Qua
những bài viết đó đây, được biết, Vương Mộng Long (VML) là một học
sinh giỏi nhưng nghèo, vừa đi học vừa làm “gia sư”. Sau khi đậu Tú
tài 2, VML đi dạy học. “Tôi mồ côi cha từ nhỏ. Trường Trung Học Trần
Quư Cáp Hội An đă làm cái thiên chức của bố tôi, dạy dỗ uốn nắn và
bao dung che chở cho tôi suốt thời niên thiếu. Tôi đă được trui rèn
nhân cách, trau dồi kiến thức để trở thành một người tốt; biết tự
trong, kiên nhẫn và nhún nhường; biết tự hào là công dân của một
nước độc lập, sẵn sàng hy sinh v́ lư tưởng tự do. Từ nơi đó, tôi đă
lớn khôn. Từ nơi đó, tôi đă thành người”...(Những Đứa Con Của Trường
Trần Quư Cáp. Seattle, tháng 10, 2009).
Năm 1963, VML đáp lời sông núi, anh gia nhập Khóa 20 Trường Vơ Bị
Quốc Gia Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp, VML chon Binh chủng Biệt Động
Quân, (BDQ), giữ chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đôi 3 Tiểu Đoàn 11 BĐQ
đóng quân vùng Đà Nẵng.
Năm 1966, v́ vụ biến động Phật Giáo Miền Trung, VML bị kết tội phản
loạn, bị phạt tù và giáng cấp xuống c̣n Trung Sĩ cho đến giữa năm
1967, ông được phục hồi cấp bậc Thiếu Úy và đẩy ông lên núi, trả ông
về mái nhà xưa là TĐ11 BĐQ trấn đóng Biển Hồ Pleiku. Vương Mộng Long
phục vụ tại Vùng II Chiến Thuật từ đó (1967) qua các Tiểu Đoàn BĐQ
sau đây: TĐ11BĐQ, 4 Mike Force, TĐ81 và TĐ82BĐQ. Cấp bậc và chức vụ
sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ82/BĐQ.
BĐQ Vương Mộng Long là một cấp chỉ huy b́nh dị, mưu trí và can
trường. Ông yêu thương đơn vị như gia đ́nh. Một lần bị thương, tại
Quân Y Viện Pleiku, ông từ chối nằm điều trị tại pḥng dành cho Sĩ
Quan mà ông nằm chung pḥng với các thương binh khác. Ông cũng từ
chối kư tên Bản Y Bạ do Hội Đồng Y Khoa đề nghị loại 2 không tác
chiến. Trong thời chiến, quân thù (qua t́nh báo) đặt cho ông cái tên
“Hai Nâu”.
Sau 30/04/1975, VML đi tù cho đến 1988, qua các trại cải tạo từ nam
ra bắc (13 năm). Theo lời một cựu Sĩ Quan BĐQ ở Dallas “Trong trại
cải tạo, VML vẫn c̣n ngon. Trốn trại ba lần, bị tụi nó đánh gẫy mấy
xương sườn!”(…). Trước khi đi tù, một Thượng tá Việt cộng t́m đến
nhà “Hai Nâu” ở Tân Định để xem cho biết mặt kẻ đối đầu tầm vóc ở
chiến trường Tây nguyên trước kia và nói lời cảm phục dù biết ông là
người thua trận.
VML và gia đ́nh, vợ 4 con, định cư tại Seattle, WA từ năm 1993. Ở xứ
người, VML vẫn ngon lành như xưa, ông tốt nghiệp bằng B.A. Social
Science & Communication năm 2003 tại University of Washington.
Những bài viết của tác giả VML rất hấp dẫn và truyền cảm, rất được
hâm mộ như: Cuối Đường; Những Đứa Con Của Trường Trung Học Trần Quư
Cáp; Sao Hôm, Sao Mai; Viên Ngọc Nát; Bên Hồ Thác Bà; Tháng 3 Năm
Xưa; Tháng 4 Lại Về; Ông Giáo Sư Dạy Sử; Sầu Đông; Nốt Thăng Trầm;
Chu Pa...
Hội AH Phố Núi Pleiku hân hạnh giới thiệu một cây viết tài năng của
Quân Đội nói chung, Biệt Động Quân nói riêng, và sẽ là của Phố Núi
Pleiku, Thiếu Tá Vương Mộng Long, Người Pleiku Năm Cũ...
PVPN
tháng 7/2012
PVPN xin giới thiệu Viên Ngọc Nát là bài mới nhất của ông :
Viên ngọc nát
(Hồi kư- Vương Mộng Long- K20)
“Người yêu nước có thể bị giết.
Nhưng tinh thần ái quốc của một dân tộc th́ bất diệt.”
(Vương Mộng Long)
---o---
Giữa năm 1978, toán bốn người cựu sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam
Cộng-Ḥa, tù cải tạo ở Trại 4, Xă Cẩm-Nhân, Yên-Bái, vượt ngục lần
thứ nh́, nhưng bị thất bại. Đại Úy Lê Bá Tường chết trong rừng. C̣n
lại Thiếu Tá Đặng Quốc Trụ, Đại Úy Trần Văn Cả và tôi (Thiếu Tá
Vương Mộng Long) bị bắt đưa về tạm giam ở Đoàn 776 Yên-Bái.
Ngày đầu, một vệ binh c̣n rất trẻ tên Lời đă thẳng tay nện một báng
súng A.K vào mặt tôi, một cái răng găy. Tên vệ binh Cộng-Sản trẻ
tuổi này đă nặng tay với tôi, v́ hắn vừa t́m thấy trong ba-lô của
tôi một bài thơ "phản động". Chưa hả giận, hôm sau y trở lại. Tôi bị
quật thêm một báng súng vào ngực, găy một cái xương sườn.
Qua ngày thứ tư th́ chúng tôi bị đưa xuống phà để về Trại 9 bên hồ
Thác Bà, Xă Cẩm-Nhân, Yên-Bái.
Hai bạn đồng hành của tôi, Thiếu Tá Trụ và Đại Úy Cả bị nhốt trên
nhà kho của trại. Tôi không rơ họ bị đối xử ra sao. C̣n tôi là người
cầm đầu cuộc vượt ngục này, nên bị tách riêng, giam trong nhà kỷ
luật, sát với hàng rào khu cưa xẻ thợ mộc. Tôi bị cùm cả hai chân,
c̣ng cả hai tay.
Khi ấy đang mùa hè, trong hầm nóng nực, muỗi như trấu, bất kể đêm,
ngày. Da mặt, da cổ, da tay chân của tôi trở nên sần sùi v́ muỗi
đốt.
Tôi được phát hai cái ống nứa lồ ô dựng gần chân nằm. Một ống nứa để
đại tiểu tiện, một để chứa nước uống. Tay bị c̣ng, chân bị cùm, vấn
đề đi đại, tiểu tiện quả là một cực h́nh. Nhưng v́ bụng đói liên
miên, nên vấn đề đại tiện cũng khó xảy ra thường xuyên.
Cũng do biên bản bàn giao lại từ Đoàn 776, nên từ hôm về Trại 9,
ngày nào tôi cũng trải qua một trận đ̣n hội chợ, kéo dài trên, dưới
hai tiếng đồng hồ. Tôi bị bắt đứng giữa pḥng trực trại, bốn góc
pḥng là bốn vệ binh. Tôi bị đánh chuyền tay từ góc này sang góc
khác, xoay tṛn quanh pḥng. Má bên trái vừa lănh một cú đấm chưa
kịp cảm thấy đau th́ má bên phải đă lănh cú đấm tiếp theo. Những đợt
máu mũi phọt ra ồng ộc tràn trên má và trên ngực tôi chỉ làm cho
những tên vệ binh trẻ tuổi hăng tiết thêm.
Trọng lượng thân tôi thời này c̣n chừng trên ba mươi kư lô là cùng.
Những cú đấm móc tận lực làm cho tôi có cảm tưởng như là đang "bay"
từ góc nhà này, sang góc nhà khác. Sau mỗi tiếng "hự!" máu tôi lại
trào ra như xối. Không biết máu từ mồm tôi hay từ phổi tôi phun qua
hai lỗ mũi thành ṿi? Mặt tôi bầm tím sưng vù, đôi mắt híp lại, nh́n
một vật hóa hai. Sau khi bị hàng chục cú đá cật lực vào bụng dưới,
cứt đái trong bụng tôi cứ tự do tuôn ra quần. Tôi cố nín, cũng không
nín được.
Lănh những trận đ̣n thù như thế này, tôi mới thấm ư câu hăm he của
tên sĩ quan an-ninh Trại 9, "chúng ông sẽ đánh cho mày té đái, văi
phân".
Nhiều lần tôi bị đánh mửa mật xanh, mật vàng mà vẫn chưa được tha;
đến lúc tôi mềm như sợi bún, vệ binh mới kéo tôi ra vứt ngoài cửa
pḥng trực. Có hôm cả giờ sau trực trại mới cho người kè tôi về nhà
giam.
Chắc nhiều bạn tù thấy cảnh tôi nằm rũ như cái xác không hồn nơi góc
sân phơi sắn khô, nên một người được tha về Ban-Mê-Thuột đă đến nhà
ông bà nhạc của tôi kể lại rằng tôi trốn trại và bị vệ binh đánh
chết rồi!
Khi nhận tin này, ông anh vợ của tôi lo quá, vội đề nghị với bà mẹ
vợ tôi, "Đừng nói cho con Loan hay tin chồng nó chết. Nghe tin này
nó không sống nổi đâu! Nó mà chết th́ đàn con nó sẽ bơ vơ..."
Những ngày không bị dẫn lên "khung" để lănh đ̣n, tôi nằm chờ thời
gian trôi qua.
Một tia nắng xuyên khe mái nứa, in một đốm sáng trên nền nhà. Nh́n
vị trí đốm nắng di chuyển, tôi biết giờ giấc. Chấm nắng bắt đầu xuất
hiện trên vách nhà hướng Tây vào lúc kẻng giải lao thứ nhứt của trại
(khoảng chín giờ sáng) rồi từ từ di chuyển dần về hướng đông. Khi
tiếng kẻng báo giờ điểm danh chiều (khoảng năm giờ chiều) th́ chấm
nắng tới giữa vách hướng Đông, thế là hết một ngày!
Hàng ngày, tù nhân của nhà bếp đem cho tôi một bát sắn khô nấu nhăo
nhoét. Anh ta phải để bát sắn nơi cửa buồng giam; tiếp xúc với người
đang bị cùm là điều cấm kỵ!
Khi người tù đưa cơm rời bước, đàn gà của trại vội tranh giành nhau
những mẩu sắn trong tô. Tới giữa trưa, tên bộ đội trực trại mới đến
mở cửa hầm giam cho tôi ăn bữa cơm tù độc nhất trong ngày. Nhiều
khi, tô sắn tới tay, tôi chỉ thấy một mớ bầy hầy đất cát và vài cọng
sắn khô cỡ ngón tay. Tôi đói tới run chân, run tay, đói ngủ không
được.
H́nh như không có "chế độ" ẩm thực nào áp dụng cho những trường hợp
tù cải tạo vượt trại. Có hôm tôi được một củ sắn lớn cỡ cườm tay,
dài một gang. Cũng có ngày tôi được hai củ khoai lang luộc nặng
chừng nửa kư. Thường xuyên, thực đơn cho tù trốn trại là một tô cháo
sắn phơi khô rắc muối.
Từ lâu lắm rồi, không nghe ai nhắc tới hai chữ "nhân quyền". Trong
thời gian tôi bị cùm ở trại này th́, cứ cách hai hay ba tiếng đồng
hồ, một tên bộ đội đi tuần tra lại ghé kiểm soát t́nh trạng khóa,
chốt, c̣ng, cùm một lần. Trong bóng tối, để chắc chắn rằng tôi c̣n
sống, anh ta thường "tiện tay" khện cho tôi một cái bạt tai hay một
báng súng để nghe tôi la lên oai oái v́ đau.
Đêm nào nghe thấy tiếng chân nhiều người đi tuần, ḷng tôi lại phập
phồng,... biết đâu?... rất có thể, người ta sẽ ập vào, hè nhau đè
tôi xuống, bịt miệng, khóa tay tôi, tṛng một sợi dây tḥng lọng vào
cổ tôi, rồi lôi thân tôi lên xà nhà, như cách đây hai năm họ đă làm,
để giết một anh tù vượt ngục bên Trại 4. Những cái chết như thế sẽ
được thông báo là "tù tự tử", thật đơn giản.
Một ngày, khi vệt nắng vừa chấm chân vách tường hướng Tây, từ bên
sân của đội cưa xẻ, sát hàng rào có tiếng người nhắn sang, tôi nhận
được đó là tiếng thằng bạn thân Vũ Văn Bằng,
" Long ơi! Thợ mộc được lệnh đóng ba cái áo quan. Chắc tụi mày sẽ bị
xử bắn. Trưa mai tao sẽ đem cơm cho mày. Mày có nhắn ǵ cho gia đ́nh
th́ nói với tao, tao sẽ thư cho gia đ́nh tao, rồi chuyển cho gia
đ́nh mày. Tao cứ tưởng tụi mày đă đi thoát, không ngờ..."
Rồi nó nấc lên, nghẹn ngào...
Thằng Bằng cũng là dân Bắc-Kỳ Di Cư như tôi. Chúng tôi thân thiết
sáu năm cùng lớp Trung Học Trần Quí Cáp. Sau khi tốt nghiệp Tú Tài
1, nó t́nh nguyện đi Khóa 63 A Sĩ-Quan Không-Quân.
Thiếu Tá Vũ Văn Bằng là Trưởng Pḥng Quân-Báo Sư Đoàn 6 Không-Quân.
Mỗi lần từ tiền đồn về thăm Pleiku, tôi thường gặp nó.
Nằm trong cùm, nghe tiếng khóc của người bạn đồng môn, ḷng tôi
chạnh nhớ ngôi trường đă đào tạo tôi thành người.
Tiếng thày hiệu trưởng Tăng Dục, ngày đầu Đệ Thất, c̣n đâu đây,
"Trường chúng ta được hân hạnh mang tên Trần Quí Cáp. Cụ Trần là một
vị anh hùng ái quốc. Thày mong muốn các em chăm chỉ học hành, để sau
này thành đạt, ra giúp nước, làm rạng danh cho trường."
Hôm ấy có một vị khách, vốn là một giáo viên, bạn của thày hiệu
trưởng, tới thăm và nói chuyện. Vị khách này là thân sinh ra anh
Phạm Phú Nhàn, người ngồi bên cạnh tôi.
Ông khách mở đầu bài diễn văn bằng một câu mà tôi nhớ cả đời,
"Tụi mi nhớ đây! Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm một viên
ngói lành. Nếu tụi mi không chăm chỉ học hành th́ suốt đời tụi mi
chỉ là những cục cứt xái mà thôi!"
Sau đó ông già dài ḍng kể về lư lịch và cuộc đời người anh hùng ái
quốc Trần Quí Cáp, qua đấy, chúng tôi biết cụ Trần v́ yêu quê hương,
yêu đồng bào, nên đă bị cầm tù, bị đưa lên đoạn đầu đài.
Tôi lớn lên, tự hào và hănh diện là một đứa con của cụ Trần. Tôi cứ
nhớ măi hai danh từ "viên ngọc nát"' và "cục cứt xái" mà ông bố anh
bạn học của tôi đă đem ra ví von trong câu truyện khuyên nhủ tụi
nhỏ.
Tháng Năm năm 1908 cụ Trần Quí Cáp đă bị đưa ra pháp trường, xử trảm
ngang lưng. Ngày đó khóc bạn, cụ Phan Bội Châu đă viết,
"Ngọc toái bất ngơa toàn, tam tự ngục hàn, sơn hải khấp
Hồng khinh nhi thái trọng, thiên thu luận định, nhật tinh huyền."
(Phan Bội Châu)
Dịch:
Ngọc nát vẫn hơn ngói lành, nhà tù ba chữ, núi biển khóc
Thái Sơn nặng, lông hồng nhẹ, bàn luận ngh́n năm, c̣n thấy sao trời
sáng.
Bảy chục năm sau, tháng Năm năm 1978, một người v́ yêu đất nước, yêu
đồng bào cũng đang nằm chờ giờ ra pháp trường.
Hai người, tôi và cụ Trần Quí Cáp, tuy sinh ra không cùng thế kỷ,
nhưng đă phạm cùng một tội: "Tội mất nước" (Phan Bội Châu)
Thế mới biết, những người yêu nước có thể bị giết, nhưng tinh thần
ái quốc của một dân tộc th́ bất diệt.
Trưa nay nghe tiếng khóc của thằng bạn, tôi thở dài,
"Thôi thế cũng là xong! Cứ coi như một lần ra trận..."
Mười hai năm lửa đạn, vào sinh ra tử, tôi đă không ngừng cố gắng để
hoàn thành phần nào ước vọng của thày tôi ngày đầu Đệ Thất. Là đệ tử
của cụ Trần Quí Cáp, tôi đă noi gương cụ, cống hiến trọn đời tôi cho
tổ quốc.
Tiếc thay, đất nước tôi đă tới thời mạt vận, nên tôi đành chấp nhận
những tai ương giáng xuống số phận ḿnh.
Đêm hôm đó tôi thức trắng. Tôi nằm im, nhắm đôi mắt lại, mường tượng
ra trong trí, từng khuôn mặt của những người thân. Trước h́nh ảnh
mỗi người, tôi lẩm nhẩm nhắn nhủ lời vĩnh biệt. Lần lượt, tôi chia
tay với mẹ tôi, rồi tới vợ tôi, cùng ba đứa con gái.
Đến lúc phải tưởng tượng ra khuôn mặt thằng con út th́ óc tôi quay
ṃng ṃng. Tôi không làm sao vẽ ra trong trí khuôn mặt của thằng
con. Nó sinh ra ba tháng sau ngày Miền Nam sụp đổ, lúc đó tôi đă ở
trong tù rồi.
Trưa hôm sau thằng Bằng năn nỉ anh bạn tù trưởng bếp để nó thay anh
ta đem phần ăn một ngày sắn khô cho tôi. Nó đứng ngoài cửa buồng
giam, miệng cười hô hố,
- Long ơi! Chiều hôm qua, sau khi đóng xong ba cái áo quan, về lán
tao không ngủ được. Tao buồn, tao thương mày, tao khóc suốt đêm.
Sáng nay tao mới biết, Trại 7 có năm thằng chết đuối v́ bị ch́m mảng
khi đi chặt nứa. Nhưng Trại 7 chỉ có hai cái áo quan, nên tụi tao
phải đóng thêm ba cái nữa. Thế mà tao cứ ngỡ là áo quan để dành cho
ba đứa tụi mày...
Thằng Bằng chưa dứt lời đă có tiếng vệ binh quát tháo,
- Anh kia! Đem cơm cho "phạm" xong là phải đi ngay. Lớ ngớ ở đây tôi
cho một báng súng bây giờ.
Lúc đó vệt nắng nằm ngay giữa nền nhà, đúng Ngọ! Anh bạn Thiếu Tá Vũ
Văn Bằng vừa báo cho tôi một tin vui. Như vậy là, ít nhứt tôi cũng
c̣n sống thêm một, vài ngày nữa!
Nhưng vừa cảm thấy vui đó, ḷng tôi lại chùng xuống ngay. Bởi v́,
suy nghĩ lại, th́ đó cũng là một tin rất buồn, v́ tôi vừa mất năm
đồng đội. Mai đây, ở một nơi xa xôi nào đó, trong Nam, sẽ có năm gia
đ́nh đau khổ vô cùng khi được báo tin này.
Chuyện ra pháp trường của tôi đă không xảy ra. Hôm sau chúng tôi bị
chuyển trại. Ba người bị trói quặt hai tay ra đàng sau. Thêm vào đó
là một sợi thừng được buộc vào cánh tay phải của tôi, luồn qua lưng
anh Trụ, tới cánh tay trái của anh Cả. Đi hướng nào, chúng tôi cũng
bị dính chùm.
Hai khẩu A.K kèm chúng tôi rời Trại 9 vào giờ tù tập họp đi lao
động. Những khuôn mặt hốc hác v́ đói khát của đồng đội đang hướng về
phía chúng tôi. Có đôi bàn tay gầy guộc đưa lên má vội vàng quệt
nước mắt.
Chúng tôi bị dẫn đi một ṿng quanh chợ Cẩm-Nhân để cho dân địa
phương coi mặt. Cũng may, lần này dân chúng chỉ đứng nh́n theo ba
người tù bị trói một cách ṭ ṃ, không có ai chạy theo ném đá hay đả
đảo, sỉ nhục chúng tôi như thời 1976.
Năm 1976, sau khi bị bắt v́ tội vượt ngục lần đầu từ Trại 3, tôi và
Thiếu Tá Đặng Quốc Trụ đă bị trói ngoặt cánh khuỷu, rồi bị dẫn riệu
qua đây để dân địa phương bày tỏ ḷng căm thù “Ngụy Quân ác ôn".
Chúng tôi bị ném đá sưng đầu, sưng cổ.
Cùng thời gian đó, toán bị bắt bên kia sông Hồng, về qua đây cũng bị
dân đánh đập tơi bời, Thiếu Tá Hồ Văn Ḥa găy xương sườn, Thiếu Tá
Nguyễn Văn Nghiêm sưng vù hai má, Thiếu Tá Trần Tấn Ḥa dập mũi.
Riêng toán đi từ Trại 4 là bị "chiếu cố" kỹ càng nhứt: Đại Úy Nguyễn
Tấn Á bị đánh bằng đ̣n gánh, xệ vai trái, Thiếu Tá Chu Trí Lệ bị
quật lọi cẳng chân, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Đông bị đấm ḷi mắt. Không
những thế, ba anh này c̣n bị nhốt trong chuồng trâu, bị dân quân nắm
tóc, dúi mặt vào hố phân trâu ḅ nhiều đợt, xém chết ngạt.
Trong hai năm bị giam giữ ở đây, chúng tôi có nhiều dịp đi lao động
"vần công" với các hợp tác xă nông nghiệp của dân địa phương. Qua
những lần tiếp xúc ấy, người dân có lẽ đă nhận ra rằng, những sĩ
quan Việt-Nam Cộng-Ḥa không phải là những kẻ "ác ôn" như họ từng
nghe chế độ Bắc-Việt tuyên truyền. Dần dà, dân chúng nơi này đă nh́n
chúng tôi với đôi mắt khác xưa. Càng ngày, dân trong vùng càng tỏ ra
thân thiện với chúng tôi hơn.
Rời chợ Cẩm-Nhân, vệ binh dẫn chúng tôi nhắm hướng Lũng Ngàn: thế là
chúng tôi về lại Trại 4!
Tháng Tám năm 1976 tôi đă bị cùm ở buồng giam Trại 4 hơn ba tháng
trời. Rồi cũng từ nơi này, đầu năm 1978, tôi lại xuất phát cuộc vượt
ngục lần thứ hai.
Nay bị đưa trở lại nơi đây để chấp cung th́ quả là điều đáng sợ đối
với tôi.
Cũng như ở bên Trại 9, hai bạn tôi bị nhốt trên ban chỉ huy. C̣n tôi
bị cùm riêng trong nhà kỷ luật nơi góc trái cổng trại, sát hàng rào,
bên bờ suối.
Vừa đặt chân vào pḥng giam, tôi đă nh́n thấy một cái cùm mới cáo
cạnh. Cái cùm chân này tinh vi và chắc chắn hơn cái cũ nhiều.
Trước đây, năm 1976, chân người bị cùm có thể duỗi dài thoải mái,
hai chân sát đất trong buồng giam.
Lần này cùm làm bằng hai tấm ván ghép, mỗi tấm được khoét hai nửa
ṿng tṛn vừa cổ chân. Sau khi gác hai cổ chân tù nhân lên hai h́nh
bán nguyệt của tấm ván dưới, cai tù sẽ kéo sập tấm ván trên xuống và
khóa chốt. Thế là, tù nhân chỉ c̣n cách nằm ngửa, vắt hai chân lên
cao 45 độ. Chân người bị phạt sẽ ḷi ra ngoài ô cửa sổ đầu hồi. Lính
canh không phải đi tới cửa buồng giam, mà chỉ cần bước qua cổng
chính là đă nh́n thấy đôi chân người có tội rồi.
Sau này tôi mới biết, cái cùm đó được hoàn thành chỉ vài ngày trước
khi chúng tôi bị giải về đây. Người vẽ kiểu cùm là viên Thượng Úy
Việt-Cộng tên Xuyên, Chính Trị Viên của Trại 4. Người tù thợ mộc
được giao nhiệm vụ đóng cái cùm lại là một cựu Hải Quân Thiếu Tá
VNCH, bạn cùng lớp Trần Quí Cáp của tôi.
C̣ng tay là một cặp khoen sắt rèn số 8 vừa sát với cổ tay. Khóa của
nó là loại khóa cửa, lớn bằng bàn tay, nặng chừng một kư lô. Cái
khóa này đè trên ngực làm cho tù nhân khó thở vô cùng.
Ngay buổi chiều đầu tiên, tôi đă bị tên vệ binh Lê Văn Tưởng tới
"hỏi thăm sức khỏe".
Vệ binh Lê Văn Tưởng và vệ binh Hồ Ngọc Thắng, biệt danh "Thắng Bo"
là hai hung thần của Trại 4. Thấy bóng dáng hai tên này từ đàng xa,
anh em bạn tù đă run rồi.
Tên Tưởng ló đầu bên cửa sổ đầu hồi, đôi mắt chớp chớp, miệng cười
cười,
- Anh Long ơi! Mạnh khỏe chứ?
- Thưa anh bộ đội, tôi vẫn khỏe.
- Người ta đồn, nửa đường, máy bay lên thẳng của Mỹ đến đón, nhưng
các anh thích đi bộ cho khỏe chân, nên mới bị bắt lại, có đúng
không?
- Tôi không biết chuyện này anh bộ đội ạ!
- Ḿnh "nhớ" anh muốn chết! Anh có "nhớ” ḿnh không?
Tôi lặng thinh.
- Anh đi vắng mấy ngày? Anh nhỉ?
- Tôi trốn sáu mươi bốn ngày.
Tên bộ đội gỡ cái băng đạn A.K ra khỏi súng, nhoài người qua cửa sổ,
- Sáu mươi tư ngày! Kỷ lục đấy!
Hắn dơ cao cái băng chứa đầy đạn A.K gơ xuống hai chân đang bị cùm
của tôi, rồi lớn tiếng dơng dạc đếm,
- Một!...Hai! ...Ba!... Bốn!...
Sống của cái băng đạn giáng trên xương ống quyển làm cho tôi thót
tim. Tôi la lên,
"Ối!... Ối!...Ối! ..."
Thấy tôi đau líu lưỡi, Tưởng cười khoái trá. Nó cười bằng miệng, và
cười cả bằng đôi mắt,
- Anh Long đi vắng sáu mươi tư ngày. Tôi khổ v́ anh sáu mươi tư
ngày. Tôi sẽ gơ chân anh sáu mươi tư lần để anh nhớ! Mười hai! Mười
ba! Mười...
Tôi đau đến chảy nước mắt, đau nhảy nhổm, đau quằn quại, giẫy đành
đạch.
Vệ binh Lê Văn Tưởng vẫn tỉnh bơ, mặt không đổi sắc, tay nó dơ lên,
giáng xuống, đều đều...
Ống chân tôi sưng lên, rồi tóe máu. Mắt tôi bắt đầu hoa, tai tôi ù
như sắp điếc đặc.
Đau quá, tôi điên tiết, ngồi bật dậy. Tôi dơ hai tay có cái c̣ng lên
cao, nện một phát thẳng cánh, trúng cổ tay thằng mất dạy.
Bất ngờ bị một cú đau điếng, nó buông rơi băng đạn. Mặt nó đổi sắc
thành màu tím. Nó nghiến răng, rít lên,
- Tiên sư cha nhà mày! Ông cho mày biết tay. Từ nay mày chỉ c̣n nước
ḅ thôi, hết đi được nữa rồi! Con ơi!...
Nó cúi xuống rút con dao găm đeo trên dây lưng. Một tay nó cầm bàn
chân phải của tôi, tay kia dí mũi dao vào nhượng chân. Chỉ một giây
đồng hồ nữa là gân nhượng chân tôi bị cắt! Tôi sẽ thành phế nhân!
- Ngừng tay ngay!
Tiếng quát của ai đó làm cho tên khát máu chùn tay, mũi nhọn của con
dao găm vừa chạm lớp da khuỷu chân tôi th́ ngừng lại.
Người vừa quát là cán bộ Vấn.
- Đồng chí có nhiệm vụ ǵ ở đây? Sao lại định cắt gân chân người ta?
- Thủ trưởng ơi! Thằng này hỗn láo quá! Nó chửi tôi. Tôi phải dạy nó
một bài học.
Cán bộ Vấn nghiêm giọng,
- Chuyện ǵ cũng phải báo cáo với cấp trên. Đồng chí không được tự
tiện.
Hung thần họ Lê đi ṿng sang cửa chính, khom ḿnh lượm cái băng đạn.
Nó lườm lườm nh́n tôi với đôi mắt căm hờn,
- Tiên sư cha mày! Số mày c̣n may lắm đấy!
Tôi cũng nghiến răng, trợn mắt, nh́n ngay mặt nó,
- Tổ mẹ mày! Đồ con chó!
Cán bộ Vấn ra lệnh,
- Đồng chí Tưởng ra khỏi đây ngay! Từ nay, nếu không phải phiên
trực, tôi cấm đồng chí léo hánh tới đây.
Chờ cho tên Tưởng qua khỏi cổng, cán bộ Vấn mới bước tới sát cửa
pḥng giam, nhỏ giọng nói với tôi,
- Chuyện đâu c̣n có đó. Anh Long yên chí nằm nghỉ đi, đừng lo nghĩ
ǵ cả.
Viên Trung Úy Cộng-Sản tên Bùi Văn Vấn này là dân Hải-Dương. Anh ta
làm quản giáo ở đây từ ngày mới lập trại.
-----o-----
Đêm tháng Năm, muỗi vo ve...
Ngoài rào có tiếng chân người lội lơm bơm dưới nước; chắc đó là ông
già Khê người dân tộc Tày? Đêm nào già Khê cũng đi cắm cần câu cá
dọc theo con suối.
Nhà của già Khê nằm sát rào Trại 4. Trước khi trốn trại, mỗi lần tôi
đi ngang qua rào, ông cụ tốt bụng này thường dúi cho tôi một gói ớt
hiểm, kèm với lời dặn ḍ,
"Ở nơi thâm sơn cùng cốc này, nhớ mỗi ngày làm một quả ớt hiểm để
chống sốt rét, ngă nước!"
Có ánh đèn pin loang loáng, rồi tôi nghe già Khê lớn tiếng hỏi người
nào đó,
- Làm ǵ mà ngồi đây thế? Thấy hết hồn... tưởng ma!
Người kia trả lời,
- Suỵt! ... Suỵt!... Cháu... ngồi ...chơi...
Tiếng người này nhỏ nhí, nhưng tôi vẫn nghe được đó là tiếng vệ binh
Đèo Văn Thắng. Trại 4 có hai vệ binh tên là Thắng. Đèo Văn Thắng
người Cao-Bằng, hiền như bụt nên chúng tôi gọi là "Thắng Phật". Tính
nết "Thắng Phật" trái ngược hẳn với "Thắng Bo" Hồ Ngọc Thắng người
Bắc-Thái rất độc ác dữ dằn. Gặp điều không vừa ư, "Thắng Bo" đánh tù
không nương tay. Chữ "Bo" là từ chữ "Porteur" tiếng Pháp, có nghĩa
là "phu khuân vác". Biệt danh của hai vệ binh tên Thắng đều do anh
em tù Trại 4 đặt ra, và truyền miệng với nhau.
Già Khê lại lớn tiếng thắc mắc,
- Ngồi chơi mà chong súng như canh kẻ trộm? Có báo động hử?
- Không...không...cháu ngồi chơi mà...
- Ừ! thôi nhá! Có rảnh vào nhà rít điếu thuốc lào rồi hăy về...
- Vâng...vâng...
Sau đó tôi nghe mấy tiếng “Thịch! Thịch! Thịch!...” trên nền đất, có
lẽ già Khê đang dậm dậm gót chân vài cái cho ráo nước?
Rồi tiếng chân bước xa dần, đêm trở lại với mớ âm thanh hỗn độn của
ếch nhái, côn trùng...
Tôi đang thiu thiu sắp ngủ th́ có bóng người bước vào. Người đó vỗ
nhè nhẹ bên hông tôi,
- Dậy! Dậy mau! Ban chỉ huy trại thấy anh tiến bộ nên xét tha cho
anh về lán đấy!
Tên vệ binh cúi xuống lấy ch́a khóa mở c̣ng tay cho tôi, rồi y đi
ṿng ra ngoài đầu hồi tháo chốt cái cùm chân.
Bất ngờ nghe lệnh được tha về đội lao động, tôi vừa ngạc nhiên, vừa
mừng rỡ.
Tôi chưa đứng vững, tên bộ đội đă thúc giục,
- Đi mau! Anh lên "khung" gặp trực trại, kư giấy tha rồi về lán cho
sớm!
Tôi thấy ngoài trời tối đen như mực, nên chùn bước,
- Tối thế này làm sao thấy đường mà đi? Mọi đêm, các anh dẫn tôi đi
đâu cũng có cái đèn băo mà?
- Hôm nay chỉ lên kư cái giấy thôi, cần ǵ đèn với đóm?
Linh tính báo cho tôi biết, h́nh như có điều ǵ không ổn, nên tôi
vội ngồi bệt xuống bực cửa,
- Tôi không đi đâu! Muốn tôi đi, phải có đèn, đi không đèn th́ vệ
binh gác trên cḥi sẽ bắn tôi chết!
Tên bộ đội thấy tôi ngồi ́ ra trước thềm, bèn rút túi, lấy ra một
khúc nến. Y bật quẹt đốt nến lên, trao cho tôi,
- Đây! Đèn đây, anh cầm lấy rồi đứng lên đi đi!
Tôi ù ĺ,
- Nếu anh đưa cái đèn băo, tôi sẽ cầm đi ngay. Cây nến này ra gió là
tắt liền, tôi không đi đâu!
Tức quá, nó quát ầm lên,
- A! Cứng đầu hả? Anh không đi, tôi điệu anh đi!
"Huỵch! Huỵch!"
Bị hai cái báng súng đánh vào vai, đau lắm, nhưng vẫn không nao
núng, tôi cứ ngồi ôm chặt cây cột cửa không chịu buông.
Sau cùng, thằng vệ binh đành quàng khẩu súng ngang vai để hai tay nó
được tự do nắm cổ áo tôi, lôi ra cửa. Biết ḿnh không đủ sức vật
nhau để cướp súng, tôi đành ôm cánh tay kẻ thù, nhe răng cắn tới
tấp. Đau quá, nó đành buông tôi ra. Tay xoa chỗ bị cắn, miệng nó
chửi,
- Đồ chó cắn càn!
Tôi la lên,
- Anh muốn bắn tôi phải không? Bắn th́ bắn bây giờ đi! Tôi không ngu
mà bước ra cổng cho anh bắn đâu! Tôi biết tỏng... ṭng... tong... âm
mưu của anh rồi!
H́nh như câu nói đó làm cho tên vệ binh chạm nọc, nó ấp úng,
- Ấy! Ấy! Tôi không bắn anh đâu! Mà sao anh biết? Ơ ...ơ ...ơ...
Bộ dạng bối rối của thằng cai tù kèm với câu “Mà sao anh biết?...”
khiến tôi suy ra ngay,
“Đúng rồi! Tụi nó gài cho ḿnh không đèn đóm đi ra cổng để giết
ḿnh! Mấy thằng bộ đội chong súng ngoài kia đang ngồi phục kích chờ
bắn ḿnh chứ đâu phải ngồi chơi?”
Thấy chết đến nơi, tôi đánh nước liều, chơ mồm về hướng các lán tù,
tôi gào lên,
- Anh em ơi! Người ta giết tôi! Anh em ơi! Chúng nó bắt tôi đi ra
khỏi rào để bắn tôi! Anh em ơi! Cứu tôi với!
Ngay từ lúc đôi bên giằng co, đă có vài người tù ở Lán 1 và Lán 5 ló
đầu ra theo dơi. Nghe tiếng tôi kêu cứu, họ cũng hét ầm lên,
- Không được giết người! Không được giết người!
- Chúng nó giết tù! Anh em ơi! Chúng nó giết tù! Anh em ơi!
Tiếng la lớn nhứt tôi nghe được, rơ ràng là tiếng của Đại Úy Phạm
Xuân Độ.
Gặp cảnh bất ngờ, tên bộ đội đứng ngẩn người, không biết xử trí ra
sao.
Bỗng có ba tiếng súng chỉ thiên phát ra từ cḥi gác ngoài cổng trại.
Rồi một tốp bộ đội ôm A.K chạy túa vào sân. Tên trưởng toán vệ binh
thét lớn,
- Tù làm loạn hả? Vào lán! Đóng cửa lại! Đứa nào lớ ngớ ngoài hiên
chúng ông bắn bỏ mẹ! Nghe chưa?
Có tiếng lên đạn, "Cà róch!... Cà rách!..."
Tôi bị tống năm, sáu báng súng vào ngực, vào lưng, rồi bị đẩy vào
nhà kỷ luật trở lại. Hai phút sau, c̣ng, cùm khóa xong. Vệ binh tản
mát dần. Cảnh vật lại yên tĩnh như không có ǵ xảy ra.
Trại tù đèn tắt tối thui, nhưng tôi yên tâm nhắm mắt ngủ, v́ tôi tin
tưởng rằng qua khe vách liếp của các lán tù, thế nào cũng có vài đôi
mắt đang theo dơi sự an nguy của tôi.
Sáng hôm sau, trước khi nghe tiếng kẻng xuất trại lao động, có bốn,
năm người bị gọi lên tŕnh diện cán bộ an ninh của trại, trong số
này có anh Phạm Xuân Độ. Đại Úy Biệt Động Quân Phạm Xuân Độ là một
người đàn em trong đơn vị tôi. Tôi và Độ thân nhau như anh em ruột.
Khi đi ngang qua nhà giam, Độ lớn tiếng, cốt cho tôi nghe,
“Thái Sơn ơi! Đàn em không bỏ đại ca đâu! Đại ca ơi!”
Tôi ngồi nh́n theo bóng chú Độ, ḷng bồn chồn, thấp thỏm không yên.
Chừng một tiếng đồng hồ sau, nhóm tù dính líu tới vụ lộn xộn đêm qua
được thả về. Ngang qua chỗ tôi ngồi, Độ lại phát thanh bổng,
“Thái Sơn ơi! Chỉ có một tờ kiểm điểm, không nhằm nḥ ǵ.”
Nghe vậy, tôi mới thấy ḷng nhẹ nhơm, hết lo âu.
Mấy cái báng súng đêm trước đă khơi động những chấn thương cũ trong
thân thể tôi. Tôi chợt thấy ngực ḿnh đau nhói một cách kỳ lạ.
"Bục!...Bục!...Ục!...Ục!..."
Ruột gan tôi như đang lộn lạo, sôi sùng sục. Có một vật ǵ tṛn
tṛn, mềm mềm như cái bong bóng đang t́m đường chui qua cổ họng tôi
để thoát ra ngoài.
"Ộc!...Ộc! Phè!...Phè!..." Máu từ ngực tôi vọt qua hai hàm răng,
văng tung tóe trên đùi và trên nền ván gỗ.
Tôi ói máu liên tục. Lúc này, trước mắt tôi chỉ c̣n những đốm sao
chớp chớp, lập ḷe. Rồi tất cả tối sầm lại, đen đặc. Tôi gục đầu hôn
mê trên chiếc c̣ng tay...
"Lai tỉnh đi Long! Long ơi!... Lai tỉnh đi Long!..."
Tôi mở mắt ra, thấy ḿnh đang nằm thoải mái trên nền đất nhầy nhụa,
hôi tanh, tay không c̣ng, chân không cùm. Ông thầy thuốc Nam của
trại một tay bóp miệng cho tôi thở, tay kia không ngừng giựt giựt mớ
tóc mai bên thái dương tôi.
Cán bộ Nghiễm trực trại, đang đứng trước cửa theo dơi. Thấy tôi mở
mắt tỉnh lại, y buột miệng,
- Tưởng đi luôn rồi chứ!
Sau đó y ra lệnh cho tên lính gác,
- Dẫn nó ra suối!
Thế rồi, sau nhiều ngày ủ ḿnh trong bộ quần áo kaki đầy máu me, cứt
đái hôi thối, tôi được đi tắm. Sức yếu, hai chân lại đau, tôi đi
không nổi, đành phải ḅ. Tới cổng, tôi níu vào hàng rào đứng lên, cố
gắng lần ṃ từng bước. Có hai anh bạn đánh liều chạy tới đỡ, d́u tôi
đi. Thấy thế, vệ binh cũng làm ngơ.
Trong lúc tôi đi vắng, một anh bạn tù bị bắt làm công tác vệ sinh
nhà giam với một thúng tro.
Tới suối, tôi tụt hết quần áo, lết nhanh xuống ḍng nước mát. Hai
tên lính canh đă gh́m súng ngồi sẵn trên bờ. Cán bộ Nghiễm ra điều
kiện,
- Anh Long có mười phút tắm gội. Cấm không được lặn!
Tôi bỏ ngoài tai lời đe dọa, cứ gục đầu xuống uống đầy một bụng
nước, rồi lặn ngụp, ṿ đầu ṿ tai. Những con cá ḷng tong bu vào gặm
nhấm lớp da phủ vảy máu mủ chưa khô trên ống quyển. Lúc đầu, răng cá
làm cho những vết thương chân của tôi thật là đă ngứa. Sau đó máu
tươm ra, tôi bắt đầu cảm thấy xót, thấy đau.
Buổi chiều, trực trại sai hai bạn tù kè nách đưa tôi lên pḥng làm
việc. Tôi phải viết hai tờ tự kiểm, phải thành tâm hối hận về hành
động trốn trại vừa qua để xin ban chỉ huy trại khoan hồng.
Tôi nại cớ hai tay bị cùm, bị đánh, đă tê dại, không cầm bút được.
Thế là một anh bạn gốc Không Quân đang ngồi tỉa bắp trên kho bị điệu
vào ghi chép tờ tự khai cho tôi. Tôi nói anh bạn muốn viết ǵ th́
viết, rồi tôi nhắm mắt kư bừa, không cần đọc lại. Lúc nộp hai tờ tự
kiểm cho cán bộ, h́nh như anh ta đă ghi lộn họ Vương của tôi thành
họ... Nguyễn th́ phải?
Trong thời gian chờ cán bộ của Nha Quân-Pháp Bộ Quốc-Pḥng Cộng-Sản
từ Hà-Nội về chấp cung, tôi không được đi ra ngoài. Mọi sinh hoạt
tiêu, tiểu đều ở ngay chỗ nằm. Hằng ngày, ông thầy thuốc Nam của
trại có nhiệm vụ đi vứt cứt đái cho tôi. Biết tôi bị nội thương, ông
ta lén dấu cho tôi vài viên xuyên tâm liên. Ông thầy thuốc này cũng
là tù cải tạo. Tù mắc bịnh ǵ ông ta cũng cho uống xuyên tâm liên!
Từ thời ông ta đảm nhận công tác y tế của trại, tôi chưa thấy ai
chết v́ xuyên tâm liên cả.
Ngày Chủ Nhật, trại được nghỉ lao động. Hai cổng trước sau đều bị
khóa. Tên lính gác trên cḥi cao ngồi ngủ gà ngủ gật. Các bạn tù túa
ra sân, người th́ tay chân bận bịu với ca cóng trong việc nấu nướng,
kẻ tụ họp đánh cờ, vài anh khác mải mê tập thể dục, dưỡng sinh. Có
bóng người lạng qua cửa nhà cùm.
"Vèo!...Vèo!...Độp!...Độp!..." vài cục đường thẻ và mấy củ khoai
lang luộc được quăng vào nhà kỷ luật.
Hai củ khoai bay tuốt vào góc pḥng, ngoài tầm tay với. C̣n hai cục
đường v́ nhẹ, nên rơi nơi bục cửa, tôi chụp lẹ, rồi đưa ngay vào
mồm.
Oái oăm làm sao! Cục đường trong miệng lại nằm kẹt ngay chỗ cái răng
đă bị tên Lời đập găy, tôi đau điếng người! Cả hàm răng tê tái, cứng
đờ, cục đường nằm trong họng măi không chịu tan.
Hai ông bạn tù vừa ném đồ ăn cho tôi, một ông là Hải Quân Thiếu Tá
Trần Văn Căn, bạn cùng lớp Trần Quí Cáp, người thứ nh́ là Đại Úy
Vương Thành Lân Khóa 19 Vơ-Bị.
Lâu ngày mới thấy chất ngọt, nước dăi trong mồm tôi tiết ra ào ào,
nuốt không kịp.
Tới trưa hôm đó mới khổ! Tôi chưa kịp cởi quần đă bị "Tào Tháo"
đuổi, bắt tại chỗ! Tay c̣ng, chân cùm, tôi đành nằm chịu trận.
Chờ măi, tôi mới thấy bóng dáng ông thầy thuốc Nam trước cửa nhà
bếp. Tôi lên tiếng gọi, rồi mắc cỡ, nói với ông ta rằng v́ bị trúng
gió, tôi đă "bĩnh" ra quần.
Ông lang sốt sắng chạy vội lên gặp cán bộ trực trại. Tôi được "chiếu
cố" cho ra suối tắm rửa lần nữa.
Hai ngày sau, vào lúc xế chiều, cán bộ Vấn xuất hiện. Đứng chân
trong, chân ngoài ngạch cửa, anh ta dặn ḍ,
- Ngày mai có người từ trên Bộ xuống chấp cung. Tính mạng của anh
coi như an toàn rồi đấy! Tôi cũng mừng cho anh. Có điều là cần kín
miệng.
Nói vừa xong câu, anh ta vội vàng xoay lưng, bước đi.
---o---
Chín giờ sáng ngày hôm sau, tôi ngồi đối mặt với một thượng úy của
Nha Quân-Pháp Cộng-Sản. Công tác chấp cung xảy ra đúng ba ngày.
Ngày thứ nhứt...
Tay nhấn cái nút "Play" màu trắng, đồng thời với cái nút "Record"
màu đỏ của chiếc cassette để trên bàn, tên cán bộ bắt đầu cuộc thẩm
vấn,
- Trong thời gian ở Trại 4 này, cán bộ và chiến sĩ của trại có làm
điều ǵ trái với chính sách của đảng và nhà nước khiến cho anh và
các trại viên khác bất măn không?
Tôi thoáng nghĩ,
"Phủ bênh phủ, huyện bênh huyện, ḿnh có nói ra những hà khắc, bất
nhân của cán binh trại này, chưa chắc hắn ta đă làm được điều ǵ
thay đổi. Mà không chừng, tố cáo những ǵ ḿnh chứng kiến, có khi
c̣n mang vạ vào thân..."
Hai bàn tay xếp trên đùi, tôi tránh đôi mắt người đối diện,
- Thưa cán bộ, tôi thấy rằng ở trại nào th́ chế độ cũng như nhau.
Tôi không có điều ǵ để khiếu nại cả.
- Vậy th́, nguyên nhân nào đă khiến anh vượt trại?
- Tôi trốn trại là để đi t́m tự do.
- Sao lại phải đi t́m? Bao giờ học tập xong, anh sẽ được trả tự do
thôi!
Ngẩng đầu lên, thấy vẻ mặt người sĩ quan Cộng-Sản không có nét ǵ là
giận dữ, tôi đánh bạo,
- Thưa cán bộ. Cán bộ có thể cho tôi biết, đến bao giờ th́ khóa học
của tôi mới chấm dứt?
Thừ người ra một phút, viên thượng úy nhịp nhịp cái bút ch́ trên mặt
bàn,
- Cái ấy cũng tùy, một năm, vài ba năm, tùy nơi các anh...
Lúc đó mắt tôi chợt nh́n thấy trong góc pḥng một cái giá súng, trên
đó dựng bốn khẩu A.K của vệ binh. Một ư nghĩ thoáng qua,
"Hai giây đồng hồ để nhảy từ đây tới cái giá súng. Một giây chụp
khẩu A.K. Một giây kéo cơ bẩm. Hai giây vượt qua cửa sổ. Một phút
sau có mặt trong vườn sắn. Lính canh trên cḥi gác không thể quan
sát được phía sau vườn sắn. Phải tốn ít nhất là năm phút, vệ binh
mới tập họp xong. Chỉ cần năm phút phù du ấy là ta đă lên tới Lũng
Ngàn rồi!"
Tiếng gơ nhịp bút ch́ chợt ngừng th́nh ĺnh. Tôi liếc mắt thấy vẻ
mặt hơi thất sắc của tên cán bộ. H́nh như hắn ta đă thấy mắt tôi
đang dán vào cái giá súng?
Y vụt xô ghế, đứng dậy,
- Thôi anh về nghỉ, ngày mai ta làm việc tiếp.
Tôi chột dạ, nhưng cũng không tỏ vẻ bối rối. Phải chống hai tay lên
ghế lấy đà, tôi mới từ từ đứng lên được. Lúc này tôi chợt sực tỉnh:
sức tôi yếu quá! Tôi đứng c̣n khó khăn, nói chi tới chuyện chạy,
nhảy, leo trèo?
Ngày thứ nh́...
Bước vào pḥng trực, tôi không c̣n thấy cái giá súng A.K trong góc
nhà nữa. Bên ngoài cửa sổ thấp thoáng bóng vệ binh ôm súng, rảo bước
đi qua, đi lại.
Chờ cho tôi ngồi xuống ghế, viên sĩ quan quân pháp chỉ tay vào một
cái bịch giấy dày cộm trên bàn,
- Tôi đă có toàn bộ hồ sơ quân bạ của anh Long ở đây. Đầy đủ hết! Từ
bản tướng mạo công vụ, cho tới từng cái giấy phạt, giấy khen, huy
chương, khai sinh, giá thú ... không thiếu bất cứ thứ ǵ. Nếu không
tin, anh có thể tự tay kiểm tra lại, xem tôi nói có đúng không?
Rồi y rút ra đưa cho tôi mấy tờ huy chương và bản tướng mạo công vụ
của tôi. Thoáng nh́n thôi, tôi đă biết đó là thứ thật.
Thấy tôi có vẻ không hứng thú với việc đọc mớ giấy tờ kia, hắn từ
tốn cất chúng vào bao trở lại, rồi gật gù,
- Hôm nay chương tŕnh sẽ là nghe vài cuộn băng.
Cuộn băng thứ nhứt dài nửa giờ ghi lại phiên ṭa ngoài trời, cách
đây không lâu, xử một anh tù cải tạo tên Phê (?) trốn trại ở đâu
dưới Vĩnh-Phú hay Thanh-Hóa ǵ đó. Tiếng loa vang vang lời kết tội
phát ra từ miệng một "cải tạo viên", có lẽ là trật tự hay thi đua,
"Tên ngụy quân này đă ngoan cố vượt trại, không chịu học tập! Đề
nghị xử tử!"
Hàng chục người khác nhao nhao tán đồng,
"Đồng ư! "..."Nhất trí!"..."Đồng ư!"..."Nhất trí!"...
Một người nữa phát biểu,
"Thằng này đă cướp súng bắn lại cán bộ! Phải xử tử nó ngay!"
Đám đông lại thét gào,
"Xử tử!"..."Xử tử!"..."Xử tử!"...
Một ư kiến khác,
"Chúng tôi không an tâm học tập khi tên ác ôn này c̣n sống và tiếp
tục quấy rối chúng tôi..."
Khán giả dường như đă say máu,
"Xử tử nó đi!"..."Xử tử nó ngay!"..."Xử tử nó!"..."Xử tử!"...
Đa nghi cách mấy tôi cũng không thể nói cuộn băng này là giả tạo
được! Rơ mồn một, đấy là tiếng nói, tiếng la, tiếng hét của đồng đội
tôi. Tôi không thể nghe lầm: Đồng đội của tôi đang tranh nhau đ̣i
giết bạn ḿnh!
Là một tù nhân sắp ra ṭa lănh án, tôi không mảy may sợ hăi cái
chết, nhưng những tiếng la hét của những người đồng ngũ lại làm cho
tôi đau đớn vô cùng.
Cuộn cassette dài có nửa giờ, vậy mà tôi cảm như ḿnh đang trải qua
một cuộc tra tấn dài vô tận. Ngón đ̣n cân năo đă có hiệu quả! Ḷng
đau như cắt, hai lá nhĩ lùng bùng, đầu tôi choáng váng như muốn nổ
tung v́ những tiếng thét đầy man rợ,
"Xử tử!"..."Xử tử!"..."Xử tử!"..."Xử tử!"...
Cuộn băng ghi âm chấm dứt không có đoạn kết của phiên ṭa. Viên
thượng úy xoi mói nh́n vào mặt tôi, như t́m đọc phản ứng của tôi,
rồi y bồi theo một câu, như phát đạn ân huệ,
- Anh Phê bị xử bắn rồi đấy anh Long ạ!
Thấy tôi ngồi lặng thinh, hắn ta nói nhỏ,
- Tôi không cần hỏi thêm anh về lai lịch hay thành tích nữa làm ǵ.
Chúng tôi có đủ tài liệu và hồ sơ để xác định tội trạng của anh rồi.
Tuy nhiên, tôi cũng mạnh miệng bảo đảm rằng, tội của anh chưa đến
mức bị xử tử h́nh. Tin tôi đi!
Sau khi được uống một bát nước lạnh, tôi tiếp tục ngồi nghe cuộn
băng thứ nh́, cuộn băng ghi lời phát biểu của hai vị đại tá bị Cộng
Quân bắt tại mặt trận Ban-Mê-Thuột.
Cuộn băng chót là một buổi học tập, phê b́nh, kiểm thảo của một nhóm
sĩ quan cấp tướng và đại tá.
Qua hai cuộn ghi âm vừa rồi, tôi nhận ra giọng nói của những vị tôi
đă từng dưới quyền, đă từng thân thiết. Vẫn giọng nói xưa, nhưng
những lời tôi nghe được lại như từ miệng ai đó, tôi chưa từng gặp,
chưa từng tiếp xúc bao giờ!
Trong cơn băo tố cuồng điên, con thuyền quốc gia của dân tộc tôi
ch́m nhanh quá! Giữa biển khơi không thấy bến bờ, những người sắp
chết đuối thấy vật ǵ bồng bềnh trước mắt, cứ ngỡ rằng đấy là một
cái phao, đâu ngờ đó chỉ là đám bọt nước mà thôi!
Thực t́nh, từ ngày mất nước, tôi chưa bao giờ có ư oán trách bất cứ
ai, kể cả các cấp chỉ huy và bạn đồng ngũ của tôi. Tôi chỉ thấy xót
thương cho bạn bè ḿnh, và buồn cho số phận của chính ḿnh.
Người cán bộ xếp dọn đồ nghề, rồi nói câu chấm dứt buổi thẩm cung,
- Thôi! Mai ta tiếp tục anh Long nhé!
Tôi khập khiễng trên đoạn đường từ ban chỉ huy trại về buồng giam,
sau lưng là một họng A. K.
Ngày chấp cung thứ ba...
Viên thượng úy xoa xoa hai bàn tay vào nhau,
- Hôm nay chủ đề trao đổi giữa chúng ta sẽ là: “Quốc-Gia và
Cộng-Sản.” Tôi sẽ không đánh đập anh đâu. Đừng e ngại, sợ sệt, cứ
việc phát biểu một cách công tâm. Tôi cho phép, và khuyến khích anh
nói thật ḷng ḿnh, về những ǵ anh cho là sai, là đúng của hai chế
độ. Mục đích chuyến công tác của tôi lần này chỉ có thế!
Tôi ngồi ngẩn mặt ra. Thật là ngoài mức tưởng tượng! Tôi đă một lần
nếm mùi cái “kinh nghiệm thương đau" của kẻ bị tra khảo v́ tội trốn
trại rồi, nên tôi biết, trong thời gian chấp cung, tù vượt ngục nào
cũng bị đánh cho tới ḅ lê, ḅ càng, cả tháng sau, thân ḿnh c̣n ê
ẩm.
Tôi nghĩ lần này cũng lại bị đánh, bị buộc tội trối chết, rồi phải
tỏ ra ăn năn, hối lỗi những việc ḿnh đă làm, sau cùng là kư bản cam
kết, hứa hẹn sẽ không c̣n tái phạm nữa...vân vân.
Ấn nút cho máy ghi âm chạy, thẩm vấn viên hất hàm,
- Theo anh, cuộc chiến tranh vừa qua chính nghĩa thuộc về phe
Quốc-Gia hay Cộng-Sản?
Tôi đáp liều,
- Mỗi bên tham chiến có lư lẽ riêng để bênh vực cho chủ trương của
phía ḿnh. Người Cộng-Sản có lư của họ, c̣n chúng tôi, có lư của
chúng tôi.
Người hỏi cung lắc đầu, nghiêm giọng,
- Anh hăy nói thẳng ra ư kiến của cá nhân anh. Phải là "ư kiến tôi
thế này, ư kiến tôi thế kia!" Không được nói quanh quanh, nói chung
chung kiểu..."chúng tôi thế này, chúng tôi thế kia..."
Tôi nuốt nước bọt rồi trả lời thẳng thừng,
- Tôi chiến đấu có chính nghĩa v́ tôi là người tự vệ, Miền Bắc là kẻ
xâm lược.
Hắn ta vội át giọng tôi,
- Anh nói sai rồi! Chúng tôi mới có chính nghĩa v́ chúng tôi chiến
đấu để giải phóng Miền Nam thoát ách cai trị của ngoại bang.
- Không có ngoại bang nào cai trị Miền Nam cả. Việt-Nam Cộng-Ḥa là
một nước độc lập.
Y hét lên,
- Độc lập giả tạo! Thực chất Ngụy-Quyền Miền Nam chỉ là tay sai của
đế quốc Mỹ.
- Việt-Nam Cộng-Ḥa là một quốc gia đồng đẳng với các nước khác trên
thế giới. Miền Nam có chính phủ riêng, hiến pháp luật lệ riêng. Tổng
Thống và Quốc Hội nước Việt-Nam Cộng-Ḥa là do dân bầu lên, có nhiệm
kỳ hiến định hẳn hoi, sao lại gọi là tay sai được?
Tôi ngừng lại, chờ xem ư kiến của người đối diện ra sao th́ thấy y
đă tắt máy.
Ngồi im một lát như để tĩnh tâm, rồi thật chậm răi, hắn ta ôn tồn
trở lại,
- Tôi sẽ không đấu lư với anh nữa. V́ nếu căi nhau th́ anh sẽ ở vào
thế yếu, c̣n tôi ở thế mạnh, không được công bằng. Từ bây giờ tôi
chỉ đặt câu hỏi. Anh được tự do trả lời theo ư anh! Như vậy có được
không?
Thấy tôi gục gục đầu, hắn nhấn nút cho máy quay, rồi tiếp tục,
- Anh nói rằng Miền Nam là tự do, vậy hăy diễn tả cái tự do đó thể
hiện ra sao ngay trong cuộc đời của chính anh.
- Tôi lớn lên trong một chế độ mà trong đó, chúng tôi muốn nói ǵ
th́ nói, nghe ǵ th́ nghe, đọc ǵ th́ đọc. Không bị ai nhồi nhét tư
tưởng này, tư tưởng kia vào đầu. Ngay như tôi là một thiếu tá, mà
suốt mười hai năm quân ngũ tôi chưa bị bắt buộc phải vào dự một buổi
học tập chính trị nào cả. Những hiểu biết về Cộng-Sản, hay Tự-Do là
do cái vốn kiến thức thu thập từ thực tế và tự t́m hiểu qua báo chí,
sách vở. Không ai ép buộc tôi phải tôn thờ chủ nghĩa này, đả phá chủ
nghĩa kia.
- Nếu nói rằng Miền Nam tôn trọng tự do tín ngưỡng, th́ tại sao lại
có những cuộc biểu t́nh, xuống đường của Cha, Cố, Giáo Dân cũng như
của Tăng Ni, Phật Tử?
- Chính v́ có tự do nên mới xảy ra những chuyện xuống đường, phản
kháng, nếu không có tự do th́ toàn dân sẽ câm như hến.
- Anh có là một thành viên của đảng Dân-Chủ không? Nếu một người
lính mà không là đảng viên đảng Dân-Chủ th́ có bị thiệt tḥi ǵ
không?
- Thú thật tôi không để ư đến vụ đảng phái. Tôi không gia nhập đảng
nào. Tôi cũng chưa thấy đảng nào công khai gây ảnh hưởng trong đơn
vị tôi bao giờ.
- Trong thời gian qua, anh đă có dịp tiếp xúc với dân chúng Miền
Bắc, anh có nhận xét ǵ về nếp sống của dân chúng Miền Bắc không?
Thấy có dịp giải tỏa ấm ức, tôi hứng chí nói một mạch,
- Miền Bắc và Miền Nam khác hẳn nhau. Ở trong Nam, người dân có thể
sống theo ư ḿnh muốn. C̣n Miền Bắc là một xă hội có quy củ, có
khuôn phép. Từ vấn đề cơm, áo, gạo, tiền, nhà cửa, ruộng vườn, cái
ǵ cũng có tiêu chuẩn cả. Cái ǵ cũng tem phiếu, sổ sách. Hàng c̣n
nằm trong kho quốc doanh có một giá, tới lúc tuồn ra ngoài, nó thành
giá khác, đắt gấp chục lần. Lao động xă hội chủ nghĩa th́ người này
dựa vào người kia. Làm việc hợp đồng, vần công chỉ là chuyện lăng
phí nhân lực. Tôi đă thấy có một mảnh ruộng cỡ nửa sào, mà ào xuống
mười người, với mười con trâu, và mười cái cày. Họ làm việc chừng
một giờ đồng hồ, mà chấm công là một ngày. Thời giờ c̣n lại, mạnh ai
nấy đi canh tác riêng để cải thiện. Lư thuyết là không có quyền tư
hữu, tất cả là tài sản chung, nhưng trên thực tế, ai cũng lo mưu cầu
lợi ích riêng, v́ ai cũng thiếu thốn cả. Có lẽ v́ thế mà mấy chục
năm nay Miền Bắc vẫn nghèo, không khá lên được.
Tôi thấy kỹ thuật thẩm vấn của người Cộng-Sản có vẻ na ná với kỹ
thuật khai thác của Đức Quốc-Xă thời Thế Chiến thứ 2 trong những tài
liệu mà tôi đă đọc qua. Thoạt đầu, với đôi ba câu hỏi bâng quơ, tù
binh được nói thoải mái thả giàn vài phút. Sau đó, thẩm vấn viên mới
ra tay, bằng những câu hỏi dồn dập, tới tấp, loanh quanh, lẩn quẩn
một vấn đề, làm cho óc người bị thẩm vấn rối tung lên, không biết
đâu mà chống đỡ.
Với những câu hỏi ngoắt ngoéo, viên thượng úy Cộng-Sản đă cố gắng
moi móc những ǵ tôi cất dấu trong đầu về cuộc đời tôi, từ thuở mới
di cư, đến khi ngập ngũ, rồi tới ngày ră ngũ.
Trong thời chiến, tôi đă qua lớp T́nh-Báo Tác-Chiến Singapore, rồi
nhiều năm, đảm nhận chức Trưởng Pḥng Quân- Báo của Bộ Chỉ-Huy Biệt
Động Quân, Quân-Khu 2, Việt-Nam Cộng-Ḥa. Tôi đă thẩm vấn rất nhiều
tù binh, và đă hoàn tất nhiều bản cung từ.
Do đó, tôi đủ bản lănh để luồn lách, tránh né những bí mật liên quan
tới sinh mạng những người đă cộng tác với tôi thời trước, như tên
tuổi các mật báo viên trong mạng lưới mật báo của Pḥng 2 Biệt Động
Quân Quân-Khu 2, danh sách các cán binh chiêu hồi đă hướng dẫn các
chuyến xâm nhập vào ḷng địch của tôi trong thời gian 1972- 1973.
Chỉ sau vài câu hỏi trùng lặp, tôi đă nghiệm ra ngay chủ đề của cuộc
"thi vấn đáp" trường chinh hôm ấy là nhằm khai thác tin tức liên
quan tới "Vai tṛ của Chính-Trị và Tôn-Giáo trong Quân-Đội Việt-Nam
Cộng-Ḥa" Về cả hai lănh vực trên đây, quả t́nh, tôi chỉ là một tay
ấm ớ, nên người tra hỏi chẳng biết được ǵ.
Cứ thế, trừ đi cỡ sáu, bảy phút cho hai lần đi tiểu, và khoảng mười
phút cho bữa ăn trưa với một củ khoai lang luộc, tôi phải trả lời
hàng trăm câu hỏi trong thời gian dài từ sáng sớm tới xế chiều. Tôi
không nhớ có bao nhiêu cuộn băng mới đă được thay, mấy lần pin mới
được lắp vào máy.
Chấm dứt ngày làm việc cuối cùng, không chỉ người bị chất vấn, mà
ngay cả người đặt câu hỏi cũng thấy mồ hôi vă ra đầy mặt.
Người cán bộ châm điếu thuốc lá, rít một hơi, rồi trao nó cho tôi,
- Anh Long ạ! Tôi đă thực hiện công tác phỏng vấn này với một ông
sư, một ông cha, một nghị sĩ, một dân biểu, hai cấp tướng, hai cấp
đại tá, và ba người cầm đầu đảng phái chính trị. Mỗi anh có nhân
cách riêng khi đối diện với tôi. Cũng những câu hỏi ấy nhưng mỗi
người trả lời khác nhau. Mỗi anh có lư lẽ riêng. Anh là người tuổi
nhỏ nhất và có địa vị thấp nhất mà tôi đă gặp trong công tác này
đấy! Bây giờ tôi có một câu hỏi riêng tư với anh. Câu hỏi cuối cùng.
Anh có vui ḷng trả lời tôi không?
Tôi rít một hơi thuốc dài, nuốt ực vào, ém khói trong phổi, thấy
tỉnh táo dần,
- Vâng! Tôi sẽ trả lời cán bộ.
- Nào! Anh hăy thành thật, tuyệt đối thành thật, trả lời tôi: Quan
niệm của anh ra sao đối với sự sống và sự chết?
Tôi nh́n thẳng vào đôi mắt người đối diện, ḍ chừng. H́nh như hắn ta
không có âm mưu ǵ chứa ẩn trong câu hỏi. Tôi hắng giọng, rồi nhỏ
nhẹ trả lời, rơ ràng từng tiếng một,
-Thưa cán bộ. Tôi nghĩ, đời tôi bây giờ có sống cũng chẳng thấy vui
thú ǵ, th́ nếu chết, tôi cũng coi như là trở về cùng cát bụi. Tôi
không có điều ǵ phải hối hận hay vướng bận cả.
Viên thượng úy Cộng-Sản đứng lên, bàn tay y xiết bàn tay tôi một cái
rất nhẹ, rồi buông ra ngay. Y nói với tôi, nhưng có vẻ như nói một
ḿnh,
-Tiếc thay! Anh lớn lên ở Miền Nam. Nếu ngày đó anh không di cư, th́
có lẽ, giờ này, những người tầm cỡ như tôi, muốn gặp mặt anh cũng là
một điều khó khăn.
-----o-----
Buổi trưa sau ngày hoàn tất hồ sơ thẩm vấn, đầu óc thật thoải mái,
tôi nằm im, đón nghe trong gió vọng về những âm thanh quen: tiếng ve
sầu rên rỉ trên Lũng Ngàn, tiếng chân trâu kéo gỗ nặng nề qua đoạn
đường quanh, tiếng xẻng cạo chảo bên nhà bếp. Gần tôi nhứt là tiếng
"kẽo! kẹt!" của loài mọt gỗ đang đục khoét cái cột giữa nhà.
Tôi ngửa cổ nh́n lên nóc tranh, trước mắt tôi là cảnh một con ruồi
xanh đang cố gắng một cách tuyệt vọng t́m cách thoát khỏi cái màng
lưới nhện. Thân phận tôi giờ đây ví như thân phận con ruồi xanh trên
kia, không hơn, không kém. Nhện và ruồi là hai động vật khác loài.
Chúng giết nhau để sinh tồn. C̣n tôi và những người đang giam cầm
tôi lại cùng chủng loại.
Tuần lễ sau, vào giờ cơm chiều, cán bộ Vấn bước vào, ngồi trên bệ
cửa, rút bao Cửu-Long ra, bật lửa châm cho tôi một điếu. Chờ tôi hút
xong điếu thuốc lá thơm, anh ta mới mở lời,
- Bà mẹ anh ngày xưa đẹp nhất làng Trác-Châu đó! Anh có biết không?
Tôi trố mắt,
- Cán bộ có lớn tuổi hơn tôi nhiều đâu? Làm sao mà cán bộ biết điều
này?
- Ngày anh bị đưa về cùm lần đầu ở trại này, tôi đă đọc qua lư lịch
của anh rồi. Tôi biết tên bố mẹ anh và tất cả họ hàng bên ngoại của
anh nữa. Nhà tôi ở sát rào nhà cụ Ngăi, ông ngoại của anh. Thời c̣n
là con gái, bà cụ sinh ra tôi là bạn thân của bà cụ nhà anh. Mẹ tôi
nói hồi đó mẹ anh có làn da trắng như trứng gà bóc. Mẹ anh không lấy
người trong làng, lại đi lấy người làng bên. Sau khi bố anh bị giết,
mẹ con anh đă bỏ xứ, ra đi biệt tăm. Không ngờ sau đó gia đ́nh anh
di cư vào Nam, và anh đă làm tới chức thiếu tá. Dù ǵ th́ chúng ta
cũng là người cùng làng...
Tới lúc đó, tôi mới hiểu lư do v́ sao viên sĩ quan Cộng-Sản này lại
nương tay với ḿnh.
Cán bộ Vấn thọc tay vào túi, lôi ra một cái phong b́. Mở phong b́,
móc cái ảnh cỡ 6x9 cm đưa cho tôi, anh ta nói nhỏ,
- Anh Long có thơ. Nhưng tôi không được phép đưa thơ cho anh. Tôi
"diếm" cho anh cái ảnh của vợ con anh. Nhớ giữ kín đừng cho ai biết.
Nói xong câu này, Vấn nhét vào tay tôi một điếu thuốc nữa, rồi đứng
lên, lững thững đi về hướng nhà bếp.
Có lẽ cái thư chứa tấm h́nh đă tới trại trong thời gian tôi tại đào.
Trong h́nh là vợ tôi bế thằng con út ngày nó vừa biết lật. Nay chắc
thằng bé đă biết nói, biết chạy rồi?
Ấp cái ảnh vợ con vào ḷng, tôi nghe rơ ràng, tim ḿnh đang thổn
thức...
Tôi được nh́n thấy mặt bố tôi lần cuối cùng (1946), ngày tôi lên bốn
tuổi. C̣n thằng con tôi, không biết suốt đời, nó có dịp nào nh́n
thấy mặt bố nó hay không?
Từ lúc đó cho tới tối mịt, cứ lâu lâu, tôi lại dở cái ảnh ra xem.
Image
(Vợ và con trai của VMLong-1975)
Vằng vặc trăng trôi...
Tôi nằm quay mặt về hướng Tây. Cửa chính của pḥng giam không bao
giờ đóng. Ngoài kia ánh nguyệt chan ḥa.
"Tưng!... Tửng!... Từng!... Tưng!..."
có tiếng đờn ghi ta vọng cổ bay sang từ Lán 1. Tiếp đó là một câu ḥ
(hay sàng xê) năo nuột,
"Đêm nay trăng sáng...(á!) lung linh, em ngồi trông trăng.
Ḷng nhớ thương anh, mà ḷng... (ừ!) buồn mông mênh.
Ḿnh cách xa nhau rồi...(à!) Ḿnh mất nhau muôn đời.
Đêm ngồi trông trăng, mà mắt lệ ...(ư! à!) tuôn rơi..."
Tôi không phân biệt được giọng ḥ này là của ông trung tá con rể bà
Bút Trà, hay là của ông đại úy con rể cụ dân biểu Hoàng Kim Quy?
Ánh trăng lùa tiếng đờn tràn qua cửa pḥng giam.
"Từng!" ..."Tưng!"..."Tứng!"..."Tứng!" ..."Tưng!"...
Nhịp đờn bỗng rối rít hẳn lên, quện vào tiếng hát, xoắn lại như con
chốt, rồi vút lên thật cao,
" Trời ơi! ... Bởi sa cơ giữa chiến trường thọ tiễn
Nên Vơ Đông Sơ đành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu ... Hà...
...Tưng! Từng!...Tưng! Tửng!...Từng! Tưng!... Ư...ưng... ư...ưng..."
Giữa đêm trăng lạnh, vô t́nh, khúc "Vơ Đông Sơ" đă như mũi dao nhọn,
xoáy vào tim người nghe...
Ngày xưa tôi là chúa ghét vọng cổ. Cứ thấy mấy anh kép cải lương
"miệt rừng" trong đơn vị vừa cất giọng,
"Biên cương lá rơi, Thu Hà em ơi!”
... tôi lại bấm bụng cười thầm, lỉnh nhanh đi chỗ khác.
Vậy mà giờ đây, giọng ca của mấy ông nghệ sĩ tay ngang cũng làm cho
tim tôi xốn xang. Tôi nằm trằn trọc hoài mà không nhắm mắt được. Đêm
sao quá dài...
-----o-----
Từ đầu tháng Sáu, sau giờ ăn trưa mỗi ngày, tôi được mở c̣ng cùm vài
phút để đi vệ sinh. Chuyện ỉa đái của tôi xảy ra ngay trong ṿng rào
mà vệ binh cũng phải kè kè đi kèm. Khi tới đầu Lán 11, v́ sợ thối
nên tên bộ đội đành dừng lại, ôm súng đứng canh, cách nhà cầu chừng
sáu chục thước. Mắt nó cứ lom lom theo dơi những người tù trên đường
ra nhà xí. Nó soi mói, kiểm soát kỹ càng những ống vầu chứa nước họ
xách theo để rửa đít. Nó sợ bạn tù lén lút liên lạc tiếp tế cho tôi!
Bọn cai tù không thể ngờ rằng, trước khi tôi được mở cùm, đă có hai
ba anh bạn tới ẩn ḿnh trong cầu tiêu rồi. Họ tranh nhau nhét vào
miệng tôi, cục đường, củ khoai, và cả những viên thuốc bổ. Tôi chỉ
được phép ở trong chuồng xí có năm phút. Trong năm phút, tôi vừa ăn,
vừa đại tiểu tiện, vừa nói chuyện với bạn bè.
Hàng ngày, bạn tù chia phiên nhau giúp đỡ cho ba người đang bị phạt.
Các anh Thiếu Tá Hoàng Văn An, Đại Úy Vương Thành Lân, Đại Úy Nguyễn
Hữu Quang, Đại Úy Phạm Xuân Độ, và Đại Úy Đỗ Dũng là những người tôi
gặp mặt thường xuyên, ngoài ra c̣n nhiều bạn khác nữa. Họ lo cho tôi
vào giữa trưa, và lo cho anh Trụ, anh Cả vào lúc xế chiều. Nếu hôm
nào cả trại phải đi lao động suốt ngày, th́ các anh trực lán sẽ làm
công tác cứu trợ.
Thời gian này người tù mang cơm cho nhà kỷ luật là Nguyễn Hữu Quang,
bạn cùng khóa Vơ-Bị của tôi. Những khi có dịp thuận tiện, anh Quang
thường lén lút ém thêm phần ăn cho người bị giam.
Cũng may những chuyện này không đổ bể. Chứ cai tù mà biết được th́
các bạn tôi chỉ có nước vào cùm!
Trong cảnh hoạn nạn, tôi đă không bị bạn bè bỏ rơi. Những sự trợ
giúp ấy đă khiến tôi tăng thêm sức lực cả về thể chất lẫn tinh thần.
"Khốn khó có nhau, là huynh đệ chi binh!" phải gặp cơn nguy biến mới
thấy cái cao đẹp của t́nh đồng đội.
Những tháng tiếp theo, tôi và hai anh bạn bị đưa đi ṿng ṿng, lần
lượt nhốt trong các trại tù quanh vùng Cẩm-Nhân, Yên-B́nh. Mỗi khi
tới trại mới, ba “cải tạo viên” vượt ngục lại trở thành những cái
bao cát cho bọn vệ binh của trại đó thực tập vơ nghệ.
Cuối cùng chúng tôi bị dẫn vào Trại 2 trong Tích-Cốc, nhốt chung với
một tay "Papillon" của trại này. Anh ta nằm trong căn b́a của nhà kỷ
luật, cách tôi một tấm phên.
Ghé mơm sát cái lỗ nhỏ dưới chân vách, tôi hỏi nhỏ,
- Này! Tên ǵ? Cấp ǵ?
- Thường! Đại úy!
- Đi lúc nào?
- Sau các cha một tháng.
- Mấy người?
- Bốn.
- Ba ông nội kia đâu?
- Thoát rồi!
- C̣n cha? Sao lại nằm đây?
- Ḿnh bị sa ruột, giữa đường đành bỏ cuộc, bị dân quân bắt, dẫn về
giao lại cho trại, rồi bị tống vào đây.
- Đă bị chấp cung chưa?
- Rồi!
- Có bị đánh không?
- Tơi bời! Đau lắm các cha ơi!
Mấy ngày sau, người đưa cơm của Trại 2, vốn là một đại úy Biệt Động
Quân th́ thầm với tôi rằng,
"Một toán vệ binh của Trại 2 đă kêu gọi được ba người bạn của anh
Thường ra đầu hàng rồi. Nhưng ngay sau đó, chúng bắn chết hết ba
người này, rồi đổ hô là họ bỏ chạy lúc ban đêm!"
Nghe chuyện này, tôi nhớ lại cái đêm trời tối đen như mực cách đó
không lâu, nếu tôi nghe lời tên vệ binh, bước ra khỏi cổng để lên
ban chỉ huy kư giấy cho về đội lao động, th́ tôi đă bị bắn chết rồi!
Cuối năm 1978 có tin Trung-Cộng sắp đánh Việt-Cộng, ba chúng tôi lại
bị c̣ng dính vào nhau đưa lên xe, vượt sông Lô, qua đèo Khế, ghé
Tân-Trào, rồi chạy một lèo về Trại Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên.
Tại đây, vừa được tháo c̣ng ra, tôi đă bị tống vào đội trừng giới số
12 toàn là dân vượt ngục, chuyên làm ḷ gạch. Đồng cảnh ngộ, nên anh
em trong đội này đă thương yêu, đùm bọc lẫn nhau như người thân
trong một nhà.
Tháng Ba năm 1979 quân Tầu ào qua biên giới, chúng tôi lại bị c̣ng
từng cặp, đưa lên Molotova, chạy một mạch qua thủ đô Hà-Nội về tuốt
miệt Hà-Nam, Phủ-Lư.
Trong lúc chờ phà vượt sông Hát, đoàn xe bị dân chúng ném đá tơi
bời. Tù chỉ c̣n nước ôm đầu, úp mặt xuống sàn xe. Th́ ra dân chúng
tưởng chúng tôi là tù binh Trung-Quốc!
Đến khi biết trên xe là tù cải tạo Việt-Nam Cộng-Ḥa th́ dân chúng
lại đua nhau ném chúng tôi lần nữa! Chúng tôi lại lo ôm đầu, úp mặt.
Nào ngờ, lần này đầu cổ, tóc tai lănh toàn là xôi, đường, kẹo bánh,
xu hào, cải bắp!
Quư hóa hơn mọi món quà mà chúng tôi nhận được ngày hôm đó là, lần
đầu kể từ khi bại trận, chúng tôi lại được nghe hai tiếng "Hoan hô!"
từ miệng của đồng bào tôi.
Dù chỉ có vài tiếng "Hoan hô!" rụt rè phát ra trong đám đông thôi,
đă khiến đôi mắt tôi cay xè. Nh́n sang bên, tôi thấy mặt anh bạn
chung c̣ng cũng nhạt nḥa nước mắt...
Từ ấy, cứ vài năm một lần, tôi lại bị chuyển sang trại mới, cuối
cùng là Z30 D Hàm-Tân. Tới năm 1988 tôi được tha.
Nhớ lại, một ngày mùa đông năm 1965, tôi đă quỳ xuống giữa vũ đ́nh
trường Lê-Lợi Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam để tuyên thệ rằng sẽ
đem xương máu ḿnh bảo vệ tổ quốc, phục vụ đồng bào. Sau khi đứng
lên, tôi trở thành một sĩ quan Biệt Động Quân. Qua bao nhiêu năm
xông pha nơi chiến trường, rồi trầm luân trong tù ngục, tôi vẫn ghi
tạc trong ḷng một lời khuyên,
“Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm một viên ngói lành!"
Vương Mộng Long
Seattle, tháng 3 năm 2012
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại