NHIỆM VỤ

Nguyễn Thừa B́nh

Đời, thường trớ trêu, nghịch lư, éo le. Có những điều ḿnh không nghĩ tới, nó cứ xẩy ra. Những điều ḿnh tin là nó sẽ xẩy ra th́ y như rằng không xẩy ra, không bao giờ xẩy ra. Tôi chưa bao giờ nghĩ là ḿnh sẽ đi Cảnh sát th́ nó dẫn ḿnh vào Học viện Cảnh sát Quốc gia ra làm ông Biên tập viên mà mấy ông Tây gọi là Rédacteur, mấy ông Mỹ gọi là Redactor. Biên tập viên, tôi chưa có một chút khái niệm nào. Cũng có lúc mơ làm thầy giáo Trung học nhưng được Bộ Quốc gia Giáo dục cho về dạy Anh văn dưới Vĩnh b́nh th́ co đầu rút cổ chạy. Giặc giả tùm lum, “thôi thi đi lính cho chắc ăn”, nhưng khi đă đậu khóa I Chiến tranh Chính trị th́ bỏ xứ hoa Anh đào không thèm lên. Về Phan thiết cho gần nhà, ông C̣ Nhị đưa làm Trưởng trại Tạm giam. Đặc biệt qua Sắc phục có mấy tháng mà phải vào Thủ đức học hơn 11 tháng mấy ngày. Trung tá Nguyễn Mâu dắt về lại Cảnh sát Đặc biệt Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Khu 2 ở Nha trang. Tháng 12 năm 1971, Trung tá Nguyễn văn Long đưa lên Gia nghĩa giữ chức Phụ tá Đặc biệt tỉnh Quảng đức. Từ đó, những vật đổi, sao dời tiếp theo, tiếp theo:

Tôi lên Quảng đức vào một xế chiều ngày mùa Đông. Gió Bấc thổi mạnh. Rừng xôn xao. Bụi hồng bay mù mịt. Trời lạnh buốt. Chiếc xe Cảnh sát phủ màu đất đỏ bazan. Bốn anh lính “đón Đại úy” đứng đó, hiên ngang đội rét trong chiếc field jacket dầy bụi phong trần, tay cầm M.16. Cảnh vật vô t́nh, lạnh lùng! Chiếc Cessna chở một minh tôi từ Nha trang đến đây, bỏ tôi đó, bay đi và đi mất. Trung sĩ Nguyễn văn Sơn lái xe. Đi theo “đón Đại úy” có Thiếu úy Lê văn Thuận, Trung sĩ Đặng văn Be và Thượng sĩ Nguyễn văn Thọ. Xe lên dốc xuống đồi, chạy qua phố chợ nhỏ nhoi, vắng vẻ, đ́u hiu! Vài người Thượng mập mờ quảng đồi xa. Tôi khe khẻ trong ḷng: “Người xót xa buồn lắm không? Không, sao lại bỏ phố lên rừng? Đi làm mây cao trên đèo vắng. Trời vào Đông có chạnh ḷng”. Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia nghèo nàn. sơ sài, lượm thượm nằm chơi vơi trên lưng đèo đường vào Quận Khiêm đức. Bên trong kia, Đại đội Hành chánh Tiếp vận của Đại úy Trương minh Dũng, người để lại 2 bài thơ “Tuư Ca” và “Bỏ Phố Lên Rừng” tôi vừa đọc một đoạn ở trên. Đại úy Dũng, sau lên Thiếu tá, làm Tham mưu trưởng Tiểu khu, thay thế Thiếu tá Quăng bị Tướng Toàn đổi “đi trong ṿng 24 giờ”. Từ những năm 1972 đến tháng 4 năm 1975, bà con ở đây thường nghe ổng hát “Nầy, nầy rót đi em từng chén buồn cay đắng. Cho ta cười trong nỗi xót xa đưa. Rót nữa đi em. Em rót đầy ly cạn. Say giùm ta, như từ thuở bao giờ...” với cái áo treillis hay civil, luôn luôn bạch ngực, tay cầm chai rượu, lon bia mà người th́ cuồng say, chếnh choáng. Có khi “Sao người bỏ phố lên rừng. Sao người không nói ngập ngừng đắng cay. Ḿnh tôi c̣n lại chốn nầy. Nửa đêm thức giấc, ḷng ray rứt buồn” ông Dũng vừa là người lính vừa là nhà thơ, khuôn mặt đ́u hiu nỗi buồn chơi vơi, chênh vênh cái tính nghệ sĩ của ổng, ai cũng mến, ai cũng thương cái tên “Dũng thuốc lào”. Tôi th́ có nhiều kỷ niệm với ổng khi là Đại úy, lúc là Thiếu tá. Cuối năm 1972, một ông Trung sĩ, lính của ổng lái chiếc Honda 68, nghêng ngang chạy lạng quạng như chọc giận trước xe Cảnh sát của tôi. Tức quá, tôi rượt, đánh anh ta té lăn lóc dưới đất, ngay bên đồn Quân cảnh mà ổng chỉ “làm ǵ nóng dữ vậy?”, không hề kẻ cả với tôi một tiếng nào. Một đêm văn nghệ trước Ṭa Hành chánh Tỉnh vào dịp tất niên năm Nhâm tư, đầu năm 1973. Đại úy Trương minh Dũng bấy giờ đă là Thiếu tá Tham mưu trưởng Trương minh Dũng, tay xách chai Hennessy cổ lùn, tay cầm ly rượu đến trước mặt tôi “Nầy, nầy rót nữa đi em từng chén buồn cay đắng. Cho ta cười trong nỗi xót xa đưa. Rót nữa đi em, em rót đầy ly cạn. Say giùm ta, say giùm ta như từ thuở bao giờ...” Tôi, ổng nốc “một trăm phần trăm”. Kế bên, Trung tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Nguyễn hữu Thiên và Trung tá Cao khánh Sang, Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia cười, vỗ tay. Người người hô “dzô, dzô”, vỗ tay theo. Vậy mà, tôi tệ quá, không nể ổng một chút nào. Khoảng giữa năm 1974, tôi cứ “húc” đại 2 chiếc Jeep lùn A2 mới toanh có gắn antenna dài thường thược, một của ổng và một của Thiếu úy Phố, Trưởng đồn Quân cảnh Điều hành ngang tàng đậu bít khúc đường khu chợ trước tiệm tạp hóa Cao Nguyên, không cho xe ai qua lại. Tôi nghe giong rặt Huế: “Thằng nào đó?” Thiếu tá Dũng hỏi. Thiếu úy Phố trả lời “Đại úy Sáu”. Chắc thương t́nh thằng nhỏ ba gai, ba trợn, ba búa, ông Tham mưu trưởng cũng xuề x̣a, xí xóa cười bỏ qua. Thiếu tá Trương minh Dũng c̣n biệt tài kể chuyện tiếu lâm, nhất là những câu chuyện “cười ra nước mắt” của hai ông Tuyên úy Phật giáo và Tuyên úy Công giáo. Đặc biệt là Công giáo của cha Cường biệt danh “Cường chịu chơi”. Một khi ngồi vào bàn ăn có Thầy hay có Cha dù chay hay mặn bất kể, Thiếu tá của ta cứ phạng ba cái chuyện “kể tầm bậy trúng tầm bạ” mấy ông nhà Chùa, mấy ông nhà Gịng. Ai cũng cười chết cha mà ổng th́ phớt tỉnh ăng lê, từ từ rút cái “điếu cầy” lận trong bụng ra, thong thả nhận thuốc, rít một hơi dài thật dài, thả hồn vào cơi Ta bà. Bây giờ Thiếu tá Trương minh Dũng, lính chuyên nghiệp mà ca sĩ th́ tài tử và nhà thơ cũng tài tử đă ra đi, đi vào cơi thiên thu ngàn trùng ngày 20 tháng 12 năm 2008 bên kẻ thù Cộng sản Việt nam. Đă hơn 2 năm qua rồi, người ta những đồng bào sống ở Gia nghĩa, ở toàn tỉnh Quảng đức, lây lan đến cả Ban mê Thuột thuở đó, chắc chắn rằng, ai cũng xót xa, bùi ngùi, thắp nén hương cầu nguyện anh vào cơi hư vô b́nh yên trăng sao, hoa bướm. Nói ǵ những người lính chiến hữu của anh, họ đau nỗi đau của anh, người chiến sĩ “Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng” mơ đời hải hồ, lăng tử “Nhất trạo giang sơn tận địa duy”. Tôi thương tiếc anh, kính trọng anh, một chiến sĩ Việt nam Cộng ḥa tài năng văn vơ, đức độ, khoan ḥa mà nghệ sĩ th́ vô cùng.

Đêm mới tới, Thượng sĩ Trang sĩ Minh “đăi cơm Đại uư Trưởng F”. Anh ta khoe có bà con với Đại tá Trang sĩ Tấn, đang là Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Đô thành. Như hồi tù Cộng sản những năm 1982 đến 1984 ở trại giam Z.30C Hàm tân có ông Đại úy lùn xũn người Huế tên Ngô đ́nh Cát, không dây mơ rễ má ǵ với gia đ́nh Ngô đ́nh Diệm cũng vơ một nắm vào “là cháu của cựu Tổng thống”. Sướng miệng, anh kể thành tích của ḿnh như thể hù, dọa mà nhắn nhe với tôi là coi chừng, rằng “tôi đă bắn hụt Đại úy Phụ tá Đặc biệt Đặng vân Anh, nhưng cũng đă bắn nát được pḥng ngủ của ổng và nát cả văn pḥng G.Nghiên cứu, G.yểm trợ. Chuyện tương tự như vậy hồi ở Kontum, cho nên tôi phải “đi đầy” xuống đây”. Thượng sĩ Minh người Nam, tính hay khoe khoan, ưa làm kẻ cả. Mỗi tối, nhà của anh ta là “Tụ điểm Thời sự” cho những anh em vào gác đêm trà dư tửu hậu, cà kê dê ngỗng những chuyện của Sếp. Ảnh có thói hay cải, không thích tuân lệnh, kẻ cả và ta đây “30 năm trời kinh nghiệm” nên cao ngạo, trịch thượng. Các ông cựu Trưởng pḥng Cảnh sát Đặc biệt Bùi B́nh, Đặng vân Anh dám làm ǵ ổng đâu? Kiểu cách nầy, hiện tượng nầy hầu như toàn thể lính lác trong đơn vị, hoặc để lộ ra hoặc che đậy, dấu diếm. Nào ông trưởng G Thẩm vấn Nguyễn đức Nhuận trách móc, chê bai “làm bở hơi tai, mờ hai mắt, các ông lớn, nhỏ quá có biết ǵ đâu!”. Nào ông Lê văn Thuận, cựu Trưởng chi Cảnh sát Quốc gia Quận Kiến đức coi trời bằng vung, “các ông Trưởng G, Trưởng F là cái thá ǵ”. Hai ông người Thượng: Y’ Gê đă được cử làm Trưởng ty Cảnh sát và K’Sim làm Trưởng ty Nội an Tỉnh Quảng đức nếu không đập tan loạn Fulro chiếm Toà hành chánh Tỉnh tháng 10 năm 1964, cứ nhùng nhằng nhũng nhẵng công vụ một cách miễn cưỡng, vô trách nhiệm. Các anh, chị em khác ăn theo, học đ̣i, coi thường cấp chỉ huy. Các ông trước gọi là Phó ty Đặc biệt, sau gọi là Trưởng pḥng Cảnh sát Đặc biệt hay cuối cùng là Phụ tá Đặc biệt là Phủng, B́nh, Anh “cả nể”, “e dè”, “ngán” cứ để mỗi nhân viên của ḿnh thành một ông vua, một tập đoàn ông vua “được chân lân đến đầu” theo tháng ngày trôi qua. Ông nào muốn “giong” về quê thăm vợ thăm con, thăm bồ thăm bịch của ḿnh vài ngày th́ cứ giong. Ông nào đă uống “ông già chống gậy” đả quá, cứ xách súng ngắn, súng dài bắn chơi đỡ ghiền, hăng máu, bắn luôn xếp như chơi. Ông nào thiếu tiền, đứng làm “chủ chứa” ngay trong đơn vị, kêu anh em bỏ gác, đánh phé, kiếm chút tiền c̣m xài qua tháng. Ông nào muốn làm, muốn nghỉ, muốn đi trể về sớm th́ cứ tự nhiên như người Sài g̣n. Ông nào muốn đôi co lớn tiếng, múa tay, đá chân, phùng mang, trợn mỏ với Sếp th́ cứ, có chết thằng Tây đen, Tây trắng nào đâu!? Tôi, không thể và không để vậy mà coi cho được. Ông Minh, tôi phạt gác đêm 15 ngày liên tục, không cho đi phép 2 năm liền, đổi đi Kiến đức làm lính cho Thượng sĩ Phan văn Lựa để “dằn mặt” những ai chẳng “coi”, chẳng biết “nể” cấp chỉ huy là ǵ. Ông Nhuận, tôi rút súng Browning bạc nhỏ chút xíu tịch thu được của thằng Phi luật tân thời làm Trưởng trại Tạm giam ở Phan thiết, định bắn dọa th́ ổng đă són đái mà muôn năm chừa tật xấu, răm rắp theo lệnh Đại úy. Cái súng nầy, tôi đă tặng cho Đại úy Hồ Hối, Đại đội trưởng Cảnh sát Dă chiến Lâm đồng khi di tản từ Quảng đức về Bảo lộc. C̣n ông Thuận, muốn làm th́ làm, muốn nghỉ th́ nghỉ. Không sao. “Bất cứ ai vắng mặt bất hợp pháp, đều nhận lệnh phạt”. Thượng sĩ Thuận một lệnh phạt không sợ, hai lệnh phạt chưa sợ, ba lệnh phạt đă rung rinh. “Lệnh phạt thứ tư, tôi sẽ sa thải anh”, ông Thuận sau nầy trở thành một nhân viên gương mẫu, “kính và mến Đại úy Phụ tá”. Có Trưởng F. Đặc biệt nào trên toàn cơi nước Việt nam Cộng ḥa bắt lính của ḿnh phải “chùi súng”, phải bị “khám súng” phải “hít đất”, phải “nhảy xỗm” và trưa nắng phải ra sân tập cơ bản thao diễn “một, hai, ba, bốn, dậm chưng tại chỗ”, “chào tay”, “súng chào bắt”, “súng cầm tay bắt”, “trái, phải, trước, sau quây”? Tôi. Chỉ có tôi thằng ngang tàng, ĺ lợm, ít biết sợ ai, nhưng biết trọng kỷ luật, trật tự mới làm như vậy thôi. Những chuyện chướng tai gai mắt kỳ dị như thế làm sao tồn tại dưới hai con mắt của tôi, cái thằng trời sinh ra tính bướng bỉnh, tính chưa biết run. Mười một tháng Quân trường Quang trung, Thủ đức dạy tôi phải làm như vậy trong một tập thể như vậy mới được như vậy về sau đâu ra đó, đâu vào đó. Kỷ luật. Kỷ luật. Có ai bắn tôi đâu? Nhân viên có tệ như xửa như xưa nữa đâu? Tôi biết ở đây, cái Thị xă nhỏ không lớn hơn ṿng đai chiến đấu của một Tiểu đoàn lính. Tiệm ăn, duy nhất chỉ có một tiệm Tàu Đất của ông bà ngườ́ Tàu trôi sông, lạc chợ lên đây. Cho nên có lạ ǵ đâu, bữa cơm đầu tiên của tôi lại ở nhà người lính của ḿnh. Anh em đến “chào Đại úy Trưởng F” vừa để nh́n mặt cấp chỉ huy của ḿnh có “mét” như Lưu Bị, có “đỏ” như Quan Cộng và có “đen” như Trương Phi không để mà ăn hiếp. Xí xô xí xào các giọng Nam, Trung , Bắc, Rhadé, M’nông...kể rằng “ai đă lên đây, đă ở đây đều là dân “tứ chiếng”, thành phần “vô kỷ luật”, “nghèo”... Tứ chiếng v́ có đủ anh hào ”bốn vùng chiến thuật”. Vô kỷ luật v́ ba gai, ba trợn, ba búa không ai thèm xài mà quăng lên đây. Nghèo v́ không có tiền “chạy” nên phải lặn lội đến đây “đường không số, phố không đèn, mưa lầy, nắng bụi”. “Không quậy mới là lạ”. “Nề nếp, khuôn phép mới là lạ”. Nếu nói có một Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Tỉnh nào đặc biệt nhất nước Việt nam Cộng ḥa th́ đó là Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Tỉnh Quảng đức và F. Đặc biệt th́ F. Đặc biệt Tỉnh Quảng Đức. Có những điều người ta nói thật, không ai tin bao giờ, c̣n bị chê là láo, khoác lác. Có những điều người ta bịa ra th́ nhiều người khen hay c̣n cho là đáo để. Cho nên, chắc cũng có người gán cho tôi cái tội “nổ như tạc đạn”. Không sao. Tôi có nói “gần 4 năm làm Phụ tá Đặc biệt ở đây, tôi không dính dáng với ai một đồng cũng như không có tiền đóng hụi sống, hụi chết cho ai một xu, chỉ có trời mới tin”. Đó là sự thật một trăm phần trăm. Một phần tính bặm trợn mà lương thiện của tôi người ta cho là ngu, một phần ở đây có cái ǵ mà ăn với uống, có chăng, cái khố dơ của mấy anh Thượng che “cu”, cái xà rong mấy mụ Thượng dấu “bĩm.

Người ta nói: “Quảng đức lớn không bằng ai, có ǵ mà làm?”
Xin lỗi. Ngành Cảnh sát Đặc biệt vốn đa đoan, lắm chuyện và ê hề rắc rối th́ nhỏ, lớn dù khác nhau cái bề thế nhưng giống nhau cái hậu trường “Trận liệt”, “Địa phương chí” hết sức mệt. Mỗi tỉnh, nó có những cái khó, cái khác nhau hoàn toàn, đố đâu giống nhau cho được. Ở B́nh đinh của ông Phan quang Nghiệp, ở Phú yên của ông Phạm đức Hoàng, ở Phan thiết của ông Trần văn Thả hay ở Pleiku của ông Tạ văn Quờn, ở Khánh ḥa của ông Nguyễn văn Độ, ở Ninh thuận của ông Nguyễn văn Thắng...không có ông K’Bi gốc người M’nông, Mạa hay K’ho làm Chủ tịch Hội đồng tỉnh, gây khó chịu hết sức; Không có ông Dân biểu học lớp Ba “kênh x́ po” lấy oai, làm mệt anh lính “bảo vệ yếu nhân” và các ông Tỉnh trưởng, Cảnh sát trưởng, F trưởng...; Không có những ông lính, những ông cảnh sát, những ông công chức thường là lư do kỷ luật mà lên đây phá phách dữ; Không có tỉnh Mondolkiri của Campuchia giáp ranh với Việt nam. để lại nhiều phiền hà băng đường biên giới; Không có giàu kinh tế làm nghèo xơ nghèo xác từ dân tới ông lớn, ông nhỏ chức quyền địa phương; Không có cột mốc “Ba Biên giới” mấy ông Tây cắm dùi thời Pháp gọi là “Trois Frontières” có ba mũi tên chỉ Vietnam, Laos, Cambodge ở ngả ba Dakson mà hiềm khích liên tù t́ chuyện đại sự quốc gia; Không có ông Trung sĩ An ninh Quân đội Nguyễn đ́nh Khôi bắt ông Đại tá Hồ Nghĩa thoái vị Tỉnh trưởng ngày 1 tháng 11 năm 1963; Không có “CIDG” là Civilian Irregular Defense Group mà ta gọi là Dân sự Chiến đấu, Lực lượng Đặc biệt, Biệt động quân Biên pḥng trấn yên biên thùy Việt-Cambodge phiền nhiễu biết bao; Không có “Fulro” viết tắt từ Front Unifié pour la Libération des Races Opprimées nổi loạn, giết lính Quốc gia người Kinh, chiếm Toà Hành chánh Tỉnh Quảng đức... vân vân và vân vân....làm sao nói cho hết?.

Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng ngày tôi mới tới là Trung tá Hoàng công Duân thay thế Trung tá Đặng hữu Hồng tử trận trên Quốc lộ 14, chặng đường Kiến đức đi Đức lập. Đâu chừng một, hai tháng sau đó, Đại tá Phan đ́nh Niệm thay thế chức Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tỉnh Quảng đức. Đại tá Niệm, b́nh dân mà cương quyết, t́nh cảm mà nguyên tắc. Ổng thường chào tay trước khi ḿnh kịp chào và chữ kư th́ to dềnh dàng và rơ ràng ràng Phan đ́nh Niệm. Một hôm Đai úy Srưn, người Thượng, Tiểu đoàn trưởng một Tiểu đoàn Địa phương quân ở Quận Kiến đức gặp Đại tá Phan đ́nh Niệm, xin bảo lảnh mấy người bà con bị G. Đặc biệt Quận Đức lập bắt v́ tội hoạt động cho Việt cộng. Tôi được gọi vào Ṭa Hành chánh Tỉnh hỏi ư kiến. Tôi nói “nếu Đại úy làm giấy bảo lảnh, “cam kết” những người bà con của ḿnh không liên hệ với Việt cộng và “bảo đảm” sau nầy họ không có hoạt động cho Cộng sản. Nếu được Đại tá phê thuận th́, tôi thừa lệnh thả họ về”. Đại úy Srưn chối bải hải và “cám ơn Đại tá, cám ơn Đại úy” ra về. Một buổi họp Phụng hoàng Tỉnh dưới sự chủ tọa của Đại tá Đạm, Phụng hoàng Khu II. Một anh Chuẩn úy bước vào, tay cầm chắc nịch một trái lựu đạn M.26 không c̣n chốt an toàn và sẳn sàng cho nổ bât kỳ lúc nào. Ảnh dính theo Đại tá Niệm không xa một lóng tay. Ai dám bắn, lỡ lây Đại tá th́ chết. Hôm đó Chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh, Tư lệnh Phó Quân đoàn II về Tiểu khu thanh tra việc pḥng thủ. Một bữa cơm được dọn ra mời Chuẩn tướng và phái đoàn. Ai cũng run trong bụng, ăn với uống cái ǵ, cứ chăm chăm ḍm anh Chuẩn úy có rục rịch cái ǵ là “dzọt” lẹ mà trốn, mà chạy mà cũng có thể nát thây tại hiện trường một cách oan uổng như chơi. Cuối cùng anh ta bị xô xuống đồi Tiểu khu và bị bắn chết. May ảnh không phải là đặc công đặc kiết ǵ của Việt cộng cả, không th́ tướng, tá, úy...c̣n mạng nào sống. Cũng tội cho anh ta, người bắt phải nhận “quầy hàng quân tiếp vụ” mà sạch bách “hàng quân tiếp vụ”. Chuẩn úy xin không nhận. Đại tá bắt phải nhận. “Quân lệnh như sơn”, anh Chuẩn úy chết v́ người ta “ăn” không chừa thứ ǵ trong kho “quân tiếp vụ”. Nhận chức Trưởng Quầy hàng Quân tiềp vụ để mà chết à! Hóa ra, không nhận cũng chết và chết thảm nữa chớ. Pḥng họp hôm đó có đúng con số kỵ 13, 13 người, dĩ nhiên có tôi, Trưởng F Đặc biệt là một hội viên. Xin kể: Đại tá Đạm Phụng hoàng Khu 2, Đại tá Niệm Tỉnh trưởng, Trung tá Sang Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia, Thiếu tá Quảng Tham mưu trưởng Tiểu khu, Đại úy Đề Trưởng ty An ninh Quân đội, tôi Trưởng F Đặc biệt, Đại úy Tư Trưởng pḥng 2, Đại úy Văn Trưởng ty Chiêu hồi, Duyệt, Tỉnh đoàn trưởng Xây dựng Nông thôn, Kỳ Chỉ huy phó Thám sát Tỉnh, Đại úy Khen Phụng hoàng Tỉnh, cô thư kư đánh máy và một người nữa quên tên, có thể là Đại úy Khánh, Quận trưởng Quận Khiêm đức trước khi lên Thiếu tá hoán chức Quận trưởng với Thiếu tá Hiếu. Có phải tại con số 13 hay tại hai đêm trước đó có một con đỏ, cũng có người gọi là con mang chạy vào Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Tỉnh, băng qua Toà Hành chánh Tỉnh, bang xuống Tiểu khu? Bởi chỉ cách đó vài năm, cũng một chú đỏ lang thang ngoài khu phố chợ mà hai dẫy phố và chợ Gia nghĩa bị tiêu tùng. Trung tá Sang tin dị đoan biết mấy, đă áo dài khăn đóng cúng với kiến rồi, vậy mà vẫn không thiêng. Một phen Đại tá Phan đ́nh Niệm hết hồn! Anh trung sĩ lái xe Đại tá đứng bắn “kẻ mưu loạn” bị thương cụt cái chưng.

Đại tá Phan đ́nh Niệm về B́nh định làm Tư lệnh Sư đoàn 22, thay thế là Trung tá Cao văn Chơn. Trung tá Chơn quá tĩ mĩ, chi tiết, không được một chút nào rộng răi như Đại tá Niệm. Chỉ một cái lệnh hết sức tai hại mà c̣n một chút nữa chết biết bao nhiều người vô duyên, vô lư, trong đó có nhóm thằng tôi. Một sáng tại Tiểu khu, ông bạn Tư, Thiếu tá Trưởng pḥng 2. Ông Chỉ huy phó Thám sát Tỉnh Nguyễn văn Kỳ và tôi, trưởng F. Đặc biệt thuyết tŕnh không giống nhau địa điểm xuất hiện Đội công tác B.10 của Phạm Trị ở Đạo nghĩa mà “các ông đơn vị trưởng phải đích thân đi phối kiểm”. “Đích thân đi phối kiểm” để Pḥng 2 Tiểu khu phải đi đoong một ông Thiếu tá, một ông Trung sĩ và thêm vài người lính nữa bị thương. Hên, tôi cả chục người và Thám sát Tỉnh cũng chừng ấy người không sao cả. May là ông Trung tá Cao văn Chơn nầy chỉ làm ông Tỉnh vơn vẹn đúng một tháng th́ bị “tống cựu” để Trung tá Nguyễn hữu Thiên được “nghinh tân” thay thế. Trung tá Nguyễn hữu Thiên người Nam, dễ dăi, vui vẻ, hiền ḥa. Làm việc với Trung tá Thiên, tôi có hai việc đáng nhớ: Việc thứ nhất là chủ tiệm tạp hóa Khải hoàn cũng là một “huyện đề” bị G.Công tác của Thiếu úy Lang bắt. Lẻ ra, Pḥng Cảnh sát Tư pháp của Trung úy Cơ làm việc nầy v́ thương gia nổi tiếng nầy ở đây đang “tố” x́ phé. Ổng bị Cảnh sát Đặc biệt bắt v́ “tụ tập đông quá năm người”, t́nh nghi hoạt động chính trị. Trung tá Thiên muốn ban “lệnh cấm cố đương sự với những cá nhân liên hệ vào Đức xuyên”. Tôi cố thuyết phục rằng “vi phạm của các đương sự có tính h́nh sự không nặng. Yếu tố chính trị không có và nếu có th́ cũng không đáng nguy hiểm đến nổi nhận lệnh cấm cố”. Tôi biết, ông nhà giàu Khải hoàn không được ḷng và v́ sao không được ḷng ông Tỉnh trưởng mà c̣n chút nữa phải vào Đức xuyên “nằm ấp” nhiều năm biệt xứ. Việc thứ hai là, khoảng 10 giờ sáng Chủ nhật ngày 28 tháng 1 năm 1973, sau Hiệp định Paris chưa hơn một nửa ngày ráo mực. Trung tá Thiên gọi tôi qua Toà hành Chánh, bảo “Anh ra Nghi xuân coi tụi thằng Thiện sao “loạn cào cào” với mấy thằng trong rừng ra như vậy?” Tôi kèm theo một số lính Biệt đội Cảnh sát Đặc biệt lấy từ Cảnh sát Dă chiến qua và lính Thám sát Đặc biệt Special Reconaissance Unit, tiền thân của Đơn vị Thám sát Tỉnh Provincial Reconnaissance Unit, thường gọi tắt là PRU lên đường. Rơ ràng Đại úy Thiện, Chi khu phó Quận Khiêm đức đang bối rối, không biết giải quyết làm sao. Lính Việt nam Cộng ḥa, lính Việt cộng và dân ở đây đang “ăn Tết” với nhau một cách thái b́nh. “Chết cha!”. Phải làm sao? Phải rồi, “dụ khị” mà bắt về. Về G. Công tác lập biên bản: “một Đại đội Phó, một Trung đội trưởng, một Y tá, một Truyền tin và ba khinh binh với 06 AK 47, 03 B.40, 01 K.54, 01 máy truyền tin, 10 lựu đạn nội hóa, 01 radio” T́m Trung tá Tỉnh trưởng báo cáo, Trung tá Nguyễn hữu Thiên sợ vi phạm hiệp định, tảng lờ, đi vắng. Gặp Trung tá Chỉ huy trưởng, Trung tá Cao khánh Sang lúng túng, lo ngại “giao anh giải quyết”. Tôi cứ nghĩ là, bên nào, không làm đúng “ngừng bắn tại chỗ “an in-place cease-fire”” và “các đơn vị quân sự ở nguyên vị trí “remain in-place”” là vi phạm Hiệp định Paris phải được giữ lại và giao cho “Ủy ban Liên hợp Quân sự Bốn bên “the Four-Party Joint Military Commission”” hay “Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát “the International Commission of Control and Supervision””. Hơn nữa, bảy người với súng đạn đầy đủ, ai biết họ tấn công ḿnh hồi nào? Đêm đó, Xă Đạo nghĩa bị đánh. Khắp nước Việt nam Cộng ḥa bị đánh. Ai tin tụi Việt cộng bao giờ? Tiền hung, hậu kiết, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tỉnh Quảng đức, Trung tá Nguyễn hữu Thiên “cấp Đại úy Sáu một Anh dũng Bội tinh Ngôi sao Đồng” đầu tiên trong năm 1973 của Tiểu khu Quảng đức. Trung tá Cao khánh Sang hết sợ Bộ tư lệnh quở, không ngần ngại “khen Đại úy Sáu điếc không sợ súng”. Một sáng ngày vào Thu nơi phi trường Nhơn cơ thuộc Quận Kiến đức, một chiếc C-47 hạ cánh. Một chàng trai người Thượng hết sức gấp rút cỡi chiếc Honda 68 màu đen trong bụng chiếc máy bay vụt ra. Đáng nghi ngờ! Đáng ngạc nhiên! Một “Mission impossible?” Tôi rượt theo. Đương sự xả hềt ga chạy vào hướng Bukso 3. Tôi cho G. Đặc biệt Ḱến đức chặn đường y về. Chừng một giờ sau, anh chàng vùn vụt chạy bất kể trở về đường cũ. Một cách phách lối, ngang ngược, trịch thượng “các ông làm chậm công việc của tôi, các ông chịu trách nhiệm”, “phi cơ đậu lại phi trường, chi phí bao nhiêu, các ông phải cáng đáng”. Giận rồi, thằng máu anh hùng rơm của tôi nổi lên “mầy không nói rơ ràng đến đây đi đâu, làm ǵ, với ai...tao c̣ng tay bây giờ”. Thượng sĩ Phan văn Lựa đem cái c̣ng số 8 ra. Nhiều anh em sấn tới. “Nói không, tao c̣ng, nhốt ngay”, tôi lớn tiếng. Thấy không êm, nó nói “em liên lạc với mấy Mục sư Tin lành. Không có ǵ khác”. Biết rằng, tên nầy chẳng là Việt cộng, Việt gian, Việt lậu ǵ hết trơn, tôi tha cho đi. Tôi có tŕnh bày lại vịệc nầy cho Trung tá Tỉnh trưởng Nguyễn hữu Thiên và Trung tá Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Trần ngọc Giang. Hai ông đều giống nhau “tổ chức CIA hết trơn”. Bây giờ tôi nghĩ, trước khi bỏ Việt nam Cộng ḥa, Mỹ chắc chắn có gài người ở lại. Gài ai không biết, nhưng các Mục sư người Thượng ở Cao nguyên th́ chắc.

Tôi không nhớ chắc ngày, tháng, có lẻ là cuối năm 1973 hay đầu năm 1974 ǵ đó, Đại tá Phạm văn Ngh́n từ Quân khu 2, được Trung tướng Nguyễn văn Toàn cho về làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Quảng đức, thay thế cho Trung tá Nguyễn hữu Thiên tại sân chào cờ Toà hành chánh Tỉnh vào một sáng trời Cao nguyên lành lạnh. Người ta nói với nhau: “Quan Năm đi, Quan Sáu về” hay “tống cựu, nghinh tân Năm Ngàn, Sáu Ngh́n”. Đại tá Ngh́n trông oai dơng, anh hùng và như thể ôm đồm đeo hết gánh nặng chiến tranh Việt nam vào người. Ổng lúc nào cũng trực thăng vi vút trên trời cao với truyền tin xè xè, nón sắt hai lớp ch́nh chịch, dây ba chạc nhà binh dềnh dàng, bi đông nước bên hông, lựu đạn trên ngực, súng lục bên sườn, lính theo hầu và “escort” rườm rà, ai thấy cũng khép nép, e dè. Nhưng “nước rặt mới biết cỏ thúi” hay “cháy nhà mới ra mặt chuột”, ông bà ta nói đúng lắm. Trung tuần tháng 4 năm 1975, ổng ngán Việt cộng “úp đồn” nên sau đó đă “dzọt” ngọt sớt về Lâm đồng, trốn biệt tích. Không biết có rủ Trung tá Trần ngọc Giang, Chỉ huy trưỏng Cảnh sát Quốc gia Tỉnh Quảng đức đi theo không mà Quảng đức đ́u hiu những ngày sắp chạy, không thấy ông nầy và cũng chẳng thấy ông kia? Nghe nói hai ổng là ngựi anh em cùng Khóa 4 Bis Cương quyết Thủ đức lên Đà lạt học cùng thời Khóa 10 Trần b́nh Trọng Vơ bị. Rất tiếc, có ông nhà báo, có phải “nhà báo nói láo ăn tiền” và một ông pháo binh, pháo binh mà dám nhận đă chỉ huy “chạy trốn” Việt cộng, làm như Tiểu khu Quảng đức chết tiệt hết trơn, cả gan nói ông Đại tá đă ở lại tử thủ. Hồ đồ! Tôi nhớ một lần được Đại tá triệu qua Toà Hành chánh Tỉnh, bảo “người ta báo cáo ông Thiếu tá Quận trưởng Hồ viết Lượng đă cướp cà phê của ông Trần trọng Lưu và vợ th́ tranh đoạt mua bán, đầu cơ phân bón với dân. Đại úy ra điều tra. Báo cáo ngay trong ngày”. Ổng đứng dậy, không bắt tay, không một lời nào và kênh kênh thói người chỉ huy đầy quyền lực. Tôi đứng nghiêm, chào tay và “tuân lệnh”, đi ngay. Tôi, tài xế và hai anh lính hộ vệ mấy giờ sau đă đến Đức lập. Phải thật mau. Tôi vào Tư minh gặp cha Thanh?, lên nhà gổ gặp đại diện ông triệu phú cà phê Trần trọng Lưu, xuống chợ gặp chú Chệt dính dáng ba cái chuyện phân bón, đâu c̣n giờ ǵ nữa mà vào Quận đường gặp ông Lượng. Về làm báo cáo, một báo cáo không có lợi một chút nào cho ông Quận trưởng gốc “Cọp Ba Đầu Rằn” nầy. Sau đó mấy hôm, cái tên, cái cấp, cái chức Thiếu tá Hồ viết Lượng, Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Chi khu Đức lập bị xóa. Trung tá Nguyễn cao Vực về thay thế cho đến hồi Quận Đức lập bị tụi Việt cộng đánh chiếm ngày 9 tháng 4 năm 1975. Những tháng trong năm 1974, các tin tức liên quan nhiều người trong Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Hành chánh Xă Đạo nghĩa có tiếp xúc, tiếp tế cho Việt cộng được ghi nhận. Nhân Đại úy Nguyễn văn Diệp, Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Quận Khiêm đức, nguyên là Biên tập viên Khóa 3 Học viện Cảnh sát Quốc gia phàn nàn “cái ông Xă trưởng Nguyễn văn Mao ỷ thế Thiếu tá Nguyễn văn Khánh, Quận trưởng Quận Kiến đức kiêm Chi khu trưởng Chi khu Kiến đức, coi thường Cảnh sát. Lính của tôi chận xe đ̣ của ông ta lại khám xét, ổng có bao giờ ngừng, cứ phăng phăng chạy luôn, có khi c̣n diễu cợt”. “Để tui”. Tôi nói mà ḷng vừa tức cái tên Xă trưởng nhà quê mà cũng giận cái ông Đại úy nhà ta nhát gan mà b́nh thường, “mưu chước” sâu thăm thẳm lắm mà!. Đụng tới mấy ông Hội đồng Tỉnh, Hội đồng Xă bị toi mạng như chơi. Biết mà! Tôi làm phiếu tŕnh xin bắt gần như toàn thể Ủy ban Hành chánh Xă và Hội đồng Xă của Xă Đạo nghĩa lên Đại tá Tỉnh trưởng Phạm văn Ngh́n thông qua Trung tá Chỉ huy trưởng Trần ngọc Giang. Lệnh hành quân, công vụ lệnh, Đại tá Tỉnh trưởng kư. F. Đặc biệt bắt trọn lơn cả chục tên “ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản” êm ru. Lạ, sau đó ông Quận Khánh thấy ḿnh từ xa đă chào, tới gần bắt tay. Ông Xă trưởng tơ lơ mơ, ngông nghênh của Thi xă Gia nghĩa tên Xuân đă biết “lễ độ” mà khúm núm. Ông Trưởng ty Tài chánh ỷ thế cầm “hầu bao” của Tỉnh mà lớn lối, đă biết sợ tội lem nhem, bây giờ mềm mỏng một thưa Đại úy, hai thưa Đại úy. Ông Trưởng ty Xă hội không rơ can cớ ǵ “biếu Đại úy cái mền Đại hàn, đắp ấm mùa Đông”. Ừ, chắc ổng ngán đồ cứu trợ nạn nhân chiến cuộc không chân mà “chẩu” hết chăng? Đời, cái nầy nó dính cái kia. Mấy ông quan cai trị cái xứ Đức lập nhỏ nhoi mà giàu cà phê nầy liệu hồn, trái ư Cha là bị “bứng” ngay; Không “có ǵ” với Tá của Tỉnh và Tướng của Khu th́ “mất chức” là đương nhiên, không vô tù là may. Thiếu tá Lượng chạy đâu cho khỏi nắng!? Báo cáo của tôi chỉ là một trong nhiều cái cớ để mấy ông lớn có danh chánh, ngôn thuận “nhổ” người ta đi mà thôi.

Nói tới Quảng đức vào cái thời tôi làm việc mà không nhắc tới Dân biểu Vương sơn Thông là một thiếu sót đáng phiền hà. Tôi lên đây đă có ổng và cuối cùng vẫn c̣n ổng. Dân biểu Vương sơn Thông lúc nào cũng “diện” bộ râu và “kẻng” áo quần theo “mode” kênh kênh của Phó Tổng thống Nguyễn cao Kỳ. Trước khi về đơn vị Thị xă Gia nghĩa để “nhá”, bao giờ ông ta cũng gửi thông báo chỗ nầy, chỗ kia. Tôi nhận một lần nhiều công điện, văn thư...của Bộ tư lệnh Cảnh sát Quốc gia ở Sài g̣n, của Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Khu 2, của Tỏa hành chánh Tỉnh Quảng đức và của chính văn pḥng ông Dân biểu...bảo “cần bảo vệ”. Chú Nguyễn văn Mùi của tôi được ủy thác lo công tác “bảo vệ yếu nhân” cho ông Dân biểu thích làm “le” nầy. Dân biểu Thông, người Bắc, thợ chụp h́nh, học lực Tiểu học. V́ một Tỉnh vỏn vẹn bốn chục ngàn dân, đa số là sắc tộc thiểu số người Thượng với một nhúm người Kinh không lưu luyến ǵ ở đây nên một người như ông Vương sơn Thông có một chút giảo hoạt, đắc cử Dân biểu cũng không khó, không ǵ lạ. Người ăn học, dẫu ǵ cung cách cũng có văn hóa. Ông Dân biểu nhà ta bởi “cóc nhảy bàn thờ” nên cư xử dễ bị người ta ghét, chê là dân làng chàng, lạng quạng. Tôi mấy lần không cho Trung sĩ Mùi làm nhiệm vụ một người bảo vệ yếu nhân cho ông ta v́ bị xử dụng như tay sai vặt. Ổng nói với Bộ tư lệnh, với Tỉnh trưởng, với Chỉ huy trưởng rằng, th́, là “Đại úy Sáu không hợp tác”. Thay người khác, ổng không chịu và nhứt nhứt “tôi chỉ cần anh Trung sĩ Nguyễn văn Mùi mà thôi”. Mấy ông lớn “thôi kệ”. Tôi bực, “kệ th́ kệ” cũng chẳng chết thằng Tây nào. Có điều, không đúng, không được. Không đúng, không được th́ làm ǵ bây giờ!? Một hôm, trên dốc lên chợ. ông Dân biểu đă xă “lù” nước xe ba gác của anh đổ nước mưón, xém chút nữa đánh lộn với người cử tri hèn kém của ḿnh. Coi được không!? Hỏi ra, v́ anh đổ nước đă không đổ nhà ông Dân biểu trước. Anh đổ nước bảo “ai kêu trước, tôi đổ trước, ổng kêu sau, đổ trước sao được. Dân biểu là cha sao? Muốn làm cha sao không vô nhà Gịng đi tu?” Có lẻ như vậy mà Cha Thanh ở Đức Lập, cha Hạnh ở Gia nghĩa, cha Mauriceau người Pháp bên gịng suối Đăk nông nói hoài: “Đại úy Sáu ra làm Dân biểu đi, Cha ủng hộ cho”. Tôi đâm lo: “cám ơn Cha, con không làm được”. Ở đây, tôi dám cả quyết là, nếu được các Cha đưa lên hay hạ xuống th́ dễ như trở bàn tay và chết cũng không khó như giỡ bàn chân. Dân biểu hay biểu dân không phải nghề của ḿnh, không dại dấn thân

Dĩ nhiên c̣n rất nhiều chuyện, sao kể cho hết. Chuyện ông Hà thúc Trân, không biết có bà con họ hàng ǵ với Đại úy Hà thúc Nhơn ở bịnh viện Nguyễn Huệ Nha trang hồi xưa? Đă đơn thương độc mă đem súng qua Tiểu khu bắn chơi; Chuyện ông Thiếu úy Hoàng nhậu đả trong nhà một người Thượng, cởi hết áo quần ra, trần truồng nằm trên chơng, không c̣n biết trời trăng, mây nước; Chuyện ông Thiếu tá Phi, trưởng pḥng 4 Tiểu khu mê gái quán Mây Hồng bắn đại úy Đănh, Chủ sự Pḥng Cảnh sát bị thương rồi kê súng vào màng tang “đoành” một cái, chết tức th́; Chuyện mấy anh lính Cảnh sát Dă chiến Ngữ Lùn, Mười Sủi, K’lanh thử súng M.79, K.54, M.16 đùng đùng hoài; Chuyện Đức ṛm, buồn trời hiu quạnh, lấy dao “phụp” hai ngón tay, gói lại làm kỷ niệm; Chuyện Thượng sĩ già Nguyễn văn Thọ muốn đi phép th́, lấy súng bắn chỉ thiên, khóc như con nít, lăn lóc dưới đất: Chuyện ông thầy thuốc Bắc tên Bảy Trí, Bí thư Nhân xă Cánh mạng Đảng ghét cay ghét đắng Thiếu úy Lu đă bắt ông ta, lập biên bản có liên hệ với Cộng sản mà ác cảm với Cảnh sát. Thiếu úy Lu sau nầy lên Đại úy, làm Chỉ huy trưởng Quận Kiến đức, chạy nhanh hơn ai hết khi Quận bi Việt cộng tấn công làm nát bét; Chuyện Trung tá Sang chỉ hơi hơi thiếu kích thước một chút mà những anh chàng lính hỗn hào ghi mấy gịng “Người lùn gieo máu lửa” làm Trung tá sôi gan...bỏ qua, v́ có t́m ra thủ phạm đâu mà sát thủ. Cho nên, ở đâu cũng có cái sự đời rắc rối. Mỗi địa phương có những cái khác nhau. Tựu chung đều nhiêu khê, đa đoan mà chúng ta, những người có trách nhiệm phải giải quyết và đă giải quyết một cách xuôi chèo mát mái. Những người anh em Học viện Cảnh sát Quốc gia không hổ thẹn xuất thân từ một ḷ đào tạo nhân tài. Họ là những người trai trẻ, học thức, nhiệt t́nh và tinh thần Tổ quốc, Công minh, Liêm chính. Ngồi đây không phải ôn cố tri tân mà ngồi đây viết đôi gịng chuyện xưa cũ để ḿnh nhâm nhi thuở một thời hiên ngang, xông pha và tiếc nuối mộng giang tay xây dựng cơ đồ một sớm một chiều tan hoang. Người ta nói, một câu nói ngậm ngùi, ứa lệ: “bại binh chi tướng, bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu, bất khả ngôn trí”. Đă là tướng bại trận th́ không thể nói là tướng mạnh. Đă là quan mất nước th́ không thể nói là quan hay. Thấm thía biết chừng nào! Bổng nhói trong ḷng, tôi xuất khẩu làm thơ, bài thơ Vụn Vỡ để nhớ thật nhiều, thương thật nhiều anh em một mái trường mẹ Học viện Cảnh sát Quốc gia, ra đời chịu biết mấy là “tang điền thương hải”:

Đă gần một nửa trăm năm.
Ta gần Học viện, ta xa ra trường.
Chim trời bổng cánh muôn phương.
Dẫu cùng Việt quốc, dẫu ǵ gặp nhau?
Đứa Năm căn, đứa Cà mau,
Đứa vào Cao lảnh, đứa về Cần thơ,
Đứa ngoài Quảng trị bơ vơ,
Đứa trong Đà nẳng dật dờ tháng năm!
Ba Mươi, Tháng Tư, Bảy Lăm!
Đứa vào lao lư, đứa ra pháp trường,
Đứa chết, chết đứng giữa đường,
Đứa cùng đường, chạy tha phương xứ người,
Đứa sống như chết đi rồi,
Đứa ngồi ôm “thuở-nửa-đời-trăm-năm” ../

NGUYỄN THỪA B̀NH
Kansas City, Missouri, 8/3/2011
( Ngày 4 tháng 2 năm Tân Măo )




 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại