Khoác Áo Chiến Y

Darren Thăng

Dân lao động sống chung quanh rạp ciné Đại Lợi nằm trên đường Thoại Ngọc Hầu(Phạm Văn Hai) đối diện nghĩa trang Thánh Minh Tương Tế không xa ngă ba Ông Tạ là bao trước thời 75, đa số gốc gác là người miền Nam. Họ sống xen kẽ trong những dăy phố nhà lầu mặt tiền của các gia đ́nh người bắc di cư vào Nam sau năm 54, nhưng nay làm ăn đă phát đạt ra. Hàng xóm láng giềng thường gọi nhóm người miền Nam đó bằng tên mộc mạc thân thương như Bảy lé bi da, Ba Triết chuyên đào lỗ chôn người và bà Hương trầu làm bia đá mài...v.v, v́ không biết tên thật của họ là ǵ? Ngoài ra c̣n có ông Tam bán cháo ḷng có 2 người con trai tên là Tứ và Ngũ, mà cho đến nay đă bao năm qua, tôi vẫn c̣n ghi ấn tượng v́ tên tuổi của họ hơi pha nút số đen đỏ của hột xí ngầu…

Gia đ́nh ông Tam sống trong con hẻm nhỏ, đàng sau căn gác của gia đ́nh tôi cư ngụ chừng 15 thước. Con hẻm này rất hẹp, khoảng độ 1.5 mét(hơn 5 feet) là cùng. May ra chỉ vừa đủ cho một chiếc xe ba gác đi lọt mà thôi. Đôi khi phu ba gác kéo xe dzô rồi đạp xe ra c̣n va chạm đụng tới đụng lui vào bức tường thành, một bên chắn ngang nghĩa địa và bên kia là nhà của ông bà nội tôi cho ở. Con hẻm này cũng là nơi tiểu tiện bừa băi của mấy bà bán hàng rong, hay ai đó t́nh cờ đi chợ ông Tạ ngang qua mắc đái quá, xả đại bầu tâm sự cho nó xong việc. Ban ngày ban mặt mà mấy bà cứ tụt quần xuống túa xua, giải quyết vấn đề một cách tự nhiên như người Hà Nội vậy. Nếu có đám con nít nào nh́n trộm th́ có bà nổi giận, liền đứng dậy kéo quần lên nạt nộ chúng một trận. Đôi khi đụng phải chị em ta sồn sồn tiểu bậy bị bắt gặp quê độ, bèn lấy ngón tay chỉ vào phía bên dưới bụng như biểu dương khí thế “khiêu khích” đám nhỏ. Xong xuôi nóng máu văng tục, chửi xéo chửi xiên bằng những từ ngữ lỗ măng như: đéo mẹ hay tiên sư cha chúng mày cũng từ chỗ nầy chui ra, có ǵ đâu mà ḍm với ngó…

Đầu năm 1970, khi gia đ́nh tôi dọn về Sàig̣n th́ gia đ́nh ông Tam đă ở trong xóm này lâu lắm rồi. Chẳng biết gia đ́nh ông làm nghề ǵ để sống và không ai soi mói ai để làm ǵ. Tuy sinh ra và lớn lên ở miền Nam, nhưng gia đ́nh ông lại rất nghèo. Tài sản có lẽ chỉ có một căn nhà mái tôn mục nát, chung quanh đóng ván cũ kỹ thiếu điều muốn sập. Nghe đồn trước thời ông Diệm, gia đ́nh ông Tam là chủ mảnh đất lớn trong con hẻm cụt này. Nhưng v́ bản tính người miền Nam vốn lè phè, ăn ngày nào kiếm đủ ngày đó nên dần dần bán hết ráo các mảnh đất chung quanh nhà cho người khác mở xưởng guốc, nuôi heo và lập vơ đường Vô Vi Nam Việt Vơ Đạo.
Ông Tam góa vợ, ở vậy sống với con cái. Ông có người con gái lớn tên là Hương đă lập gia đ́nh ở riêng, lâu lâu mới ghé nhà thăm gia đ́nh. Kế Hương là Tứ, Ngũ, và gái út tên là Hoa độ chừng 9 hay 10 tuổi ǵ đó? Hoa mất mẹ năm lên 7 hay lên 8, nên ít khi tươi cười. Đến nay, đôi khi tôi tự hỏi tại sao con gái lại đặt tên là Hương và Hoa mà không phải là Nhất và Nhị như hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị vậy?

Gia đ́nh tôi sống trên căn gác đối diện con hẻm cụt, nên thấy rơ mọi người trong xóm nhỏ qua lại hàng ngày. Tứ, Ngũ và Hoa c̣n cắp sách đi học. Lúc đi học thấy họ ăn mặc áo trắng đồng phục cũng tươm tất lắm, nhưng không biết học ở đâu? Ban chiều, hai anh em phụ cha đẩy xe đi bán cháo ḷng ở đầu đường cho tới xẩm tối mới về. Vào năm 1971, thấy Tứ đă cặp bồ. Cô bồ rất xinh gái, mảnh mai hay ghé nhà Tứ chơi thường xuyên và mặc áo dài trắng nên đoán cô ta thuộc con nhà gia giáo, học ở trường trung học tư thục công giáo th́ phải? Năm đó, có lẽ Tứ đang học lớp Đệ Nhị (lớp 11 ngày nay). Anh ta có bồ hay mê chơi nên thi rớt Tú Tài I. Nhẩm tuổi, th́ Tứ cỡ chừng 17 tuổi và sinh vào năm 1954? Nghe nói là khi bị thi rớt Tú Tài I, th́ không được lên lớp Đệ Nhất(lớp 12 ngày nay) học tiếp. Không hiểu tại sao nữa, nhưng có lẽ nước ta đang trong thời kỳ chiến tranh nên chính phủ cần loại thí sinh diện nam giới để đôn quân bắt lính? Từ dạo đó không c̣n thấy Tứ đi học nữa. Mỗi trưa cùng cha đẩy xe đi bán cháo ḷng như thường lệ. Lâu lâu, Tứ dù đi chơi với cô bạn gái nên chỉ thấy ông Tam và Ngũ đi bán mà thôi.

Đầu xuân năm 1972, Tứ t́nh nguyện đăng lính Nhẩy Dù rồi được gởi đi thụ huấn ở quân trường Quang Trung 9 tuần lễ. Sau đó th́ học khóa huấn luyện Nhẩy Dù 3 tuần lễ ở trại Hoàng hoa Thám, tọa lạc trên ngă tư Bảy Hiền hướng đi bà Quẹo, không xa xóm chúng tôi là bao. Anh hănh diện đeo huy hiệu cánh dù thêu bằng vải đen, khâu trên nắp áo bên phải sau khi măn khóa Nhẩy Dù căn bản. Ngẫu nhiên dịp về phép, lại trùng vào thời điểm chiến sự ở miền Nam sôi động mạnh theo cơn băo Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Tứ về chơi độ 1 tuần lễ, trong bộ quân phục hoa rừng mới toanh ủi thẳng nếp. Đầu đội nón beret đỏ trông oai lắm. Anh lái xe Honđa hay đi bộ với cô bồ lúc nào cũng mặc bộ quân phục hoa dù này. Cô bồ khoác tay anh nũng nịu ra vẻ tự hào về người yêu đẹp trai là tân binh nhẩy dù, sẵn sàng chuẩn bị ngày giờ lên điểm “đi mây về gió”. Mấy thằng con nít mặc quần thủng đít, như chúng tôi trầm trồ thấy anh le lói mà tưởng tượng cũng sẽ trở thành người lính như anh dzậy. Bố tôi chứng kiến Tứ đi qua lại trong xóm và đọc được ư nghĩ của con trai ḿnh. Lúc nào cũng đam mê đời lính chiến nhà binh tuy c̣n quá trẻ. Ông vỗ vai khuyên nhủ:

- Ráng học đi con, kẻo lỡ một mai phải đi lính th́ đi sĩ quan cho đỡ cực…

Trước ngày ra tiền tuyến, có người hỏi anh đă được chỉ định về tiểu đoàn nào của Sư Đoàn Nhẩy Dù chưa, th́ Tứ nói là Tiểu Đoàn 1. Nhưng đến nay khi viết bài này và kiểm chứng dữ kiện, tôi cũng không biết hàng xóm nghe ra là Tiểu Đoàn 1 Nhẩy Dù dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê Hồng hay Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù của Thiếu Tá Lê Văn Mễ nữa?(*) Rồi Tứ lên đường không vận ra Huế vào tuần thứ 3, ngày 19 tháng 6 năm 1972. Tiểu Đoàn 1 Nhẩy Dù dự cuộc hành quân Lam Sơn 72 vượt sông Mỹ Chánh, đi tái chiếm Quảng Trị đă lọt vào tay cộng sản Bắc Việt khi miền Nam bị xâm lăng vào đầu tháng 4 năm đó.

Khoảng trung tuần tháng 7 năm 1972, đang đứng trên lan cang căn gác nhỏ nh́n qua nghĩa trang Thánh Minh Tương Tế, thả hồn phiêu bạt theo tin tức chiến sự dồn dập. Bỗng thấy một chiếc xe GMC nhà binh de đít vào đầu con hẻm nhỏ. Mấy người lính nhẩy dù mang cỗ quan tài xuống và để trên 2 chân chống đứng dưới đất. Rồi phủ lá cờ vàng Ba Sọc Đỏ lên trên cỗ quan tài. Bốn người lính khênh cỗ quan tài đi dọc theo con hẻm nhỏ vào bên trong xóm. Con nít ở đâu đâu bu quanh cỗ quan tài, ṭ ṃ quan sát xem ḥm của ai vậy? Gia đ́nh ông Tam chạy ra đầu ngơ khóc lóc ỷ ôi. Có người thân lấy tay đập nhẹ vào cỗ quan tài kêu gào thảm thiết. Sao Tứ lại ra đi sớm dzậy hả cưng…Cô bạn gái của Tứ có mặt tại hiện trường níu kéo cỗ quan tài lại, không để cho lính làm nhiệm vụ của họ. Nhưng cuối cùng mấy người lính cũng mang được cỗ quan tài của Tứ vào bên trong nhà của ông Tam, làm nhà tạm để linh cữu. Lúc quan tài đi ngang qua căn gác nhà tôi, mùi tử khí bốc ra đă nặng mùi lắm rồi. Mọi người trong xóm bàng hoàng, v́ không ngờ mới có hơn 3 tuần lễ mà Tứ đă ra đi một cách đột ngột. Ôi, đau đớn thay! Trận đầu cũng là trận cuối của đời người tân binh nhẩy dù.

Ngày đi, vinh hạnh khoác chiến y
Ngày về, vinh quang phủ cờ vàng


Vài ngày sau, chiếc xe GMC nhà binh lại đến để đưa linh cửu người tân binh nhẩy dù xấu số, đi mai táng ở nghĩa trang Quân Đội Biên Ḥa. Gia đ́nh ông Tam có mời thầy thượng tọa về nhà cúng kiến, làm lễ an táng cho người con trai theo nghi thức Phật Giáo. Cầm h́nh đi trước quan tài là Ngũ. C̣n ông Tam, hai cô con gái và cô bạn gái của Tứ th́ đi đàng sau. Đám phụ nữ con gái khóc lóc như mưa rào. Nhất là cô bạn gái bị sốc nặng, khóc đến sưng cả mắt. Bố tôi đại diện cho gia đ́nh, đi phúng điếu để bày tỏ ḷng chia buồn. Khi cỗ quan tài đi trong con hẻm nhỏ lần cuối, đôi lần bắt gặp ánh mắt của bố tôi nh́n tôi trân trân như thầm nói rằng, con thấy kết quả chưa. Trong tâm thâm không người cha nào muốn con ḿnh đi lính cả, sợ bị chết yểu…

Hiệp Định Paris được kư kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, trên danh nghĩa chấm dứt chiến tranh Việt Nam để người Mỹ rút quân về nước trong danh dự. Nghe tin hai miền Nam-Bắc bàn giao trao trả tù binh với nhau, làm ông Tam rộn ràng hẳn ra. Ông đi hết nhà này tới nhà kia trong xóm loan truyền rằng, Tứ chưa chết và có tên trong danh sách trao trả tù binh. Đến khi hết các đợt trao trả tù binh vào 2 tháng sau, cũng không thấy h́nh dáng tăm hơi của Tứ đâu cả. Nhưng mặc cho ai nói ǵ th́ nói, riêng ông Tam vẫn tin rằng con trai của ông vẫn c̣n sống và đang bị cộng sản Bắc Việt cầm giữ lại bên kia bờ vĩ tuyến…

Thời gian trôi và Ngũ cũng lớn trưởng thành, thanh niên. Tên này bỏ học đi quậy phá xóm tưng bừng. Hắn cấu kết với một tên ph́ lũ to con lớn xác thuộc diện Việt kiều sinh sống bên Miên, bị lính Khmer của chính quyền Lon Nol cáp duồng bên xứ chùa tháp vào năm 1970. Gia đ́nh tên này hồi hương về Việt Nam và sinh sống trong con hẻm cụt, sát bên nhà ông Tam. Hai tên này kết bè kết đảng trộm cắp, ma cô, buôn bán cần sa và hành hung đám nhỏ tụi tui tơi bời. Hở một cái là chúng bạt tai đám trẻ như ra vẻ tay anh chị vậy. Không biết ông Tam có biết chuyện Ngũ làm bậy không, nhưng chẳng thằng nào dám hó hé đi mét ông, sợ bị tên Ngũ trả thù? Đám trẻ nhỏ so sánh giữa anh Tứ và Ngũ như hai thái cực. Sao trời lỡ cất (mang) đi anh Tứ. C̣n thằng em ác ôn côn đồ trời đánh thánh đâm của anh, như tên Ngũ kia lại sống măi hở trời…

Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông Tam cứ đinh ninh rằng xác người trong cỗ quan tài chôn ở nghĩa trang Quân Đội Biên Ḥa vào tháng 7 năm 1972 thuộc về người khác, không phải là Tứ. Ông cho rằng Tứ vẫn chưa chết và một ngày nào đó sẽ xuất hiện trở về lại trong con hẻm cụt ven đô Sàig̣n. Riêng Ngũ và tên ph́ lũ to con đó, vẫn chứng nào tật nấy. Ăn trộm, hút sách, ma cô và làm những chuyện phi pháp càng lúc càng lộng hành. Vào một đêm đầu năm 1976, đám công an phường đến bắt hai tên này đi biệt tích, “mút mùa lệ thủy”. Ông Tam và cô Hoa nói là Ngũ bị bắt đi cải tạo, để trở thành người công dân tốt. Nhưng vài năm sau vẫn không thấy Ngũ trở về? Mất hai thằng con, ông Tam như người mất hồn. Ông không c̣n khỏe mạnh và đủ sức để nấu cháo, đẩy xe đi bán được nữa. Không biết gia đ́nh ông sống ra sao? Hàng xóm chung quanh thấy mấy người mua sỉ cho xe ghé nhà ông Tam, chở đi một số tủ thờ đóng bằng gỗ quư để có tiền sinh sống. Ông nhớ thương Tứ măi nên bị mát giây, lâu lâu lên cơn chửi đổng vu vơ mấy người hàng xóm. Nhiều người hiểu hoàn cảnh nên không chấp nhứt. Riêng tôi lớn lên sau ngày miền Nam mất, tin rằng Tứ đă chết. Anh ta đă đền xong nợ nước…

Tháng 5 năm 1996, tôi trở về Việt Nam một lần duy nhất v́ công chuyện. Nếu không tá túc ở căn nhà cũ của ông bà nội tôi để lại, chắc không bao giờ tôi nhận ra con hẻm nhỏ năm xưa được nữa. Căn gác của gia đ́nh tôi giờ đă cũ mục đến nỗi người em gái ở lại nhắc nhở rằng, không an toàn để anh bước lên đó đâu. Con hẻm nhỏ năm xưa, bây giờ nối dài từ đầu đường Phạm Văn Hai ra tới tận Lăng Cha Cả lận. Con hẻm này, cũng cùng tên đường Phạm Văn Hai mở rộng lớn. Xe cộ có thể lưu thông qua lại hai chiều dễ dàng. Nhiều nhà lầu được xây cất dọc theo hai bên đường. Nghĩa trang Thánh Minh Tương Tế rộng lớn thời xa xưa, nay đă trở thành chợ Phạm Văn Hai sầm uất. Nhà của ông Tam có lẽ nằm trong dự án nới rộng mặt đường? Người thân cho biết, ông Tam đă mất sau ngày tôi đi vượt biên được vài năm. Không ai c̣n nhắc về Ngũ và Hoa nữa. Nh́n đường lộ lớn hôm nay, chính là con hẻm cụt năm xưa mà liên tưởng đến Tứ. Tất cả như là kỷ niệm chóng qua theo ḍng thời gian. Nhưng ít ra trong con hẻm cụt này, có một người trai hiên ngang đă vinh hạnh khoác áo chiến y hoa rừng của Sư Đoàn Nhẩy Dù Việt Nam Cộng Ḥa một thời vang bóng…

Chú thích (*):
1) Trung Tá Lê Hồng là Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) cho đến ngày 30/4/75. Rồi cùng tất cả quân nhân di tản qua Guam. Năm 1981, ông từ Hoa Kỳ trở về Thái Lan, tham gia Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh. Nguồn tin xác nhận nói rằng ông chết bí mật ở khu chiến Thái Lan vào tháng 4 hay tháng 5 năm 1985, dưới bí danh Đặng Quốc Hiền, trước khi 3 cuộc hành quân Đông Tiến tiến hành về Việt Nam.

2) Trung Tá Lê Văn Mễ cũng rời quê hương vào cuối tháng 4 năm 1975. Hiện đang định cư ở San Jose, California.


A Paratrooper’s Garrison Uniform

Darren Thang

The blue collar workers lived nearby the cinema Dai Loi on Thoai Ngoc Hau Street (Pham Van Hai now), across from the Catholic cemetery (Pham Van Hai Market at present) before 1975. Most of them were born and raised in South Vietnam. Their houses were located among the successful business owners that moved from North Vietnam to escape the Vietnamese Communist in 1954. People often called the South Vietnamese neighbors by their nicknames such as Mr. Seven Cross Eyed. Mr. Triet specialized on burying dead people. Mrs. Huong liked to chew betel daily. She ran a marble tomb business in the back of the cemetery. In fact, no one really knew what their real names were. Besides, the neighborhood also had Mr. Tam (Third) who cooked rice soup for a living. He had two sons and their names were Tu (Fourth) and Ngu (Fifth). Their first names were picked from dice numbers that sounded very funny and interesting. It was like gambling to me, whenever I thought about them.

Mr. Tam’s house was built behind an alley that was away from my row house about 15 m (50 feet). This alley was 1.5 m wide (approx. 5 ft). It may be just wide enough for a carrier tricycle to go through. Sometimes, a worker pulled his carrier tricycle with a full load of merchandise into the alley and pedaled a cart out when it was empty. The racks often smashed into the walls on both sides of the lane. This alley was also a place for strangers to use as bathroom when needed. Ironically, most of the strangers were women. They went to pee during the daylight without feeling any shame at all. Their action was very simple, just like the way of Hanoi’s citizens. Unfortunately, some kids in the neighborhood were curious to see their butts when they were peeing because kids had nothing else to do. Some women felt upset about that. They acted nasty by pointing fingers at their belly buttons and started cursing at the kids. Damm you! You guys also came out of here. What is your problem?

Mr. Tam lived behind this alley for a long time before my family moved into Saigon in early 1970’s. No one knew what he did for a living and they didn’t care either. Despite of being born and raised in South Vietnam, Tam’s family was considered poor. His property consisted of a broken house with rotten siding. A gossip about Tam was that he used to own a large lot in the back of this alley. Gradually, he sold most of his land to other businesses because he liked to take it easy in life. Tam was a widower and chose to stay single to raise his three young children. He also had an older daughter named Huong who was already married and lived with her own family. Huong often came home to visit her elderly father and siblings. After her was Tu (Fourth), Ngu (Fifth) and Hoa (flower). Hoa was about 9 or 10 years old at that time and had already lost her mom when she turned 7 or 8 years old. Sometimes, I wonder why Tam did not name his daughters like First and Second from dice numbers. Then, their names would be similar like Trung’s sisters.

My family’s house was located along this alley; therefore, we had seen everyone walking by everyday. We noticed that Tu, Ngu and Hoa were students. When they went to school, they were wearing neat uniforms. However, no one could tell which school they attended. After school, two brothers helped their father sell rice soup on a busy street until night time. In 1971, people saw Tu had a girlfriend. His girlfriend looked very cute and often stopped by Tu’s house to visit him. She was seen wearing white Vietnamese ao dai to school. Tu probably attended 11th grade at well. He, however, failed his final exam that would be considered a passing grade for attending 12th grade. By South Vietnam government’s law, any male student who fails to achieve his diploma I for the 11th grade would be drafted for the army. Tu probably already turned 17 years old because he may have been born in 1954. At 18 years of age young men would be required to join the army due to the war event. In the fall of 1971, Tu no longer went to school. He helped his father to sell rice soup daily instead. Sometimes, Tu didn’t go to work because he spent time with his girlfriend.

In the spring of 1972, Tu decided to enlist in Airborne Division of the Army of the Republic of Vietnam (ARVN). He was undergoing basic military training at the Quang Trung Training Center for 9 weeks. Then he attended basic airborne course at Hoang Hoa Tham Camp for 3 more weeks. The camp was located near the intersection of Bay Hien, but was not too far away from our neighbor. Tu was seen wearing a Parachutist Badge on his uniform and a red beret when he came home to visit for about 1 week after graduation. It was coincident during the event of Easter offensive in 1972. Every time Tu went out with his girlfriend, he always dressed in his Paratrooper’s garrison uniform. His girlfriend felt very proud of him too. Kids in the neighborhood who knew him well would dream to become soldiers to serve the country just like him. My dad read the idea and said to me:

- Do well in school, son. It would give you a chance to enter the national military academy of Vietnam and become an officer in the future…

Before his departure to the battlefield, someone asked him to what battalion he would be assigned. He said the 1st Battalion of Airborne Division. Since I was still young at that time, I couldn’t remember if it would be either the 1st or 11th Airborne Battalion. Major Hong Le was a commander of the 1st Airborne Battalion and Major Me Van Le was a commander of the 11th Airborne Battalion during the Easter Offensive of 1972(*). Briefly, Tu left home on June 19, 1972 for being with the 1st Airborne Battalion which was deploying to fight Viet Cong’s invasion, near the Vietnamese Demilitarized Zone (DMZ) or 17th parallel.

In the middle of July of 1972, I saw an army’s GMC truck was trying to back up into our neighborhood’s alley. Some Paratroopers then loaded a coffin down from the truck and put it on to two stands which were laid above the ground. Soldiers covered the coffin with a flag of the Republic of Vietnam. Kids elsewhere gathered in the area with curiosity and intended to find out who the casket belonged to. Tam’s family ran to the coffin site and started crying loudly. One of Tam’s relative tried to tap the coffin and said: “Why does it have to be you, Tu?” Tu’s girlfriend tried to hold the coffin back. She didn’t let the soldiers carry the coffin into Tam’s house, the place where people normally used as a temporary funeral home in Vietnam. When the coffin passed by my house, I smelled a very strong odor of a dead body. The body may have been dead for more than a week already. The neighborhood was in shock due to Tu’s sudden death. “He left home just about 3 weeks ago”, someone said. Oh, my goodness! It was his first fight and also his last. That was so sad!

When you depart, be proud to wear a soldier’s uniform
When you return, you are honored with a South Vietnam’s flag

The army’s GMC truck returned a few days later to deliver Tu’s casket for burying at the National Military Cemetery of Bien Hoa. Tam’s family members gathered to memorialize Tu’s death and the funeral services were performed in the Buddhist’s ritual. Ngu, carrying Tu’s picture, walked in the front. Tam, Tu’s two sisters and his girlfriend were following behind the coffin. Women cried so hard, especially Tu’s girlfriend who was the most in shock. My father also came for viewing and attending the funeral. He often stared at me like telling the truth about Tu’s death. It was a result of an ugly war. No one really wanted it to happen.

The Paris Peace Accords was signed on January 27, 1973, just intended for the US ending direct military involvement and pulling the troops out of Vietnam. Based on the provisions of agreement said, prisoners of war between the North and South Vietnam would be released and allowed to return home. The news made Tam feel excited. He told everyone in neighborhood about Tu still being alive. Tu may have been captured by Viet Cong near DMZ during the Easter Offensive of 1972 and he was probably on the list of prisoner exchanges. After the prisoner exchange treaty was completed within sixty days, there was no sight of Tu. However, no matter what people said, Tam had always believed that his son was still alive and was being held by Vietnamese communist in the North…

Time flies and Ngu was growing up as a young man. He dropped out of high school at the age of 15 and became part of a flash mob on the block. He hooked up with a big boy who was also living behind the alley which was next to his house. This young man and his family just moved from Cambodia, escaping the massacre of Khmers’ soldiers who were governed under the regime of Lon Nol in 1970. Ngu and his buddy got involved in several terrible things like thieves, pimps and drug dealers. They often kicked butts and punched kids in the block to prove they were tough guys. None of the kids wanted to say anything to Tam because they were afraid of Ngu. Sometimes, kids gathered together and compared both brothers’ lives to be opposite of each other. Tu was a good man and died young, while Ngu was a bad man and still alive…

After the fall of Saigon on April 30th, 1975, Tam insisted that the soldier, who was buried at the National Military Cemetery of Bien Hoa, was not Tu. He said that Tu would return home one day. In the mean time, Ngu and his buddy were still living as outlaws under the new communist’s regime. Both of them were out of control. One night, in the early of 1976, Viet Cong’s police arrived at their houses and arrested them. They were locked up for a long time and no one knew where they were. Losing two of his sons, Tam became crazy. He was not able to cook rice soup to sell any more. Some neighbors wondered what Tam did for a living. People noticed that Tam sold some of his antique furniture to support his family. Since he missed and loved Tu greatly, Tam often walked around the neighborhood and cursed everyone he saw. However, people ignored him. After growing up, I often thought about Tu and believed that he had passed away. Tu sacrificed his life for his country…

In May of 1996, I returned to Vietnam for the first and only time. I stayed at my sister’s family, who was still living in a same house which I used to live in. That house, nowadays, was very old and its balcony was not safe to stand on. A dead end alley before now has become a busy two way street and also named Pham Van Hai. The Catholic cemetery before was turned into the Pham Van Hai Market. Tam’s house may have been built for a wider street. He died a few years later after I left the country. No one mentioned about Ngu and Hoa any more. Observing Pham Van Hai Street that day, I suddenly thought about Tu very much. It all become past just like a dream yesterday. Lastly, in my memory about this old alley, we had a courageous young man who was proud to wear a Paratrooper’s garrison uniform to serve our country knowing the risks involved…

Notes(*):
1) Lieutenant Colonel Hong Le became a Vice Commander of 1st Brigade of Airborne Division (ARVN) at the end of April 30, 1975. He and his troops left for Guam after the fall of Saigon. In 1981, Hong left the United States to join the National United Front for the Freedom of Vietnam (NUFLV), under the leader Minh Co Hoang (former Vice-Admiral of ARVN). Hong Le’s death was unknown, but may have occurred in either April or May 1985 at Thai-Lao border (resistance region), under a secret named Hien Quoc Dang. He had never attempted to enter Vietnam in any 3 campaigns of Dong Tien (the East Operation).

2) Me Van Le became Lieutenant Colonel and left Vietnam on the last day of April, 1975. He now resides in San Jose, California.




 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại