BẠN TÔI, NHỮNG SVSQ KHÓA 2 HỌC VIỆN CSQG

Đời, con người sinh ra cùng sống với nhau một lúc nào đó vào một nơi nào đó mà quen nhau, thân nhau chí t́nh rồi ra bạn bè. Những năm dài mài đũng quần trên ghế nhà trường từ Tiểu Học lên Trung Học và cả Đại Học, người ta từ đâu đâu đến, ban đầu ai biết ai, sau chơi với nhau và ǵ ǵ cũng là bạn bè một thuở học tṛ. Biết bao kỷ niệm phấn trắng bảng đen, hoa phượng vĩ, ve sầu, lưu bút mà nhớ nhau hoài thời niên thiếu. Tôi, những người bạn đó từ thời mới cắp sách đến trường nơi Xóm Bánh Tráng, Phường Lạc Đạo; những người bạn đó nơi Trường Nam Tiểu Học Phan Thiết; những người bạn đó ở các Trường Trung Học Phan Bội Châu, Chu Văn An, Đại Học Văn Khoa, Luật Khoa. Anh em với nhau, có những lúc mầy, tao cải lộn, đánh lộn, ghét cay ghét đắng nhưng cũng có những lúc cảm thông nhau, thương nhau một khi bạn ḿnh bị mối t́nh đầu vỗ cánh bay xa hay đau nỗi đau “mầy đậu, tao rớt” những kỳ thi Trung Học, Tú Tài. Kỷ niệm là những mảnh vụn kư ức c̣n đọng lại có khi đă kết tinh thành những hạt máu đào luân lưu trong tâm huyết dễ làm chạnh ḷng ta bất cứ lúc nào nhớ về một thời xa xưa. Một thời xa xưa lúc nào đó, ở đâu đó vui cũng có mà buồn cũng có. Có điều, kỷ niệm nào bây giờ tự thân ta c̣n giữ lại đều quư hóa biết chừng nào, đẹp biết chừng nào và chắc ǵ một mai ta nằm xuống lại không đem theo xuống ḷng đất! Đời đi học, kỷ niệm đáng nói nhất vẫn là thời mười hai năm trời đời học sinh từ Tiểu Học lớp Năm qua hết Trung Học lớp Đệ Nhất. Bởi ở Đại Học, thứ nhất tôi không học được lâu và thứ hai là loăng quá, người ta đă là người lớn khắp 4 Vùng Chiến Thuật vừa xa lạ, vừa giữ t́nh giữ ư một cách dọ dẫm, dè chừng, cảnh giác có vẻ so đo, suy b́ th́ dù muốn hay không, cái thứ t́nh cảm trong con người cũng bị g̣ bó, thắt chặt là chắc. Nhưng, tôi sinh ra thời chinh chiến và cũng lớn lên trong thời chinh chiến, bạn bè tôi ngoài học đường ra c̣n nhiều biết chừng nào nơi quân trường huấn nhục, nơi các đơn vị canh giặc, nơi các trại tù “học tập cải tạo” nghi65t ngă. Bài viết nầy, tôi muốn dành phần nói về mối giao t́nh của ḿnh với những anh em bạn gọi nhau là đồng môn, là đồng đội, là chiến hữu sống thời Khóa II Sinh Viên Sĩ Quan Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia mà quân trường là băi tập chiến thuật ở Trường Bộ Binh Thủ Đức và giảng đường th́ nằm trong Trại Lê Văn Duyệt của Biệt Khu Thủ Đô năm 1967. Từ khi ra trường, tung hoành Nam, Bắc, Đông, Tây, chúng tôi mỗi người một ngă, mỗi người một việc ra sức bảo quốc an dân có khi chưa một lần gặp lại. Tính thời gian lùi về ngày anh em tứ chiếng mới vào Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia th́ chúng tôi tṛm trèm có dư tám năm đối mặt với kẻ thù Việt Cộng. Tiếc thay thế nước cuộc cờ đành nuốt hận nỗi đau mất nước, anh em như chết đi rồi mà vào tù Cộng Sản, chịu biết bao cay nghiệt khôn lường!

Thật mà nói, vào được Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia không dễ chút nào. Khó nhất vẫn là cuộc thi người đông vài ngàn mà lấy chỉ hơn một trăm. May mới đậu? Một sáng ngày 23 tháng Giêng năm 1967 tôi nhập học Khóa II Biên Tập Viên Cảnh Sát Quốc Gia. Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia lúc bấy giờ nằm trong Biệt Khu Thủ Đô với những dăy nhà tôle vừa làm giảng đường, vừa làm nhà ngủ, vừa làm văn pḥng, vừa làm nhà ăn và cũng vừa làm nhà bếp. Ban sơ buổi b́nh minh nhà trường c̣n nhỏ nhoi, nghèo nàn, thiếu thốn đủ thứ. Nhưng luật đời, không có cái nầy th́ có cái kia bù trừ. Nhờ như vậy đó, chúng tôi những anh em xa lạ biết chừng nào, khác nhau biết chừng nào mà quen mau, thân mau. Không phải sao, chúng tôi những chàng thư sinh trẻ măng, khờ khạo, ngơ ngáo mới bước ra ghế nhà trường th́ đụng mấy anh bạn già dặn Thanh Niên Quốc Gia Đoàn mà cứ ngỡ là Tổng Đoàn Thanh Niên Trừ Gian của ông Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ một thời báo chí gán cho cái tên là Tổng Đoàn Thanh Niên Bảo Gian. Anh em rồi cũng mau lẹ tay bắt mặt mừng mầy, tao thân thương một nhà Khóa II Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia. Có lẻ nhờ đôi chân đi không biết mệt và tính người khoái giao du nên chẳng mấy ngày, tôi “tứ hải giai huynh đệ” cũng bộn bạn bè. Tôi nhớ ḿnh hồi nhỏ chân quen rong chơi hết chỗ nầy đến chỗ kia khắp ngoại ô Phan Thiết với cái nạn thun bắn chim. Lớn lên quen đạp xe đạp đi học xa từ Ciné Văn Hoa Dakao, đường Trần Quang Khải xuống cuối đường Minh Mạng, Chợ Lớn học Trường Chu Văn An. Người ta thường nói: “mă tầm mă, ngưu tầm ngưu”, ư chừng hợp ư nhau dễ bắt thân với nhau. Người Pháp cũng có ư kiến tương tự: “dis-moi qui tu hantes, et je te dirais qui tu es” mà ngày xưa thầy giáo thường nói; “tṛ hăy nói tṛ chơi với ai, và thầy sẽ nói tṛ là người thế nào”. Học Viện lúc bấy giờ, tôi tính mậy mậy kích cỡ nơi sân vuông trước có chiều dài mỗi bề không quá 300 thước và sân chữ nhật sau, rộng cỡ 100 thước và dài không quá 400 thước. Nó hẹp như vậy và nhỏ như vậy cho 235 khóa sinh Biên Tập Viên và chắc cũng khoảng 200 khóa sinh Thẩm Sát Viên đi vô đi ra gặp nhau hà rầm, xích mích nhau hà rầm và cũng thân với nhau dễ dàng biết chừng nào là tự nhiên. Bây giờ ngồi đây đang nghĩ về những ngày đó, tôi h́nh tượng ra được trong trí nhớ của ḿnh bóng dáng, cung cách những anh em ngày xưa hồi đó cũng đă 45 năm c̣n ǵ. Ông mà ít ai nhớ nhất, ít ai quen nhất cũng v́ làm biếng lời ăn tiếng nói và mặt mày th́ lầm lầm ĺ ĺ một cơi đi về, tôi muốn nhắc đến ông bạn ngó dzậy mà không phải dzậy, hiền khô, dễ chịu Hà Thức. Ông nầy nếu không lầm, tôi chưa từng đối mặt, chưa từng một lời với ổng một lần trong cả 9 tháng trời Học Viện. Vậy mà, học Trường Bộ Binh Thủ Đức tôi gặp ổng. Ở tù, tôi gặp ổng. Qua Mỹ ở thành phố nhỏ chút xíu chút xiu tôi cũng lại gặp ổng. Gặp ổng, mới biết ổng là một người bạn có ḷng, chí t́nh, tốt bụng. Nghe vợ chồng tôi sẽ qua Cali, ổng nhận ngay việc đưa đón dù đường dài đi cả một giờ đồng hồ và đêm khuya khoắc với tuổi già đă quá “thất thập cổ lai hi”. Đă vậy, cùng với bà vợ hiền “bao” vợ chồng tôi một sáng Điểm Sấm ngon miệng c̣n đ̣i đưa đi nhà hàng ăn tối với ông bà Phan Thành Ngọc Điệp, Nguyễn Hồng Son. Ông Trương Thành Khôi giọng nói đặc sệt người Đà Nẳng, ưa tranh luận và cứ khoe chợ Cồn, sông Hàn, biển Thanh B́nh, núi Sơn Chà, nước mắm Nam Ô và “Đà Nẳng lớn hơn, giàu hơn, vui hơn Huế nhiều lắm chớ”. Ông Trang Thành Lộc đi vô đi ra Học Viện có khi bằng xe hơi như ta đây con nhà giàu, học trường Tây, lè phè với chiếc đủa xỏ cái lạp xưởng và cổ quấn khăn sọc rằng, lúc nào sắp hàng cũng trể hơn người ta. Ông Nguyễn Văn Thơ có khuôn mặt hệt tên lính Sư Đoàn Bạch Mă của Đại Hàn đóng ở Ninh Ḥa. Thường với vài anh em ngồi dưới bóng cây điệp, trên 2 thành cầu sửa xe hơi, ổng cứ xổ ba cái chuyện tục tĩu, dâm bôn rồi chữi thề độc địa, độc đáo và vào những ngày đẹp trời, đeo cho oai mỗi bên vai một bông cúc bạc lấy le. Ông Đoàn Long Thể, tướng tá lệt bệt, bèo nhèo, đen như Bao Công, Bao Hắc Tử, Bao Thanh Thiên mà bài bạc th́ sáng, trắng vào hàng “số dzách”. Có một ngày, ổng đă nuốt trọn tiền lương của các tên cúng cơm Sáu Lèo, Quang 3 Ca, Thuận B́nh Điền mà không cho lại đứa nào một đồng mua ly nước đá chanh uống đỡ khát. Ông Nguyễn Kim Hạc trời sinh cái lỗ miệng bắt ăn to nói lớn, ăn tục nói phét. Ổng nằm bên Trung Đội 21 hông hống cái giọng trời long đất lở Sư Tử Hống của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Nằm xa lắc xa lơ bên Trung Đội 22 chúng tôi không ai chịu nổi, cứ la làng “fermez la bouche”, “fermez le pot”. Đă vậy ban ngày, ban đêm ngủ, ổng ngáy c̣n “ngán” biết chừng nào. Ngáy ǵ mà ngáy như heo bị thọc huyết như trâu bị đập đầu ở batoire! Có điều, ổng người ngay tính “có sao nói vậy người ơi”, anh em ai cũng khoái, cũng thích. Cùng Trung Đội 22, nằm kế bên là anh bạn Thanh Niên Quốc Gia Đoàn Đỗ Văn Trực lớn hơn tôi vài tuổi, người Bắc Di Cư 54 hiền khô, lúc nào cũng h́ h́ “ai sao tui dzậy” kiểu trong Nam. Chưa thấy anh ta “cải chày cải cối” với ai bao giờ. Ai lỡ làm phiền anh ta mà xin lỗi, ảnh cứ “có ǵ đâu, có ǵ đâu, anh em cả” kèm theo nụ cười tươi như hoa hồng thắm. Chắc v́ tính “hiền khô” của Trực mà tôi cứ nhớ về anh, người hơi thấp một chút, to con một chút, đen đen một chút và có bí danh hơi oan uổng một chút là Trực Thối không biết ai đặt cho. Ông Nguyễn Văn Lư nước da ngâm ngâm bánh ít như người Miên miệt vườn dưới Sóc Trăng, Trà Vinh có hai má lúm lúm đồng tiền hữu duyên như cô gái Khmer chưa chồng. Lúc nào cũng thấy ổng cầm cái “tondeuse” hỏi người ta “hớt tóc không”. Không có ǵ đúng phóc hơn khi anh em cho ổng một cái tên để đời là Lư Tondeuse. Tôi hợm ḿnh học thói Từ Hải“ nhất trạo giang sơn tận địa duy” đi t́m thế sự đa đoan. Thế sự đa đoan dù trong Học Viện nhỏ hơn mảnh vườn trồng rau cải của người nhà quê Bà Điểm, Bà Quẹo, Bà Hom, Bà Chiểu. Có khi thấy mà tức cười mấy ông Nguyễn Duy Huấn, Ngô Mậu Lạc, Cao Quư, Lê Đức Tuân cải lộn với mấy ông Nguyễn Minh Lộc, Nguyễn Phi Hường, Nguyễn Một, Nguyễn Quang Tầm về Huế với Quảng Nam và Quảng Nam với Huế. Mấy ông nào cũng cho “không đâu đẹp bằng quê hương của ḿnh” cả mà phạng quê hương của người ta không đâu xấu hơn để c̣n chút nữa là “oánh” lộn với nhau. Một ông bạn đi ngang qua, chắc là anh chàng trắng trắng như lai nửa Tây nửa Tàu tên Vân Đại Quốc nói vào: “ Quảng Nam hay căi; Quảng Ngăi hay co; B́nh Định hay lo; Thừa Thiên ních hết”. Phan Thiết, ngoài tôi ra c̣n có Trần Khánh Thiện, Bùi B́nh, Trần Ngọc Ánh và Nguyễn Văn Vĩnh có mặt ở đây. Tất cả chúng tôi đều là học sinh Trường Trung Học Công Lập Phan Bội Châu. Trần Ngọc Ánh trẻ, hiền ḥa, vui tính mà cũng thẹn thùng “em như cô gái hăy c̣n xuân” tôi chưa từng quen biết. Tưởng ổng đă bị Việt Cộng xử tử thời Phước Long mất rồi chớ, ai ngờ ổng chỉ bị bắt làm tù binh mà c̣n sống đến nay. C̣n sống đến nay ổng mới cơng được vợ bên Úc qua Bắc Cali hội ngộ với anh em Học Viện ngày kỷ niệm 45 năm vào năm 2011. Nh́n ổng, tôi biết ngay Ánh Tiểu Thơ c̣n trẻ măng, ắt c̣n sống lâu vài chục năm nữa. Ông Trần Khánh Thiện là giáo sư dạy Trường Bán Công Phan Chu Trinh, Tiến Đức, Chính Tâm, tôi biết mà không quen. Ổng đẹp trai th́ có đẹp trai thiệt mà cằn nhằn cẳn nhẳn th́ “đếch” có thua ai. Ai nh́n ổng cũng thấy dễ ghét thấy mồ cái im ĩm và cái kênh kênh, nhưng chơi với ổng th́ thấy dễ thương, dễ mến cái tính người không thích nhiều chuyện, không quanh co. Ai th́ tôi không chắc nhưng với Thiện th́ tôi quả quyết, anh ta ghét cay ghét đắng ba thằng Việt Cộng trí trá, gian manh, tàn ác vô cùng. Ổng cũng theo tôi “học tậo cải tạo” ở Biên Ḥa, ở Yên Bái, ở Vĩnh Phú…Ông Bùi B́nh lạ ǵ là bạn học, bạn chơi với tôi từ thời Trung Học Đệ Nhất Cấp rồi Đệ Nhị Cấp, hai mắt lúc nào cũng như có hai cục ghèn to ịn vào. Ở Nha Trang năm 1974, tôi đă 3 con, có hỏi anh ta “khi nào lấy vợ mậy”. B́nh trả lời ngắn, gọn “không lấy”. Vậy mà Việt Cộng vào, ổng cũng ôm một bà làm vợ. Hai vợ chồng hiện đang sống tuần trăng mật lâu hơn ai hết ở San Francisco. Tôi nhớ như in một ngày xấu trời ở Sở Muối Phan Thiết, một chiều đầu năm 1975, ổng lái chiếc xe Cảnh Sát của tôi từ Quảng Đức về, chở cả nhà tôi ngồi ở trển. Một đứa nhỏ chăn ḅ kịp lùa cho mấy con ḅ qua hết bên kia đường rồi đứng lại bên nay đường nh́n theo. Bùi B́nh lái xe chầm chậm, cẩn thận. Xe chạy qua. Thằng nhỏ chạy ra. Bùi B́nh đứng thẳng người đạp thắng. Thằng nhỏ đă nằm dưới gầm xe. Không biết trời xui đất khiến làm sao, thằng nhỏ chăn ḅ “ác đạn” đó lại lóc ngóc ḅ ra không hề hấn một chút nào. C̣n ông Nguyễn Văn Vĩnh về Phan Thiết, một năm vài tháng làm Chỉ Huy Trưởng ở Quận nầy, một năm vài tháng làm Chỉ Huy Trưởng ở Quận kia nơi Tỉnh B́nh Thuận tôi mới quen biết. Vĩnh, con người nhanh nhẹn, hoạt bát mà không hồ đồ, dễ dăi mà không ba phải, biết t́nh nghĩa anh em . Ngày trong Học Viện v́ to con tốt tướng, ổng nằm trong toán thủ kỳ mà chịu nắng chịu mưa tập dợt mệt thấy mồ. Tháng Năm năm 2012 vừa qua gặp nhau ở Nam Cali, thấy ổng cũng c̣n phương phi và hảo tâm tới lui phi trường John Wayne Airport đón đưa vợ chồng tôi. Bà Xă của ổng “đăi đằng” một bữa cơm gà nấu theo kiểu Phan Thiết. Ăn, ai cũng khen ngon. Dĩ nhiên ngoài một ít anh em đă nói ở trên, c̣n biết mấy anh em nữa chưa nói ra được v́ bài viết chắc chắn sẽ dài ḷng tḥng, lọng thọng không ai thèm liếc qua, nói ǵ đọc.

Có điều, bạn tôi mà không nhắc tới mấy tên ruồi bu, mấy tên cúng cơm một thời 9 tháng Khóa II Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia sau đây là một thiếu sót đáng phiền hà, đáng trách móc. Mấy anh nầy không ít th́ nhiều đóng góp, phụ họa sự sai trái, bê bối nếu không muốn nói là “bagaille” cho tôi trở thành thằng “ba que”, “ba láp”, “ba hoa”, “ba de”, “ba trợn”, “ba chui”, “ba búa”, “ba trời” Sáu Lèo. Nói th́ nói vậy cho vui, chứ những ông Huỳnh Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Thuận, Huỳnh Hữu Đức và Hoàng Văn Thành là dân làm chồng làm cha biết lo gia đạo; làm sĩ quan biết tiết tháo kẻ chỉ huy; làm Chiến Sĩ Cảnh Sát Quốc Gia biết nêu cao ngọn cờ Tổ Quốc, Công Minh, Liêm Chính; làm bạn làm bè biết sống sao cho phải t́nh bằng hữu, chứ bao giờ là “mấy tên ruồi bu, cúng cơm” đâu. Huỳnh Hồng Quang ra trường là nhập vào Cảnh Sát Dă Chiến, ở miết cho đến ngày tan tành khói lửa Việt Nam Cộng Ḥa. Dù nay Khối Cảnh Sát Dă Chiến, mai Khối Yểm Trợ Vơ Trang, mốt khối Điều Hành, Quang cứ ở ĺ lấy cho được cái lon Thiếu Tá và Cữ Nhân Luật, chờ thời vượt “Vũ Môn”. Quang là “Quang 3 Ca” cũng không phải hiền. Thời làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 13 ở Biệt Đoàn 5 ổng đă trị tên lính du đảng Se Văn Hoàng biết sợ, biết phục tùng. “Nó đâu có ngán ai, hăm giết cả Đại Đội Phó của nó nữa mà”. Quang, thời Học Viện mỗi chiều không chịu nổi ḷng ṿng trong cái sân trường nhỏ quá là nhỏ và đụng đầu nhau bộp bộp mấy anh bạn “nh́n thấy ghét”, nhất định “leo tường”. Leo tường, tưởng đi đâu, “đi tới đi lui ở ngoải cho đỡ tù túng dzậy mà”. Ông Huỳnh Ngọc Thuận, môt dân dă miệt ruộng B́nh Chánh dính cứng một cái tên nghe sao chân chất, hiền ḥa là Thuận Nhà Quê. Anh ta cứ ngong ngóng đến cuối tuần là “ê dzọt tụi bay”. Dzọt tưởng đi đâu, rủ nhau về B́nh Điền, Chợ Đệm của anh ta “về sông ăn cá, về đồng ăn cua”. Thuận với tôi tù từ Biên Ḥa, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn đến Lào Cai, Vĩnh Phú sống đời mạt vận đ́u hiu. Anh ta, hạng người trộn trạo những đặc tính của một người biết nhịn nhục, chịu khó, gan ĺ, chịu chơi. Khi là Đại Đội Trưởng Đại Đội 6 của Biệt Đoàn 222, cứ y như rằng buồn buồn một chút, vui vui một chút là Xập Xám, Phé với mấy thằng bạn ham vui nơi Pḥng Ngủ Hồng Tá, cũng lấy được Chương Mỹ Bội Tinh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cấp cho. Khi tù về, ai không dám chứ Thuận dám buôn vàng bán bạc và râu ria chân rết cho mấy mụ Huyện Đề. Hạng thỏ đế “tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách” như tôi có cho cũng không dám đụng tới. Ông Đức, Huỳnh Hữu Đức người Lấp Ṿ của Quang 3 Ca. Ổng tướng tá nhỏ thó, không đẹp trai mà có duyên phong trần, nghệ sĩ, ghiền thuốc Capstan, hút đến vàng tay, đen răng. Người có vẻ lang bạt giang hồ Bohémien. Tôi “dán” cho ổng cái tên để đời là Đức Fulro. Ra trường, ổng cứ trôi nổi khắp 4 Vùng Chiến Thuật rồi trụ chức Chỉ Huy Trưởng Quận Ḥa Tân của G̣ Công. Không dại như bọn tôi ở lại mà vào tù “học tập cải tạo”. Ổng làm “boat people” qua Mă Lai rồi ở luôn bên Pháp đến nay với các bạn cùng khóa Đặng Thanh Toàn, Ngô Quốc Lư. Ông nầy nghĩ mọi việc đều đơn giản. Đơn giản như trốn ra ngoài chỉ có việc “cứ chạy cái vù nơi cổng gát là ra chớ ǵ”. Ra chớ ǵ để mút kem Pôle Nord, dạo đường Nguyễn Huệ hay nhâm nhâm, nhi nhi cà phê Thu Hương nh́n gái tới lui trên đường Hai Bà Trưng. Từ ngày ra trường tháng 10 năm 1967 đến nay, không thấy cái bản mặt cô hồn của ổng ở đâu. Ổng ở Pháp, nghe nói cứ nửa năm ở Sài G̣n và nửa năm ở Paris, rơ ràng ràng sống kiếp rầy đây mai đó. Cuối cùng, ông bạn trẻ tuổi tài cao Hoàng Văn Thành, người Bắc Quan Họ, mặt mày trắng trẻo thư sinh, hiền như cục bột mà gàn là Gàn Bát Sách, nhát gừng, căi th́ hay căi nhưng biết tùng phục mà “chịu thua các ông”. Có phải như vậy không mà Hoàng Văn Thành có tên là Thành Nùng. Nếu chấp nhận Hoàng cũng là Huỳnh th́ tôi có đến bốn ông bạn một lúc cùng là họ Huỳnh. Cũng lạ! Ông nầy thời Học Viện, “các ông đi đâu, tôi đi theo”. Ổng dễ lắm, thường theo Sáu Lèo tôi, Quang 3 Ca, Thuận B́nh Điền, đôi khi có cả Đức Fulro nữa, ra Công Trường Dân Chủ đi một ṿng Lê Văn Duyệt, Hiền Vương, Trần Quốc Toản rồi vào quán cháo ḷng đầu đường Yên Đổ có cô con gái nhỏ nhỏ học Gia Long mà tôi khoái khoái trong bụng. Hồi làm ở Phan Thiết năm 1970, tôi có nghe đương sự làm Chủ Sự Pḥng Hành Chánh của Ty Cảnh Sát Quốc Gia B́nh Tuy. Sau đó nghe lên Thiếu Tá bên Cảnh Sát Dă Chiến ở Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Khu III. Hỏi nhiều anh em “giờ nó ở đâu”. Không ai biết nó ở đâu. Chúng tôi, Thuận ở Florida, Quang ở Utah, Đức ở Pháp và tôi ở Missouri đă mấy chục năm chưa gặp lại. Thuận có tiễn tôi qua Mỹ năm 1992. Quang, tôi có gặp ở K1, Z30C Hàm Tân mấy ngày trước khi ra tù năm 1984. Đức Fulro và Thành Nùng th́ từ ngày ra trường đến giờ không thấy dung nhan mùa Hạ nhạt nḥa đến mức nào của mấy ổng. Đức th́ c̣n nghe tin ở Pháp. Thành th́ biệt vô âm tín. Đời, mới đó thoắt đă gần nửa thế kỷ một trăm năm, nghe sao buồn vời vợi, chơi vơi…t́nh anh em vắng dần, mất dần! Ít nhất cũng có 9 tháng, gần được 300 ngày những người anh em từ nhiều nơi trên khắp Nước Việt Nam Cộng Ḥa vào đây Biệt Khu Thủ Đô mà vô học Khóa II Học Viện Cảnh Sát QuôcGia. Họ trước lạ sau quen là tự nhiên. Thời gian đủ dài cho anh em chung chạ với nhau có những kỷ niệm thân quen quư hóa mà có lâu bao nhiêu, có xa cách mấy cũng vẫn nhớ nhau. Họ nhớ nhau mà t́m lại với nhau, nhắc lại chuyện mới đó mà đă 45 năm trôi qua như gió thoảng, như mây bay với bao biến đổi khôn lường của mệnh nước nổi trôi, trời đất bao la.

Tôi cứ nghĩ, ḿnh sinh ra rồi cũng sẽ chết và đương sắp chết th́ tại làm sao những người anh em cùng là đồng khóa, đồng nghiệp, chiến hữu một thời những ngày xưa “tao, mầy” hết sức thân thiện, gần gụi, dễ dăi, xuề x̣a…mà sao bây giờ e dè, chấp nê, lư lẻ cho xói ṃn kỷ niệm vốn đă mù mờ, nhợt nhạt theo thời gian? Có người c̣n sống nhăn răng nhưng chắc buồn đời, buồn t́nh mà “tuyệt tích giang hồ” không muốn gặp ai. Có người giận nhau lời qua tiếng lại hồi đó hay bây giờ mà không vừa ư nhau, rồi “anh đi đường anh, tôi đường tôi”. Có người cho rằng gặp nhau “th́ cũng vậy thôi”, thời gian đă xói ṃn và phôi pha kỷ niệm đi rồi. Có người già cả hoặc v́ túng thiếu hoặc v́ yếu đuối hoặc v́ bệnh tật mà “lực bất ṭng tâm” không đến với nhau được, đành buồn trong nỗi buồn luyến tiếc quá khứ. Có người mang cái nghiệp “tay làm hàm nhai”, th́ giờ c̣ng lưng già đi làm chưa đủ, đâu có hưỡn mà đi tới đi lui họp khóa, họp bạn để “ăn bữa giỗ lổ bữa cày”! Có người “tao bây giờ già rồi, không thích chốn đông người, nơi ồn ào” nên cứ “nằm khoèo ở nhà coi phim bộ của mấy mạng Ba Tàu hay mấy trự Đại Hàn khỏe hơn”. Có người c̣n phải coi sóc mấy đứa cháu nội, cháu ngoại nhỏ chút xíu chút xiu, có khi mới vài tháng “cho ba má tụi nó có th́ giờ đi làm”. Có người, có người đủ trăm ngàn lư do rằng “không tham gia được” th́ đừng hỏi dai như giẻ rách là “sao mầy không tới với anh em cho vui”? Trái hết thẩy mọi người, ông bạn Lê Văn Thuận, tôi không quen, không biết thời Khóa II Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia năm 1967 nhưng người chung nhiệm sở với tôi ở F. Đặc Biệt Quảng Đức, người Bắc, gốc Thanh Niên Quốc Gia Đoàn như Trực Thối, làm việc cũng giỏi mà “bài bạc” cũng giỏi, tim mổ tới mổ lui mấy bận ở dưới Taxas mà “họp Khóa, họp Ngành ở đâu “moi” cũng đi”. Ngày 27 tháng 5 năm 2012, gặp ổng ở Kỷ Niệm 45 Năm Khóa II Học Viện, mừng biết chừng nào! Tôi thử hỏi “giả như năm tới ở Bắc Cali có tổ chức, đi không?” “Ngán thằng Tây nào”, Thuận trả lời một cách dứt khoát, gọn lỏn, tỉnh bơ. Đó, đừng bao giờ nói không bao giờ, “never say never”.

Ngạn ngữ Pháp có nói: “Vouloir, c’est pouvoire” mà ngày xưa thời Trung Học, chúng tôi đứa nào đứa nấy lại không thường đầu môi đầu lưỡi phạng ra mấy lời: “muốn là được”. Ư nói, chúng ta muốn làm điều ǵ, muốn có cái ǵ là đều có cách chúng ta làm được hết thẩy: “where there’s a will, there’s a way”. Tôi nghĩ, ḿnh sinh ra làm ǵ nhỉ? Chẳng lẻ là cây cỏ rồi chết theo cây cỏ. Nhưng con người có cho là cây cỏ đi, nhưng là thứ cây cỏ có suy nghĩ, có tư duy kia mà. Chúng ta đă từng được nghe ông Blaise Pascal nói: “L’homme n’est qu’un roseau, le plus faible de la nature, mais c’est un roseau pensant”. Đúng, con người chỉ là cây sậy, môt loại yếu nhất trong thiên nhiên, nhưng là cây sây có tư tưởng. Cho nên, sống một cách vô vị cho đến chết đi là hết một kiếp người, th́ sự sinh ra đời đó hóa ra vô nghĩa, phi lư đến chừng nào nhỉ. Bỗng lại nhớ câu thơ Tàu của Vưong Phạm Chí, tôi chép ra như đă nhiều lần chép ra trước đây rồi: “tích ngă vị sinh thời. Minh minh vô sở tri. Thiên công hốt sinh ngă. Sinh ngă phục hà vi?” Thật vậy, thời xưa chưa sinh ra, trời đất âm u ḿnh có biết ǵ. Ông trời th́nh ĺnh sinh ḿnh ra. Sinh ḿnh ra để làm ǵ? Người xưa đă thắc mắc và đeo đẳng cái thắc mắc nầy chắc măi măi đời người không giải đáp được. Và tôi thắc mắc là sao anh em ḿnh cũng tuổi hạc đă cao, gần đất xa trời, c̣n bao nhiêu ngày, tháng, năm nữa lại đành “buông” mọi việc, nỡ “phủi tay” mọi thứ, không c̣n dính dấp chút bụi phong trần. Chút bụi phong trần là chút t́nh anh em ngày xưa c̣n đọng lại khuyên ta, nhắc ta hăy ít nhất một lần chót mau mau họp mặt rồi có thể là măi măi vĩnh biệt mà “cát bụi trở về với cát bụi” c̣n nhớ một thời h́nh hài thế nhân trên cơi đời nầy ta có bạn có bè./.

NGUYỄN THỪA B̀NH
Những ngày chớm Thu 2012

 


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại