nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán.
Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đă bốn mươi năm rồi c̣n
ǵ? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới
cầu! Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đă bắt đầu điểm trắng.
Chiến tranh bùng nổ, anh từ Sàig̣n về lánh nạn ở quê nhà. May mắn thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của ḿnh, nên chúng ta có một thời kỳ b́nh yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc cao khiến tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn ḿnh c̣n nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đă thấy ḷng rộn ràng vui thích như đi trẩy hội ngày Xuân. Em c̣n nhớ đêm liên hoan, anh hát bài "Nhớ Chiến Khu". Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh v́ cảm thương nỗi nhớ nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào dè anh run ...v́ ánh mắt ngưỡng mộ va say mê theo dơi của em. Th́ ra nhăn lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?
Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ư thấy cách phát âm của anh khác với những học tṛ con trai trong huyện. Chẳng hạn, "mờ mịt" th́ anh phát âm thành "mờ mịch" hay "vui quá" thành "vui góa". Và c̣n nhiều chữ độc đáo nữa...
Mới đầu bọn học tṛ trong lớp, rồi về sau bọn học tṛ của cả trường thường nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản ứng ǵ, mà chỉ nhún vai cười khỉnh rất là... Sàig̣n, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ ấy.
Anh c̣n nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức trước vụ Hè 51 không? Lớp ḿnh chia làm bốn toán mà anh th́ ở toán A, c̣n em ở toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán ḿnh, trong lúc đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện kia. Cử chỉ lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm động. V́ thế, buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh củ khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em c̣n trêu:
- Trại sinh bên toán B ăn hết "thịch" (thịt) cá rồi, em chỉ c̣n củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho "dzui"!
Chẳng những anh không giận v́ bị em nhái giọng, anh ch́a tay ra cầm củ khoai một cách hồn nhiên, mà miệng c̣n ấp úng nói ǵ nghe không rơ, em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!
Dân trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng áng cũng ra tham dự tṛ chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn vờn nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con Thủy, con gái ông Xă Tài; con Nhạn, con gái ông Lư Trân, ngồi bên em cứ huưch cùi chỏ vào hông em từng chập, mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng. Dường như lúc bấy giờ anh say sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm biết ǵ đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện ḿnh đâu có cậu học tṛ nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ư "người Sàig̣n" có mái tóc chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng anh đă lọt vào mắt xanh của bọn học tṛ con gái tinh quái ấy không?
Em c̣n nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên, th́nh thoảng anh chêm một câu pha tṛ hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe không tinh ư, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính "nghịch" ấy ngày nay anh vẫn không bỏ. Trong bài "Gịng Đời", em vẫn đọc thấy thấp thoáng cái văn phong đó. Anh cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như anh tự chế diễu ḿnh trong bài văn? Lại c̣n bày đặt tự chê ḿnh học dốt!
Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn đả viện của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học tṛ chạy xuống bờ biển nô đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh không một vẩn mây. H́nh như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi trăng mới lên. Khác với những học tṛ khác cùng lớp, anh không xuống bờ cát giỡn nước, giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi mắt đăm chiêu nh́n ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự tại, đẹp như một pho tượng! Em biết rồi, người đó đang mơ mộng v́ người đó đang yêu?! Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn?
Em là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con trai. Kinh nghiệm đời trải qua, chắc bây giờ anh đă hiểu rơ điều đó. Hồi ấy, mới thoáng thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt tŕu mến của anh nh́n em trong lớp học, ngoài sân trường, em đă đọc được ư nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là con gái, đặt biệt vào thời buổi ấy, luân lư và bản tính rụt rè của phụ nữ đâu cho phép em có một cử chỉ ǵ gọi là biểu đồng t́nh, dù trong thâm tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một ḿnh vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để... ngắm anh (!) Hoặc để luồn những ngón tay thon nhỏ của ḿnh vào tóc người yêu. Đó là cái rạo rực rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy th́ khi biết ḿnh đang có một anh chàng đang ngấm nghé.
Em đă đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. V́ sự bất cẩn của em, con nhỏ Thủy - con gái ông Xă Tài - đọc trộm lá thư em dấu trong sách cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng tiếc khiến anh sinh ḷng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái nào khác đọc th́ chẳng đến nỗi nào. Đằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên để anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng phiền trách ǵ nó. Âu cũng là tại sợi chỉ hồng không se duyên cuộc t́nh chúng ḿnh!
Ngày anh cầm tay em lần đầu (và cũng là lần cuối), em đă khóc, đă hết ḷng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố t́nh lẩn tránh em. Anh cứ lầm ĺ im lặng. Không ngờ bữa đó anh đă quyết định xuống tàu trở lại chốn phồn hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biến nhác việc học hành và công việc trong nhà. Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cung sinh ḷng trách cứ anh. Anh đă từ phương xa lại, ḿnh gặp gỡ nhau, anh gieo vào ḷng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem ḷng thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận anh hơn.
Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người trong
làng xă tập kết ra Bắc. Gia đ́nh em vẫn ở lại v́ thuộc thành phần
địa chủ. Tổng Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia
đ́nh em không bị ảnh hưởng ǵ, v́ người ta biết thời ấy ai cũng
chống Tây. Nhưng chỉ có một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng
quyền thế, thấy em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách
em trao thân gởi phận. Nếu em liều ḿnh nhắm mắt đưa chân, chắc chắn
em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh, không chấp nhận
sự hà hiếp, em bèn t́m đường lên núi để rồi ngả về phía bên kia.
Thân gái dậm trường, liều ḿnh bỏ gia đ́nh ra đi đến phương trời vô
định, em nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngă
đă đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!
Anh Duy yêu dấu,
Nhiều đêm em đă khóc, v́ nỗi bơ vơ của ḿnh nơi xứ lạ quê người. Em
nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng
quê ḿnh, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên bờ
ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ thoảng đưa
trong gió. Và em c̣n nhớ đến cái giọng Sàig̣n ngồ ngộ của anh nữa!
Sự đăi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những ǵ mà "người ta" đă ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham nhở (xin lỗi anh) t́m đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em đành nhắm mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm tuổi. Trong bài "Gịng Đời" anh kể rằng em làm lẽ một viên tướng già là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính thức hay làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu "bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!"
Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu như mỗi ngày. Đa số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam giải phóng, v́ họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, ŕnh rập. Em là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết v́ tưởng ḿnh sẽ đến một nơi như thiên đàng, chứ không phải v́ lư tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không c̣n cảnh người bóc lột người! Em chỉ tha thiết một điều: Chiến tranh sớm chấm dứt, ḥa b́nh mau trở lại để em được quay về xóm làng xưa. Em t́nh nguyện xung phong đi chiến trường B (tức là xuôi Nam ) với hy vọng nh́n lại Bố Mẹ già và đàn em dại. Em lên đường như một người t́m về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ không phải là kẻ lên đường "làm nghĩa vụ quốc tế" như người ta cổ vơ đề cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đă trở thành người phi công khu trục của chính quyền Sàig̣n. Chao ôi! có lần nào anh say sưa oanh kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn pḥng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, th́ không hiểu bọn ḿnh phải xử trí ra sao trong t́nh huống ấy? May mà điều ấy không bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ ngàng.
Có lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi cơ
thả xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ
dịp thuận tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em
cả!
Khi miền Nam được "giải phóng", em nghĩ rằng đây là cơ hội em có thể
t́m gặp người bạn t́nh năm xưa.. Em biết rằng gặp nhau th́ đôi ta
mỗi đứa ván đă đóng thuyền, không c̣n hy vọng ǵ chấp nối, nhưng ít
nhất ḿnh cũng c̣n được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy
vọng ấy vội tan biến khi em biết rằng anh đă ra đi nước ngoài. Tâm
t́nh em xen lẫn hai nỗi buồn, vui: Buồn v́ không gặp được anh và vui
v́ anh không phải rước cảnh tù đày. Anh c̣n nhớ Loan, em gái của em.
Nó kết hôn với Cảnh, một người Thiếu tá trong quân đội Cộng Ḥa.
Chồng nó bị đưa đi "học tập cải tạo", rồi chết v́ lao lực trong rừng
thiêng nước độc và v́ thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ chồng em can thiệp
cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng mà cũng
đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nh́n mặt em nữa. Chị
em cật ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà
một ḿnh em phải hứng chịu sự khinh khi của gia đ́nh? Tại sao em
phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế hở anh Duy?
Năm kia, chú Lâm về Sàig̣n, chú ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em vô cùng xúc động v́ anh vẫn giữ được trong kư ức h́nh ảnh và t́nh cảm trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế hệ chúng ḿnh chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lư khi hai kẻ yêu nhau trở nên vô t́nh quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc thế hệ ḿnh nh́n rơ chân lư để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Ḿnh phải có bổn phận nói rơ cho con cháu nên lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của người đi trước. Có như thế th́ mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao trong quá khứ.
Đúng bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao em
lá thư tỏ t́nh. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm th́
không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, (nhờ đọc được
bài văn của anh trên báo), từ phương trời này, một người đàn bà góa
bụa và mái tóc đă bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn
t́nh xa cách nửa ṿng trái đất để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh
đă cho em một chút nắng trong buổi chiều tàn, "Một Chút Mặt Trời
Trong Ly Nước Lạnh!" Đời em truân chiên đă gặp nhiều bất hạnh, nhưng
kể từ khi đọc những ḍng tâm tư của anh trên trang báo, em cảm thấy
được an ủi phần nào. Bây giờ th́ em mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm
kia có một chàng trai Sàig̣n thủa nào vẫn c̣n giữ trong tim h́nh ảnh
và kỹ niệm đằm thắm của người yêu ban đầu.
Thư viết cho anh đă khá dài. Những giọt nước mưa trên mái nhà cũng
đă thôi gơ đều đặn xuống tấm tôn. Đêm đă xuống từ lâu.. Cảnh vật yên
lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng
biển ŕ rào và âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào
nhau. Biết bao giờ hai chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng
gió chiều và nghe sáo diều trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết!
Em lại lẩn thẩn mất rồi! Đừng! Chúng ḿnh không nên gặp lại nhau để
anh c̣n giữ trong trí nhớ h́nh ảnh con bé Nga mười mấy tuổi, má lún
đồng tiền và nụ cười răng khểnh.
Em xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đ́nh gặp nhiều
sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ
sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh.
Thân ái,
Em gái anh, Nga
Tái bút: Để tránh sự kiểm soát của
nhà nước, em trao lá thư này cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện
H.O. và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm bằng đường bưu diện. Em hy vọng
rằng chú Lâm vẫn c̣n ở tại địa chỉ mà chú cho em trước đây. Đọc thư
em, ước mong anh sẽ hài ḷng khi thấu rơ tâm t́nh của em.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại