Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
TRUYỆN KIỀU-NGUYỄN DU
1.
Tôi học chung với Nhân từ năm đệ ngũ. Trước đó, tôi có năm năm học
nội trú trường Pellerin, một trường ḍng Lasan ở Huế do các frère
giảng dạy. Những năm học ở đó, tôi luôn đứng đầu lớp, là niềm tự hào
của các frère phụ trách và gia đ́nh. Nhưng từ khi về học ở Đà nẵng,
tôi chưa bao giờ vượt qua được Nhân. Lúc nhỏ tôi rất xấu tính, hay
ganh tị, không muốn ai hơn ḿnh. Do vậy, tôi chẳng ưa ǵ thằng Nhân.
Thành phố này có hai ông Đốc. Một ông Đốc học phụ trách chuyện giáo
dục của toàn thành, ông Đốc này là ba Nhân. Ông Đốc thứ hai là ông
Đốc tờ, tức là ba tôi, quản lư ngành y tế của thành phố. Mấy ông
quan chức thường tụ họp nhau vào sáng chủ nhật ăn sáng, uống cà phê,
bàn chuyện thời thế. Sau khi mất nhiều th́ giờ trao đổi chuyện chính
trị, chuyện thế sự, chuyện tiếp đó thường là chuyện con cái. Và lần
nào cũng vậy, việc học hành giỏi giang, thông minh của Nhân lại được
đem ra tán dương Mỗi lần nghe chuyện, tôi rất khó chịu. Tự nghĩ ḿnh
cũng học giỏi có thua ǵ Nhân mà chẳng bao giờ được nhắc tới. Nhân
càng được ngợi khen, tôi càng thêm ghét hắn. Khác hẳn tôi, Nhân rất
muốn làm thân với tôi.
Tôi càng tránh hắn càng cố đến gần. Lần nào gặp tôi hắn cũng nở nụ
cười thật tươi, c̣n tôi th́ mặt nặng như ch́.
Nhân đẹp trai, tuy người hơi thấp. Da trắng, mũi cao, mấy lọn tóc
xoăn lúc nào cũng ḷa x̣a trước trán. Môi lúc nào cũng đỏ như son.
Mà kể cũng lạ. Nhà ông Đốc học có năm người con, hai trai ba gái,
chỉ có ḿnh Nhân là đẹp, mấy đứa c̣n lại đứa nào cũng xấu như ma.
Lại thêm có đứa con gái kế Nhân bị thần kinh, hay bỏ nhà đi lang
thang, đứa em trai út th́ bị bệnh down, lúc nào cũng ngơ ngác, nước
dăi chảy ḷng tḥng. V́ cảnh nhà như thế nên ông Đốc học rất kỳ vọng
ở Nhân, Nhân là niềm tin, niềm tự hào và cũng là lẽ sống của ông.
Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là
những môn toán, lư, hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh, thầy dạy rất
hay, học tṛ rất mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc
chải dầu bóng lưỡng, cách đi giọng nói rất điệu. Thầy hay cho làm
toán chạy, tức là thầy đọc đề xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy
chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm
tối đa, c̣n giải sai th́ khỏi có điểm. Nhân luôn luôn là người giải
bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn một chút th́ có
nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên bảng
giải toán h́nh học, hắn vẽ h́nh bằng tay trái c̣n tay phải ghi lời
giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy lần nào thầy Thanh cũng ca
ngợi Nhân. Thầy c̣n bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần
ghi chép, muốn làm ǵ th́ làm. Các thầy dạy môn lư, hóa cũng bảo hắn
thế. Nghe vậy, hắn chỉ cười, giờ học nào cũng ghi chép rất cẩn thận.
Không những học giỏi, Nhân c̣n đá banh rất siêu, đánh cờ tướng rất
cừ. Lại thêm rất giỏi vơ. Không biết hắn học vơ từ khi nào mà tay
hắn cứng như thép, cỡ mấy viên gạch xây nhà hoặc năm ba viên gạch
thẻ chỉ cần hắn vung tay là bị bể đôi ngay. Hắn múa gậy vun vút, đá
ném không chạm vào người hắn. Cỡ hai người công kênh nhau, người
trên cầm mấy cục gạch, hắn chỉ cần lấy đà chạy ba bước, bay lên đá
viên gạch vỡ nát. Hay nhất là trèo tường. Nhân chạy lấy đà, tung
người thẳng góc với bức tường, chạy thoăn thoắt lên trần nhà. Y như
là mấy nhân vật trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Mỗi lần Nhân
làm tṛ, cả bọn học tṛ chúng tôi trố mắt, há mồm mà nh́n, lắc đầu
thán phục. Mọi người đặt cho hắn cái tên là Siêu Nhân. Tôi vừa sợ
vừa ghét hắn.
Tôi vốn ốm yếu, lại chúa nhát gan, chúng bạn gọi tôi là con mọt
sách. Cho nên dù không ưa, tôi cũng nể sợ hắn. Không biết có phải v́
vơ công thâm hậu quá mà đôi mắt của Nhân trông lạ lắm. Ánh nh́n như
dao sắc, như có lửa, như muốn bóp nát người ta, đầy sát khí. Tôi
thường tránh ánh mắt của hắn. Nụ cười của hắn thân thiện nhưng đôi
mắt th́ đầy hăm dọa.
Trong các môn học, tôi chỉ nhỉnh hơn Nhân môn Pháp văn và hai môn
phụ là âm nhạc và hội họa. Bởi những môn này tôi được rèn luyện năm
năm ở trường ḍng Lasan. Nhưng đến năm đệ tam, tiếng Pháp của hắn
tiến bộ đến không ngờ, đến thầy giáo già dạy Pháp văn cũng ngạc
nhiên. Sau này tôi mới biết là suốt cả mùa hè hắn chỉ tập trung vào
môn học đó, cả ngày nghe đài Pháp để luyện giọng và lảm nhảm luôn
mồm mấy từ vựng. Có một lần t́nh cờ tôi thấy trên b́a sách Pháp văn
của Siêu Nhân có ghi câu bằng chữ in đậm VOULOIR C'EST POUVOIR. Có
lẽ đó là quan niệm của Nhân.
Cuối năm đệ tam, Nhân lại khiến cho các Thầy và đám học tṛ thêm
than phục khi giải bài thi toán tú tài 1 ban B chỉ trong 27 phút.
Hắn lại tiếp tục là tấm gương cho các bậc cha mẹ thường nhắn nhủ các
con: gắng học cho giỏi như anh Nhân. Hắn đi đến đâu cũng được mọi
người trầm trồ khen ngợi. Bởi thời đó, người giàu có không được
trọng nể bằng người học giỏi. Ngay cả những quan chức cũng rất trân
trọng người tài, học tṛ gỉỏi. Năm học đó, hắn lănh phần thưởng lớn
lắm, phải thuê xích lô chở về nhà. Ông Đôc học rất hănh diện. Mà
hănh diện cũng phải thôi, cha mẹ nào lại không sướng khi có người
con như thế.
Trong lớp chúng tôi, thường chia ra hai nhóm rơ rệt. Mấy đứa nhỏ
con, học kha khá thường ngồi mấy bàn trên, c̣n mấy bàn cuối lớp mà
mấy thầy gọi là xóm nhà lá toàn là mấy đứa bự con, ba trợn, chơi
nhiều hơn học và thường chọc phá mọi người. Cầm đầu xóm này là thằng
Hồ Lê. Đó là một thằng sừng sỏ tuy cũng có tố chất thông minh, học
hành cũng không đến nỗi tệ. Hồ Lê người đen gịn, cao to lừng lững,
mặt chữ điền, góc cạnh. Ngay trên trán có một vết sẹo dài khiến
khuôn mặt của hắn càng thêm vẻ anh chị. Hắn bảo đó là vết tích chiến
tranh. Hỏi thêm nữa hắn sẽ trừng mắt hăm dọa nên chẳng ai dám lên
tiếng thắc mắc nữa. Nhà Hồ Lê nằm trong hẻm sâu sau lưng nhà tôi, mẹ
hắn bán rau hành ở chợ. Nhà hắn trơ trọi chỉ hai mẹ con và không bao
giờ hắn nhắc đến cha. Tôi sợ hắn lắm, v́ hắn h́nh như rất ghét tôi,
cứ t́m mọi cách để sinh sự. Mỗi lần gặp tôi hắn thường dí tay vào
trán tôi mà gầm gừ: đồ quư tộc dơ bẩn. Tôi cũng chẳng biết sao hắn
lại bảo tôi thế. Tôi vốn nhát như cáy nên thường t́m đủ mọi cách để
tránh mặt hắn. Tránh hắn nhưng miệng lầm bầm: Đụ mẹ thằng Lê sẹo,
rồi ông sẽ giết mày, anh hùng báo thù mười năm chưa muộn. Nói thầm
thế thôi, chứ thấy bản mặt nó là tôi đă sợ chết khiếp, nổi gai cả
người. Nhưng tôi càng tránh, hắn lại t́m đủ mọi cách để trêu ghẹo
tôi. Lúc th́ đi đàng sau khèo chân cho tôi té. Khi th́ búng tai,
giựt tóc mai của tôi rồi cười cợt với một lũ âm binh ăn ké.
Một hôm chúng tôi được nghỉ tiết cuối, đang trên đường về nhà th́
tôi bị đám thằng Hồ Lê chận đường. Hắn đứng trước mặt tôi, hai chân
khuỳnh khuỳnh, cái mặt kênh kênh. Hắn bảo tôi rúc dưới háng hắn mà
đi. Mặt tôi xanh như đít nhái. Vừa tức vừa sợ. Miệng lắp bắp định
van xin. Đường vắng teo, chẳng có ai có thể giúp tôi. Tôi nghĩ phen
này chắc tiêu. Không chết v́ nhục th́ cũng ốm đ̣n với hắn. Hắn xắn
tay áo, hai cánh tay cuồn cuộn. Vung tay. Tôi nhắm mắt, tưởng như
muốn đái cả quần. Hai chân muốn quỵ xuống, bởi tôi vốn nhát đ̣n. Tôi
chờ đợi cú đấm như trời giáng của hắn. Bỗng nghe tiếng hự..hự..
huỳnh huỵch… như ai đấm bao cát. Sao tôi chẳng thấy đau. Hé mắt
nh́n, thấy thằng Lê đang nằm chỏng gọng, mặt nhăn nhó, méo xẹo.
Trước mặt hắn là Nhân. Siêu Nhân. Nhân chỉ tay vào mặt hắn và bảo:
- Tao cấm mày đụng đến thằng Ngọc, tao là bạn nó. Thằng nào ăn hiếp hắn sẽ biết tay tao. Liệu hồn. Cút…
Bọn thằng Lê chạy một mạch không ngoái đầu. Nhân vỗ vai tôi, cười:
- Đừng sợ chúng, cứ sợ măi th́ chúng cứ ức hiếp hoài.
Từ đó, tôi và Nhân thân nhau. Đi đâu cũng có đôi. Và đám thằng Lê
cũng không dám đụng vào tôi nữa, dù ánh mắt nó cũng c̣n gầm ghè. Đến
lớp đệ nhị, tôi chọn ban A c̣n Nhân tiếp tục ban B. Bởi ba tôi muốn
chuẩn bị cho tôi lên học y khoa nên bảo tôi học ban Vạn vật. Hơn nửa
tôi cũng c̣n háo thắng, muốn học khác lớp với Nhân để được đứng đầu
lớp, chứ học chung tôi không vượt qua được hắn. Dù khác lớp nhưng
chúng tôi vẫn đi chơi chung với nhau, gắn bó với nhau như hai anh
em.
Nhân thường dẫn tôi đến quán nước ở góc sân trường. Chủ quán là chị
Đầm. Tôi gọi bằng chị v́ chị lớn hơn chúng tôi vài ba tuổi. Chị bị
rỗ huê nên bọn học tṛ thường gọi là chị Đầm rô. Chị to lớn như đàn
ông, giọng ồ ề, lại khoái hút thuốc lá nên môi thâm x́. Tuy vậy, chè
đậu của quán chị rất ngon, nên lũ học tṛ rất khoái tụ tập ở quán
chị. Chị Đầm lại rất ái mộ Nhân, xem Nhân như thần tượng, ánh mắt
nh́n Nhân rất lạ. Tại quán đó, tôi bị chị dụ tập hút thuốc lá và
thói quen này theo suốt đời tôi. Và cũng tại quán đó trong một buổi
trưa trú mưa, tôi biết lí do tại sao Nhân cứ muốn làm thân với tôi.
Số là cạnh nhà tôi có một gia đ́nh rất giàu có, là chủ của mấy rạp
xi nê và khách sạn ở Đà Nẵng, Huế, Qui Nhơn và Nha Trang. Chủ nhân
vốn xuất than từ hoàng tộc tên Bửu Hân. Nhà có cậu con trai út tên
Vĩnh Đệ c̣n nhỏ và hai cô con gái rất đẹp, cô chị tên Huyền Tôn Nữ
Dạ Lan, cô em là Huyền Tôn Nữ Dạ Hương. Mỗi cô có nét đẹp riêng. Dạ
Lan đẹp kiêu sa, đài các. Dáng thanh mảnh, thướt tha. Cổ cao ba
ngấn, da trắng như ngà, tóc dài chấm mông, mặt như Đức mẹ, mắt lúc
nào cũng buồn vời vợi. Suốt ngày ngoài giờ học chỉ thơ thẩn trong
vườn đọc sách, đan len, chiều chiều lại đánh đàn piano cho đến tối.
Dạ Lan thích mặc áo màu tím Huế. Dù là áo dài đi phố, đi lễ nhà thờ
hay áo cánh đi chơi,cô chỉ chọn độc một màu tím rịm. Cô em Dạ Hương
th́ trái ngược với chị. Mới mười lăm tuổi mà hai vú đă tṛn to khêu
gợi. Tóc cắt ngắn, da rám hồng. Suốt ngày sau giờ học chỉ đi tắm
biển và đánh quần vợt. Chỉ thích mặc áo thun và quần jean, cỡi xe
Honda chạy vù vù. Đọc toàn báoTây, hát toàn nhạc Pháp. Tuần nào cũng
đi nhảy đầm với lũ bạn học cùng trường Lycée Blaise Pascal
V́ ở cạnh nhà lại là đồng hương nên gia đ́nh tôi rất thân với nhà
đó. Lễ tết, giỗ chạp, tang ma hiếu hỉ đều qua lại với nhau. Nhân
thích Dạ Lan. Nhân thổ lộ với tôi như vậy. Và Nhân muốn qua tôi làm
quen với cô ấy. Chuyện dễ ợt, chẳng có chi khó khăn. Nhưng tôi lại
bảo với Nhân là chuyện này khó lắm, cần phải có thời gian. Nhân cầm
tay tôi lắc lắc: cố nghe, cố nghe.
Việc làm ông mai tiến hành quá suôn sẻ, tôi ướm lời với Dạ Lan:
- Tôi có anh bạn ái mộ Dạ Lan lắm, anh ấy muốn tôi giới thiệu với Dạ Lan.
Cô ấy thoáng chút ngạc nhiên
- Ai vậy? Quen hay lạ?
- Dạ Lan biết người này mà.
- Nhưng mà ai mới được chứ.
Tôi cười bảo:
- Anh Nhân, bạn thân của tôi
- Anh Nhân con ông Đốc Lễ phải không?
Tội gật. Dạ Lan cười:
- Tưởng ai.
Sau này, khi hai người đă gắn bó nhau, tôi mới biết hóa ra Dạ Lan
cũng đă để ư đến Nhân lâu rồi. Th́ trai tài gái sắc, đến với nhau là
lẽ đương nhiên của cuộc đời.
Hai người yêu nhau thắm thiết lắm. Hai gia đ́nh cũng thoáng biết
nhưng chẳng có ư kiến ǵ. Mà thật ra c̣n đ̣i hỏi chi, vừa môn đăng
hộ đối, vừa đôi lứa xứng đôi. Nhân cám ơn tôi nhiều lắm.
Chúng tôi hay đi chơi với nhau, ngoài tôi, Nhân, Dạ Lan c̣n có Dạ
Hương. Thường là đi xem phim, đi ăn kem hoặc đi dạo bên bờ biển. Dạ
Hương sôi nổi, nhí nhảnh c̣n Dạ Lan khép nép, dịu dàng. Một hôm,
chúng tôi đi dạo trên bờ biển, trời vừa tối, chân trời ráng đỏ. Dạ
Hương kéo tay tôi và bảo khẽ: Ḿnh tránh đi cho anh chị ấy tâm sự,
cứ như thế này th́ anh chị ấy tâm t́nh làm sao được.
Dạ Hương kéo tôi chạy vào hàng phi lao, trời tối hẳn, những ngọn gió
xào xạc. Theo đà chạy dưới cát lún, Dạ Hương ngă vào người tôi, ôm
cứng, hơi thở gấp. Theo quán tính, tôi cũng ôm siết lấy nàng, hai
bầu ngực căng khép vào ngực tôi. Tôi thấy ḿnh căng cứng. Dạ Hương
vít đầu tôi xuống, hôn trên môi tôi. Tôi như đang bay bổng v́ nụ hôn
đầu đời. Tôi chẳng biết phải hôn trả lại thế nào nữa. Tôi lạng quạng
và thả lỏng đôi tay. Bỗng dưng tôi cảm thấy sợ. Hóa ra tôi luôn luôn
vẫn là thằng nhút nhát. Kiểu tấn công mạnh mẽ của Dạ Hương làm tôi
hăi, dù phần dưới cơ thể của tôi đă đông cứng lại rồi. Tôi bỏ đi và
như kẻ mộng du. Tôi bỗng muốn khóc. Dạ Hương chạy theo tôi hét lớn:
Anh có phải là đàn ông không?. Tôi ngồi xuống giữa băi cát và tự
hỏi, ḿnh có phải là đàn ông không?
Từ đó, Dạ Hương tránh mặt tôi, và tôi cũng có ư không muốn gặp nàng.
Tôi vẫn tự nhủ ḿnh tệ quá.
Kỳ thi Tú tài 1 năm đó, tôi và Nhân đều đậu Ưu hạng. Cả hai gia đ́nh
rất vui. Hôm lănh thưởng ở trường, đôi mắt của ông Đốc học ba Nhân
ánh lên niềm tự hào, sung sướng và măn nguyện. C̣n đôi mắt của Dạ
Lan th́ tràn đầy hạnh phúc.
Ba tôi dù theo Tây học, nhưng lại rất mê nghiên cứu Kinh Dịch. Có
một người Hoa thường đến trao đổi cùng ba tôi. Người này tên Lư
Hạnh, chuyên nghề phong thủy và tướng số. Hai người tâm đắc lắm,
thường nói chuyện với nhau cả buổi mà không chán. Một hôm, khi ba
tôi và chú Lư Hạnh đang nói chuyện với nhau th́ t́nh cờ tôi nghe
được cả hai bàn về Nhân. Ông Lư Hạnh bảo:
- Cậu Nhân tướng toàn tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ
hung quang, tôi e cậu ấy nếu không học đựợc chữ nhẫn sẽ phải phạm
tội sát nhân, hậu vận xấu lắm.
Ba tôi trầm ngâm một lát rồi hỏi đến tương lai của tôi, Ông Lư Hạnh
im lặng một lát rồi gật gù:
- Cũng tạm.
Ba tôi nhíu mày:
- Cụ thể là sao?
- Ông Đốc cũng đă nghiên cứu lư số. Số nói sao th́ nghe vậy. C̣n cụ thể th́ chịu. Nhiều khi thiên cơ bất khả lậu.
- Nhưng đôi khi cũng nhân định thắng thiên
- Dạ, cũng có thể.
Nghe được vậy, lúc đó tôi hơi hoang mang, nhưng rồi tuổi trẻ chóng
quên. Tuy thế lâu lâu nh́n ánh mắt của Nhân, tôi cũng cảm thấy ghê
ghê.
Cũng cuối năm ấy, Dạ Hương bỏ nhà đi. Có tin đồn đă kết hôn với một
sĩ quan Mỹ ở Sài G̣n. Tôi cứ tự hỏi là ḿnh có lỗi ǵ trong tai ương
này không?
Tết năm Mậu Thân, chiến tranh lan vào nhiều thành phố. Huế bị nặng
nhất, rất nhiều người chết trong những ngày xuân. Đà Nẵng cũng không
tránh khỏi bị tấn công, nhưng không bị chiếm đóng. Sau Tết, lớp học
thưa thớt hẳn, đứa đi lính, đứa đi đâu mất dấu. Trong những đứa vắng
mặt, có Hồ Lê. Nghe đồn nó đă lên núi, gia nhập quân giải phóng.
Chúng tôi đậu Tú tài 2 dễ dàng. Nhân lại đậu Ưu hạng, tôi chỉ đậu
B́nh. Tôi lại thua Nhân….
Vào Sài g̣n làm thủ tục du học, thời gian chờ đợi khá dài, tôi ghi
danh học Văn khoa, c̣n Nhân thi vào trường Kỹ sư Công nghệ Phú Thọ,
học cho vui để quên th́ giờ chờ đợi. Thế mà hắn cũng đỗ hạng nh́ kỳ
thi tuyển vào Phú Thọ năm đó. Tôi vừa xong lớp dự bị ban Văn chương
Việt Nam th́ có giấy lên đường.
Ngày tôi và Nhân rời Việt Nam đi Pháp du học, hai gia đ́nh tiễn ra
phi trường. Ba Nhân ôm vai Nhân:
- Gia đ́nh và gịng họ tin tưởng vào con. Ba tin chắc con làm được
như ước nguyện. Nhân gật gật đầu, mắt lóe lên niềm hi vọng lớn lao.
Dạ Lan mặc áo dài tím, quấn khăn quàng tím nhạt, nước mắt hoen mi.
Dạ Lan cầm tay Nhân lắc măi mà chẳng nói ǵ.
Ba tôi bắt tay tôi, bảo khẽ:
- Cố lên nhé!
Hôm qua tôi và ba đă nói chuyện với nhau rất lâu về chuyện truyền
thống ba đời làm ngành y, về việc phải tiếp nối nếp nhà. Thật ra,
tôi chẳng thích thú ǵ chuyện du học. Tôi sợ cô đơn ở xứ người, tôi
sợ những bất trắc sẽ xảy đến mà chung quanh chẳng có ai giúp đỡ. Tôi
như con chim non được nhốt trong lồng son, giờ được thả ra, chẳng
định được phương nào để bay đến. Nhưng tôi phải bay đi. Đi và mang
theo niềm hi vọng của cả gia đ́nh. Bước lên máy bay, nước mắt tôi cứ
muốn trào ra, hai bàn chân tôi như có ǵ níu lại. Rời Việt Nam, tôi
vẫn chưa có mối t́nh nào vắt vai, không có cô gái nào đưa tiễn. Tôi
thấy Nhân hạnh phúc v́ c̣n có t́nh yêu để đợi chờ.
Chuyến bay kéo dài hơn hai mươi tiếng đồng hồ, chúng tôi nói nhiều
chuyện với nhau về tương lai. Thế giới đang mở ra với chúng tôi, và
cả hai đang bước vào và tin sẽ chiến thắng. Hai đứa vẽ ra cảnh tượng
lúc thành đạt trở về trong niềm hoan hỉ của mọi người. Nhân bỗng bảo
tôi:
- Cậu chơi piano thế cậu có biết loại đàn nào tốt nhất không?
- Để làm ǵ, sao tự nhiên lại đi hỏi về đàn lúc này?
- Th́ cứ nói đi
- Theo ḿnh biết th́ hiện nay đàn hiệu Steinway & Son là tốt nhất, ở Việt Nam chỉ có một hai cái. Nhưng đắt lắm. Cậu đang có ư định ǵ vậy?
Nhân lim dim mắt, cười cười, nh́n ra bầu trời trong xanh:
- Khi nào thành đạt, làm ra tiền, ḿnh sẽ mua cho Dạ Lan một cây đàn
như vậy.
*******
2.
Chúng tôi chia tay nhau ở phi trường, Nhân sẽ ở lại Paris thi vào
trường Đại học Bách khoa Paris. Tôi lại tiếp tục đi gần 750 cây số
nữa về Montpellier, một thành phố nằm gần biển Địa Trung hải, để thi
vào trường Y. Đại học Montpellier I là một trong những trường đại
học Y khoa nổi tiếng thế giới, nơi đào tạo nhiều nhà khoa học đă
được nhiều giải thưởng y học quốc tế.
Phải mất 9 tháng học dự bị tôi mới thi đậu vào trường, dù chỉ đứng
thứ 26, nhưng cũng vui v́ đă đi được bước đầu.
Nhân thành công hơn tôi nhiều. Chỉ mất 6 tháng, Nhân đă đỗ thủ khoa
vào trường Đại học Bách khoa Paris (École polytechnique) Đây là
trường đào tạo kĩ sư danh giá nhất nước Pháp. Đúng ra Nhân phải học
đủ một năm dự bị theo chương tŕnh EV1 dành cho học sinh Pháp và các
nước nói tiếng Pháp. Nhưng chỉ một thời gian ngắn học ở Lycée Louis
– Le – Grand, Ban giảng huấn ở đó nhận thấy Nhân quá xuất sắc nên
đặc cách cho thi trước thời hạn. Mục đích phấn đấu của các sinh viên
học trựng này là trở thành nhân lực cấp cao của nưóc Pháp và thông
thường 10 sinh viên đứng đầu sẽ được lựa chọn trở thành Corps de
Mines, được tham gia chương tŕnh đào tạo nhân lực lănh đao tương
lai. Đây cũng là trựng đă tạo ra ba vị tổng thống của nước Pháp:
Valéry Giscard d'Estaing, Sadi Carnot, Albert Lebrun. Giáo sư Hoàng
Xuân Hăn và giáo sư Nguyễn văn Xuân của Việt Nam cũng tốt nghiệp từ
trựng này.
Nhân là ngựi nước ngoài đầu tiên đỗ thủ khoa kỳ thi tuyển vào
trường, nên trở thành một sự kiện được báo chí Pháp chú ư. H́nh chân
dung của Nhân được đăng trên nhiều tờ báo, là niềm tự hào của giới
sinh viên du học và những người Việt Nam đang ở Pháp thời bấy giờ. Ở
Montpellier, trong giới sinh viên cũng bàn tán chuyện này dữ lắm.
Nhưng Nhân không ngừng lại ở đó, trong thời gian theo học, Nhân là
một nhân vật nổi bật toàn diện. Không những học giỏi, Nhân c̣n là
cầu thủ suất sắc của đội bóng tṛn sinh viên Paris, là kỳ thủ không
thể qua mặt của bộ môn cờ, Nhân c̣n là huấn luyện viên vơ thuật của
vơ đường trong khu đại học, đồng thời đă mang về cho trường rất
nhiều huy chương trong các cuộc thi đấu. H́nh ảnh Nhân liên tục được
đăng trên các báo sinh viên và một số báo thể thao. Đă có lần một
câu lạc bộ nhà nghề nổi tiếng của Paris đề nghị Nhân kư hợp đồng để
được đào tạo làm cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, nhưng Nhân từ chối.
Tiếng tăm Nhân vang dội trong cộng đồng sinh viên của các trường đại
học, Nhân đă từng đưọc tiếp đón và nhận phần thưỏng của tổng thống
Pháp lúc bấy giờ là Georges Pompidou ở điện Élysées. Nhân được đặt
tên là Super Man, cái tên mà hồi ở Việt Nam mọi người đă đặt cho
hắn. Hóa ra siêu nhân th́ ở ṿm trời nào cũng là siêu nhân. C̣n con
chim chưa định được đường bay là tôi vẫn là cậu sinh viên nhút nhát
và không chút tự tin, dù là ở phương trời nào, lúc nào cũng quấn
quanh trong chiếc lồng vô h́nh chật chội cua ḿnh.
Với những thành tích và tính cách của Nhân, Nhân mau chóng trở thành
lănh tụ của các phong trào sinh viên, Lúc đầu là anh cả của các môn
thể thao, dần dà, Nhân lại làm luôn lănh tụ chính trị với nhiều tham
vọng. Thời điểm bấy giờ, cuộc chiến tranh Việt Nam đă đến cao điểm.
Mỹ liên tục ném bom miền Bắc, cuộc chiến đấu ở miền Nam càng ngày
càng nhiều máu lửa. Sinh viên Việt Nam đi du học hàng ngày nh́n thấy
những đổ nát, những tàn phá, máu xương rơi của chiến tranh, lại thêm
chính quyền miền Bắc và Chính phủ Cộng ḥa miền Nam Việt Nam tuyên
truyền ở Âu châu rất mạnh, nên đa số đều tham gia chống chiến tranh,
kêu gọi ḥa b́nh với một ư thức chính trị rất mơ hồ. Lực lượng này
rất mạnh và rất đông đảo. Và tham gia phong trào chống Mỹ trở thành
một cái mốt của người trí thức.
Nhân th́ ngược lại, hắn làm lănh tụ một nhóm sinh viên ủng hộ chính
quyền Việt Nam Cộng ḥa, chuyên phá đám các cuộc biểu t́nh và tuần
hành của nhóm sinh viên kia. Đụng độ giữa hai phái xảy ra như cơm
bữa.
Đúng thời điểm này th́ chúng tôi nhận hung tin từ Việt Nam. Mẹ tôi
và mẹ Nhân trong một chuyến hành hương về La Vang, Quảng Trị, trên
đường về th́ xe bị lật v́ trúng ḿn. Mẹ Nhân tan xác tại chỗ, mẹ tôi
được đưa vào bệnh viện Trung ương Huế, nhưng rồi cũng từ trần ở đó.
Tôi điện thoại cho Nhân, khóc nức nở trong điện thoại, Nhân chỉ ậm ừ
khuyên lơn tôi. Tôi đ̣i bỏ về Việt Nam ngay, nhưng Nhân khuyên nhủ,
động viên tôi ở lại tiếp tục học và phải cố học tốt hơn nữa, đó cũng
là một cách để khỏi làm buồn ḷng mẹ. Tôi nghe lời Nhân, nhưng ḷng
th́ tan nát, dạ rối bời, chẳng thiết ăn uống gần mấy tuần liền.
Riêng Nhân từ đó càng lao vào những cuộc đấu tranh để ủng hộ phái
đoàn Việt Nam Cộng Ḥa đang ở Paris để hội đàm t́m cách giải quyết
chiến tranh. Nhân mơ ước ngày trở về sẽ trở thành một công chức cốt
cán của chính quyền miền Nam, với những đổi thay và cương lĩnh mới.
Hiệp định Paris được kư kết, Nhân cay cú v́ bảo rằng chính quyền
miền Nam đă bị Mỹ lừa. Nhân càng hoạt động mạnh hơn, quyết liệt hơn.
Và trong tâm trạng đó, Nhân đă phạm một sai lầm oan nghiệt, chấm dứt
mọi ước mơ và hoài băo. Cắt đứt tương lai đang rộng cửa.
Trong khu đại học xá, Nhân được bố trí ở cùng chung pḥng với Thành,
cũng là một du học sinh học trường Bách Khoa Paris, học sau Nhân một
khóa. Thành là con trai của Chủ tịch Tối cao Pháp viện của chính
quyền miền Nam, nhưng Thành lại là lănh tụ của phong trào thiên tả
ủng hộ Cộng sản. Thành cũng là một thành viên rất cực đoan của lực
lượng này. Từ lâu, cả hai đă có nhiều lần tranh căi nhau dữ dội v́
những quan điểm xung khắc nhau về cuộc chiến đang xảy ra. Khi hiệp
định Paris vừa có hiệu lực thi hành, Nhân trong cơn bực tức đă nổ ra
cuộc đấu khẩu với Thành và trong lúc không kềm ḷng được đă bay đến
phóng chân đá vào đầu Thành ngay trong pḥng của hai người. Thành
găy cổ chết ngay lập tức, máu trào khóe miệng. Nhân bị bắt ngay. Báo
chí đưa tin hàng giờ. Tôi ở Montpellier đọc báo thấy đăng h́nh của
Nhân, nhưng lần này không phải là khuôn mặt tươi cười, hớn hở như
xưa mà là tấm h́nh Nhân cúi đầu đi giữa đám cảnh sát, hai tay bị
c̣ng, những sợi tóc xoăn trước trán rũ xuống khuôn mặt nhợt nhạt
không c̣n chút sinh khí. Tôi chợt nhớ nhận định của chú Lư Hạnh ngày
nào và bỗng tin vào số mệnh.
Tôi bay ngay về Paris, nhưng không được gặp trực tiếp Nhân. Hắn đang
bị cách ly để điều tra. Sau một thời gian, Nhân bị trục xuất và dẫn
độ về Sài G̣n với cái án giết người. Tôi lại chỉ gặp được Nhân qua
h́nh trên báo đăng h́nh Nhân ở chân phi cơ lúc bị dẫn độ, tay Nhân
vẫn bị c̣ng và Nhân vẫn lại lọt thỏm giữa đám cảnh sát với khuôn mặt
hớt hăi.
Tôi nhận được thư Nhân lúc trở về Montpellier, Trong thư Nhân dặn ḍ
tôi là không được tin cho ai ở nhà biết việc này, đồng thời Nhân
cũng nhờ tôi là khi nào nhận được thư Nhân với hai phong b́, tôi
phải bỏ b́ thư ngoài và gởi lại cái thư bên trong về Việt Nam cho
gia đ́nh Nhân, nếu nhận được thư của ba Nhân, tôi lại gởi về Sài G̣n
làm như là Nhân vẫn đang ở Pháp vậy. Nhân khuyên tôi cố gắng học cho
xong và xin lỗi tôi, tôi chẳng biết Nhân xin lỗi tôi v́ lí do ǵ.
Mỗi lần đi gởi thơ về cho ba Nhân, tôi cảm thấy ḿnh đang làm một
chuyện tội lỗi tày đ́nh v́ đang đánh lừa ba Nhân, người đang hi vọng
về đứa con thiên tài của ḿnh. Lần nào đi gởi thư, tôi cũng khóc.
Không biết bao giờ tôi mới bỏ được kiểu thường hay rơi nước mắt như
thế này.
Năm 1972 tôi đang học năm thứ hai Y khoa, tôi bỗng chán nản cùng cực
và ư thức một cách rơ ràng là nghề y không phù hợp với tôi. Tôi sợ
thấy máu chảy. Tôi sợ những khuôn mặt nhăn nhó, đau đớn v́ bệnh tật
của bệnh nhân. Tôi cũng biết rất rơ ḿnh không đủ phẩm chất để làm
người thầy thuốc. Tôi quá nhạy cảm trước mọi sự. Tôi chỉ mong ước
ḿnh trở thành họa sĩ, suốt ngày lang thang vẽ vời, sáng tạo, đùa
giỡn với sắc màu, không phải đối diện với những nỗi đau bệnh tật,
máu me, chết chóc của con người như nghề bác sĩ. Nếu cứ tiếp tục cố
nhồi nhét những kiến thức y khoa như thế này, chắc chắn tôi sẽ điên
mất. Trước đây tôi chọn học y v́ ba tôi bắt phải thế, lúc đó tôi vẫn
chưa có ư thức về nghề, về tương lai. Nhưng bây giờ, qua gần ba năm,
tôi tuyệt vọng v́ thấy ḿnh đang đi lần vào một hố thẳm và sợ hăi
khi nghĩ đến việc suốt đời phải gắn bó công việc khủng khiếp này. Và
rồi tôi đi đến quyết định cuối cùng. Đây là quyết định đầu tiên
trong đời do tôi tự quyết. Không biết tương lai rồi sẽ ra sao, nhưng
tôi có chút hài long v́ đă thoát ra được bế tắc. Ít ra con chim rời
long son cũng đă tự định hướng cho đời ḿnh. Tôi bỏ trường Y, thi
vào L’Ecole supérieure des Beaux – Arts de Montpellier Aggomération,
tức trường Trang trí Mỹ thuật Montpellier. Học trường này có nghĩa
là tôi sẽ bị mất học bổng ở trường cũ, do vậy kể từ đó cuộc sống của
tôi bấp bênh, no đói thất thường, làm nhiều nghề để kiếm cơm và để
được học những thứ ḿnh ưa thích. Nhưng tôi vốn vụng về và hậu đậu,
chẳng làm tốt được chuyện ǵ, đi đưa báo th́ đưa lộn địa chỉ, làm
bồi rửa chén th́ chuyên làm vỡ bát dĩa, đi giao sữa th́ đổ sữa lai
láng trước cửa nhà của khách. Bởi từ bé cho đến lớn, tôi chỉ việc
học, ba mẹ tôi không cho tôi làm ǵ ngoài chuyện phải học thật giỏi.
Lối giáo dục đó làm cho tôi vấp phải thất bại trong bước đầu trong
cuộc đời.
Trong các thầy giáo dạy ở trường Mỹ thuật, có giáo sư Alain Bourdon
dạy rất giỏi, thầy được gọi là họa sư. Thầy rất thương tôi và biết
rất rơ t́nh trạng của tôi, nên thường t́m cách giúp đỡ. Lúc th́ kẹp
ít tiền trong sách của tôi, khi th́ giỏ thức ăn. Cuối tuần, Thầy
thường đón tôi về căn nhà ở ngoại ô của Thầy. Ở đó, tôi được ăn no
nê và được Thầy dạy thêm những kiến thức vô cùng quư báu. Vợ Thầy đă
mất cách đây bốn năm v́ bệnh ung thư, Thầy ở với cô con gái duy nhất
khoảng 18 tuổi tên Monique rất đẹp, khuôn mặt thánh thiện, sáng bừng
như thiên thần. Monique thường nhờ tôi đệm piano cho cô ấy hát,
Monique có một giọng hát trong trẻo và cao vút rất hợp với nhiều bài
Thánh ca cũng như những bài ca dân dă. Tôi thường đọc thơ cho nàng
nghe, những bài thơ của Arthur Rimbaud, Paul Verlaine …, Guillaume
Apollinaire và cả thơ Tagore. Monique rất thích bài thơ L'Adieu của
Apollinaire, nhất là khi tôi ngâm bài thơ này bằng giọng Quảng Nam,
mỗi lần nghe xong, nàng bật cười ngặt nghẽo, cứ giả giọng của tôi
rồi cười khanh khách, nhưng đôi mắt th́ ngập nước:
"J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends "
(L'Adieu – Apollinaire)
Monique rất quư tôi, tuần nào tôi không về, cô ấy gởi bánh trái cho
Thầy Alain mang lên cho tôi. Biết thân phận ḿnh, lại vẫn cái tánh
nhút nhát, không tin vào ḿnh, nên dù có rất nhiều cảm t́nh với
nàng, tôi vẫn không dám ngỏ, cứ mặc cảm ḿnh không xứng đáng. Chúng
tôi thường đi dạo trên con đường ṃn của cánh rừng sau nhà, cùng đi
qua đủ bốn mùa. Mùa thu sắc đỏ, lá vàng ngập lối đi. Mùa hạ bầu trời
xanh và mặt nước hồ gợn sóng lăn tăn. Mùa xuân với những cành lá
biếc, hoa nở tím cả rừng và mùa đông với những cành trơ trọi, trời
lạnh giá, trên cổ mỗi người quấn chiếc khăn quàng do Monique tự tay
đan. Trong những buổi cùng lang thang, hái hoa, nghe tiếng chim líu
lo, chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện trên đời. Nhưng cũng có khi
trên đường về, hai đứa cứ im lặng suốt cả con đường dài, nhưng vẫn
ngập tràn một thứ hạnh phúc khó diễn tả nổi. T́nh yêu đến nhẹ nhàng,
trong như giọt sương, tôi không dám động mạnh, chỉ sợ nó vỡ tan. Và
ánh mắt nh́n nhau, nụ cười trao nhau như những lời ước hẹn,đổi trao
diễn ra trong im lặng. Mỗi khi đến nhà của Thầy Alain, được ngồi ăn
chung với hai bố con Thầy, được nh́n khuôn mặt đẹp tựa thiên sứ của
Monique, nghe tiếng hát trong veo của nàng, tôi cảm thấy cuộc đời
thật tươi đẹp và mong ước ḿnh cứ được măi như thế này….
Nhưng số phận lại giáng xuống đời, khi tôi vừa xong năm thứ hai đang
kỳ nghỉ hè th́ tai họa ập đến gia đ́nh Thầy Alain. Trong chuyến đi
về Paris của hè năm ấy, họ đă bị tai nạn giao thông. Thầy Alain chết
ngay trên volant, Monique bị thương nặng, được chở vào bệnh viện,
một tuần sau th́ mất. Tôi bay về Paris ngay khi được tin và chăm sóc
Monique suốt một tuần nàng thoi thóp, mê man trên giường bệnh, suốt
ngày tôi quên ăn uống, chỉ ngồi nắm trong tay bàn tay bé nhỏ lạnh
giá của Monique, chờ phép lạ. Đến hôm cuối cùng, Monique mở mắt nh́n
tôi rất lâu, hai ḍng nước mắt chảy dài trên má nàng, mặt tôi cũng
đầm đ́a nước mắt. Môi nàng mấp máy: Je t’aime… Je t’aime…và
bàn tay rời khỏi tay tôi. Phép lạ đă không đến. Chúa cũng đă quay
mặt đi trước nỗi đau của thiên thần. Tôi gần như không kêu lên được
tiếng gọi y tá cấp cứu, cổ họng tôi đông cứng và tôi đứng chôn chân
gần mấy tiếng đồng hồ trong niềm tuyệt vọng như bức tượng đá bên
giường. Tôi không tin đó là sự thật.
Suốt cuộc đời, tôi không bao giờ quên được ánh mắt và câu nói cuối
cùng đó. Câu nói của Monique như vết khắc trong tim tôi, không phai.
Tôi đau đớn tột cùng trước cái chết của cha con Thầy Alain, người
tôi xem như người cha thứ hai của ḿnh. Và Monique, mối t́nh đầu của
tôi, mối t́nh câm chưa dám ngỏ của tôi. Tôi có cảm tưởng ḿnh đă bị
rút hết tất cả sinh lực. Tôi mất ngủ, lang thang như kẻ điên suốt
mấy tháng dài. Tôi chẳng c̣n thiết tha ǵ chuyện học hành và tương
lai. Thiên thần Monique của tôi hiện ra như ánh chớp, lóe sáng đời
tôi một khoảnh khắc rồi bay về trời. Nàng như một thứ định mệnh làm
thay đổi ư nghĩ của tôi về cuộc sống. Cái chết của mẹ tôi, mẹ Nhân,
của Thầy Alain, của Monique khiến tôi thấy cuộc sống này chỉ là một
ảo ảnh, có đó rồi mất đó. Hiện hữu rồi tan vào hư vô. Sống chết là
một ranh giới quá mỏng manh. Cuộc sống chỉ là một ánh chớp. Tôi đóng
cửa suốt ngày và cứ nghĩ về lẽ tử sinh. Và rồi số phận lại đổi thay,
tôi ngộ ra rằng những tham vọng, những ước mơ, những hoài băo, những
cố gắng cuối cùng rồi cũng sẽ được chấm hết bằng một cái chết do
muôn ngàn bất trắc của đời sống. Thế th́ ham danh vọng để làm ǵ,
mải mê theo những ảo vọng để làm ǵ? Tất cả thật ra rồi cũng chỉ là
ảo ảnh.Và tôi buông tay, thả cuộc đời ḿnh cho những con sóng của số
phận. Tôi bỏ lại tất cả và trở về Việt Nam
************
3.
Tôi không dám về quê, cố bám lấy Sài G̣n. Tôi t́m gặp Nhân, hai đứa
thuê chung căn pḥng ở khu Trương Minh Giảng. Tôi và Nhân bàn cách
để tránh những người quen biết. Tôi để tóc, râu dài thậm thượt, Nhân
cũng thế. Hai đứa thường mang đôi kính đen, ban đêm th́ mang kính
đổi màu. Hàng tháng, tôi và Nhân viết thư gởi qua Pháp cho một người
bạn, anh này lại bỏ phong b́ ngoài, gởi tiếp về Việt Nam cho ba tôi
và ba Nhân. Và nhận những lá thư từ gia đ́nh gởi qua chặng Đà Nẵng –
Pháp – SàiG̣n. Chúng tôi lại tiếp tục lừa dối và loay hoay trong lừa
dối tự ḿnh bày ra.
Lúc Nhân vừa bị dẫn độ về Sài G̣n, ông chủ tịch Tối cao Pháp viện,
tức là bố của Thành, người bị Nhân giết chết bằng cú đá oan nghiệt,
đang chuẩn bị ra tranh cử dân biểu quốc hội. Không muốn bị báo chí
phanh phui là có con theo Cộng Sản bị giết chết nên ông này t́m mọi
cách ỉm vụ đó đi. Nhân chỉ bị đưa ra ṭa bí mật và kết luận là gây
án ngộ sát trong t́nh trạng thần kinh không b́nh thường, nên được
trả tự do sau hai tháng giam giữ.
Được một người bạn du học Mỹ về đang làm Tổng cục trưởng, Nhân được
bố trí làm việc ở Tổng cục gia cư, chuyên về xây dựng. Khi tôi về,
Nhân lại giới thiệu tôi vào làm với nhiệm vụ họa viên vẽ họa đồ. Để
trốn khỏi đi lính, Nhân mua cho tôi một cái giấy hoăn dịch v́ lí do
sức khỏe và hắn th́ hoăn dịch v́ gia cảnh. Cả hai đều là giấy giả.
Đi làm lương cũng kha khá đủ sống, nhưng hai thằng sống như hai
thằng buôn thuốc phiện lậu, lúc nào cũng lén lén lút lút, cứ sợ gặp
người quen với gia đ́nh và cũng phải trốn tránh bọn cảnh sát ch́m
nổi đầy mọi ngơ ngách. Cả hai trường hợp nếu bị phát giác cũng đều
đưa đến kết quả bi thảm cả. Thế mà tôi cũng phiêu lưu dám ghi danh
học tiếp ở Đại học Văn khoa. Vừa làm vừa học, dù ít khi có mặt ở
giảng đường.
Từ đó, tôi cảm thấy ḿnh an phận, chấp nhận số phận do ḿnh chọn
lựa. Nhưng h́nh như Nhân không nghĩ giống tôi. Có rất nhiều khi Nhân
không cười, không nói, lầm ĺ suốt cả tuần lễ, có lúc lại uống rượu
đập bàn, đập vỡ li chén, uống say mèm và khóc tức tưởi. Những lúc
như vậy, tôi chỉ biết ngồi im v́ ánh mắt của hắn lúc đó trông như
ánh mắt của quỷ dữ, như con thú bị dồn đến đường cùng. Có một điều
lạ nữa là Nhân không bao giờ nhắc đến Dạ Lan lúc tỉnh táo, mặc dù
tôi biết Nhân nhớ thương nàng nhiều lắm. Nhưng cứ đến khi say, hắn
khóc và réo măi tên Dạ Lan. Khi tỉnh, nếu tôi vô t́nh nhắc đến tên
nàng, Nhân quắc mắt lên rất dữ tợn, riết rồi tôi chả bao giờ dám
nhắc đến cái tên đó nữa.
Hàng tuần, cứ mỗi chiều thứ bảy khi đi làm về, Nhân lại mua một bó
hoa lớn, vào nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, ngồi trước mộ Thành đến tối
mịt mới về. Tôi hiểu tâm trạng của Nhân nên cũng chẳng có ư kiến,
nhưng tôi tự nghĩ, một cú đá đă giết chết cuộc đời của hai người:
cái chết tức thời của Thành và cái chết dai dẳng của Nhân. Cú đá đă
làm cho cuộc đời của Nhân qua một ngă rẽ để đi tới hố sâu thăm thẳm.
Chúng tôi sống b́nh lặng chẳng có ǵ đáng kể như thế cho đến biến cố
30 tháng 4 năm 1975.
********
4.
Những tin tức chiến sự dồn dập, Tây nguyên thất thủ, Huế mất, Đà
Nẵng mất. Hàng trăm ngàn người trôi dạt trên biển từ miền Trung, lớp
lớp người trên những con đường đầy xác chết. Cuộc chiến đi vào những
giây phút cuối cùng. Sài g̣n rung lên từng phút. Hai trái bom CBU nổ
trên tỉnh lỵ Long khánh. Thành phố nhốn nháo. Thành phố lo âu. Thành
phố chuẩn bị cuộc hỗn loạn đang chuẩn bị ập tới.
Tôi và Nhân vẫn b́nh chân như vại. Sáng sáng vẫn ngồi cà phê chờ xe
đến rước đi làm. Thiên hạ bàn tán nhiều đến chuyện ở, chuyện đi. Hai
thằng không quan tâm, Cũng đúng thôi, v́ chúng tôi từng ở bên đó về,
đă thấm những nỗi nhục nhằn, đă chấp nhận nhát búa của số phận.
Không lẽ bây giờ lại trở lại tiếp tục chui đầu vào con đường cũ.
Những ngày cuối cùng của tháng tư, công sở đóng cửa, hai đứa ngồi
nh́n thiên hạ xôn xao ḷng dửng dưng. Nhưng đến hôm 29.4 th́ bỗng
nhiên cả hai thấy sợ trước những lời đồn đoán.
Nửa đêm hai đứa vùng dậy, đem hết giấy tờ, h́nh ảnh liên quan đến
những năm tháng du học ở Pháp ra đốt. Nhân có cả mấy thùng lớn loại
này, những h́nh ảnh thời Nhân c̣n được gọi là Super Man trên đất
Pháp. Ngọn lửa bập bùng suốt đêm. Tôi chỉ giữ lại mấy tấm h́nh tôi
chụp chung với Thầy Alain và Monique, mấy bức tranh tôi vẽ ở trường
Mỹ thuật tôi đă chọn lựa để đem về Việt Nam. Đó là những kỉ vật tôi
không thể để mất được, dù tôi hiểu có thể sẽ đưa đến hậu quả không
may.
Sài G̣n sau đó là một Sài G̣n khác. Những lều quán bỗng dưng mọc lên
trên những con phố. Chủ quán là chị cave, cũng có thể là vợ của một
anh sĩ quan nào đó, cũng có thể là một nghệ sĩ, một nhà báo không
c̣n được sử dụng. Thiên hạ nháo nhào đổ ra đường kiếm sống, cuộc
sống bị xáo trộn ghê gớm, chẳng c̣n phân biệt được đâu là ông, đâu
là thằng của những con người cũ.
Chúng tôi suốt ngày lê la hàng quán, đấu láo quên thời gian mà không
biết rồi ngày mai sẽ ra sao. Có người rủ mở quán, có đứa kêu đi bán
đủ thứ thứ tàn dư của xă hội cũ lọc lừa mấy chàng bộ đội khờ khạo,
có thằng rủ đi bán thuốc Tây. Có đám rủ rê vượt biên. Có người nhỏ
to tính chuyện tổ chức phản động. Chúng tôi phớt lờ tất cả. Cứ bán
dần những thứ c̣n lại trong mớ đồ đạc sống qua ngày.
Sống lây lất mấy tháng như vậy th́ chúng tôi bắt đầu bế tắc. Công
việc không có, áo quần, giày dép, mắt kính, sách vở, túi xách, va li
lần lượt lên đường. Đùng một cái, đổi tiền lần thứ nhất (2.9.1975),
chúng tôi chẳng có xu nào để đổi. Bắt đầu những ngày khốn khó. Có
nhiều bữa chỉ c̣n đủ tiền mua một lon gạo và một quả trứng. Hai
thằng luộc rồi chia trứng làm bốn mảnh, tưới nhiều nước mắm, dành ăn
cho hai bữa. Có ngày chỉ c̣n mấy miếng khoai ḿ mua được dọc
đường….Rồi không ai bảo ai, cả hai bắt đầu tản ra, mỗi thằng tự đi,
tự kiếm ăn, tối về ngủ. Nhân bỗng cọc cằn, dễ nổi nóng, tối ngủ cứ
đá vào tường suốt đêm…Rồi tới một ngày, chúng tôi chia tay nhau,
Nhân bỏ đi mất hút……
Tôi bắt đầu đói dữ, có ngày chỉ được trái chuối, có hôm chỉ được củ
khoai. Người tôi xanh mướt, xuống sức dữ dội, chỉ c̣n 39 ki lô. Tôi
đành phải chấp nhận vào làm bưng bê trong quán cà phê ven đường của
vợ chồng người bạn họa sĩ, kiếm cơm ăn. Nhưng cũng chỉ được mấy
tháng, hai vợ chồng người bạn bị bắt v́ có dính líu chính trị sao đó
chẳng biết. Tôi lại trôi như bèo. Bèo nhèo. Tôi cũng chẳng có chút
tin tức ǵ về Nhân, không biết hắn sống ra sao. Mù tăm.
Tôi đă đói tới ngày thứ ba, ba ngày chỉ có củ khoai lang và li nước
đường uống lậu ở quán con Sáu ốm. Người mệt lả. Thèm đủ thứ. Thấy ǵ
cũng muốn giật bỏ vào mồm. Mệt. Người cứ như đang say sóng.Nhưng
cũng cứ phải ra đường, v́ ra đường mới hi vọng có miếng ăn. Đói,
nhưng cũng quần áo chỉnh tề, giày vớ đầy đủ, nghiêm chỉnh ra đường
như một kẻ nhàn du. Ra đường đứng lơ ngơ, đi lơ ngơ không mục đích.
Và trong khi lớ ngớ như thế, tôi phát hiện phía bên đống rác ở chân
cầu Trương Minh Gỉang có chiếc xe đạp ai bỏ đó. Tôi đứng gần hai
tiếng đồng hồ phía bên này đường, không thấy ai đến lấy. Tôi chờ
thêm thời gian nữa, rồi băng qua đường. Chỉ việc tỉnh queo dắt xe
đi, làm như xe của ḿnh là xong. Bán đi sống cũng được năm mười bữa.
Tôi đă chạm tay vào ghi đông xe. Nhưng rồi rụt tay lại như phỏng
lửa. H́nh như có người nh́n tôi. H́nh như mọi người nh́n tôi. H́nh
như mọi người đang cùng chỉ tay vào tôi và đồng thanh: thằng ăn
cắp..thằng ăn cắp…Trong đầu tôi cũng vang lên điệp khúc đó: thằng ăn
cắp..thằng ăn cắp…
Tôi lại lủi vào chợ. Những món hàng bánh trái lèo tèo nhưng hấp dẫn
tôi v́ cơn đói đang hành hạ. Có một chị đang bế con đi qua. Đứa bé
khóc ngặt nghẽo đ̣i ăn quà. Chị ngồi xuống gánh chuối chiên. Những
miếng chuối chiên vàng quyến rũ. Nước miếng chảy ra đầy miệng tôi.
Tôi nghe có tiếng ḍn rụm trong hàm răng, vị ng̣n ngọt, beo béo tỏa
trên đầu lưỡi. Thằng bé vẫn khóc. Người đàn bà đứng lên, đứa bé tay
cầm miếng bánh, miệng vẫn khóc, người vùng vằng. Tôi chắc chắn trong
đầu là thằng bé sẽ đánh rơi miếng bánh. Tôi lặng lẽ đi theo. Thằng
bé làm rơi bánh thật. Tôi cúi người lẹ như sóc, lượm nhanh và tạt
ngay vào con hẻm nhỏ. Miếng bánh tưởng sẽ ngon vô cùng v́ cơn đói,
nhưng vừa bỏ bánh vào miệng, hai ḍng nước mắt chảy dài trên mặt
tôi, những miếng bánh vỡ như những mảnh vỡ của thủy tinh xé nát
buồng ngực tôi.
Tôi đau đớn và nhục nhă….
Tráng là người bạn học chung ở Văn khoa, hắn là chuyên gia đạp xích
lô. Tôi t́m tới hắn, nhờ bảo lănh thuê một chiếc ở hẻm Trần Quang
Diệu. Tôi chưa chạy xe xích lô lần nào, nhưng nghĩ Tráng chạy được
th́ tôi cũng sẽ chạy được. Nghĩ đơn giản ai dè trèo lên mới thấy
không phải dễ ăn. Tập vài ṿng th́ cũng tạm chạy được. Tráng bảo tôi
chạy về Trần Quốc Toản, chỗ chợ cá sẽ có mối. Đúng là vậy, một bà
mập béo và đôi thùng đầy nhóc cá lóc thụê tôi chở về chợ Trương Minh
Gỉang. Chỉ chạy đến ngă sáu Lê Văn Duyệt là tôi đă đuối hơi. Chân
bắt đầu nặng, thở hổn hển. Tôi ráng đạp, nghĩ rằng chỉ qua tới Yên
Đỗ, quẹo, qua được cầu là xong. Sẽ có bữa ăn cho trưa nay. Nhưng tôi
không qua nổi cầu. ba bánh xe như có ai gh́ lại, không lên nổi dốc,
dù tôi đă gồng hết đôi chân. Chiếc xe như muốn tuột xuống, tuột
xuống. Tôi không nhảy được, hai chân cố giữ bàn đạp, cả người cố
gồng lên. Nhưng chiếc xe vẫn từ từ tuột. Tôi không chịu nổi nữa,
ngực tôi nặng như đeo ch́, hơi thở đứt quăng. Phen này th́ chắc
chết. Bà khách thấy xe tuột dần th́ la lên chói lói, nhảy xuống cũng
không xong v́ kẹt hai thùng cá. Tôi buông xuôi, nhắm mắt chờ xe lật
ngửa và thế là xong một đời. Nhưng, h́nh như có một sức mạnh thần
kỳ, chiếc xe sựng lại một lát và đi lên như có ai đẩy. Tôi mở mắt
nh́n lui th́ thấy Nhân đang g̣ lưng đẩy xe từ phía sau, chiếc xe lên
dốc rồi đổ dốc, an toàn đến chợ. Tôi gặp lại Nhân như thế đó, và
Nhân đă cứu tôi lần nữa như đă cứu tôi một lần lúc thằng Hồ Lê bắt
tôi rúc háng thuở c̣n đi học….
Ngồi ở quán bún ngay góc Trương Minh Giảng và Trần Quang Diệu, tôi
ăn ngon lành hai tô bún thịt nướng đầy rau xanh. Nhân không nói ǵ,
ngồi nh́n tôi với đôi mắt ngập nước mắt thương xót. Nhưng khi tôi
định gọi thêm tô thứ ba th́ Nhân ngăn lại:
- Cậu đă không chết v́ đói th́ đừng nên để chết v́ no. Cứ từ từ. Sẽ
không phải đói nữa đâu.
Nhân rút từ túi ra một cọc tiền lớn, trả tiền bún xong, Nhân ngắt
đôi cọc tiền, đưa tôi một phần và bảo:
- Cậu giữ số tiền này mà sống. Người ta đang chuẩn bị cho các trường đại học hoạt động trở lại rồi. Cậu nên tiếp tục học hi vọng kiếm được một việc làm trong chế độ mới. Cậu ốm yếu lại quá thật thà đến hóa ngu, không làm buôn bán lọc lừa, không làm phu xe, bốc vác được đâu!
- Nhưng tiền đâu cậu có nhiều thế. Mấy tháng nay cậu ở đâu, làm ǵ???
- Từ từ rồi sẽ biết. Ḿnh sẽ kể cho cậu nghe. Xong rồi ḿnh sẽ về Đà
Nẵng. Chốn này không c̣n là chỗ dung thân của ḿnh nữa rồi. Đă đến
lúc ḿnh phải chấm dứt mọi sự giả dối. Ḿnh sẽ nói hết sự thật cho
ba ḿnh. Chắc chắn sự thật sẽ làm cho ông cụ đau đớn, nhưng thế sẽ
tốt hơn, cho ḿnh và cho cả ông cụ. Im lặng một lát, lấm lét nh́n
quanh, Nhân ghé miệng sát tai tôi, thầm
th́: Ḿnh đang bị truy nă.
5.
Mấy tháng trước, chúng tôi chia tay nhau v́ cả hai đang lâm vào cảnh
đói ăn thê thảm, Nhân bỏ đi và lang thang vào khu Chợ Lớn. Nhân kể
là vào đó hi vọng sẽ không gặp ai quen, đồng thời mấy ông Ba Tàu
chắc cũng có đời sống, sinh hoạt khá hơn người Việt, dễ kiếm cơm
hơn. Nhưng suốt một ngày từ chợ Ḥa B́nh, rồi qua chợ Kim Biên đến
chợ B́nh Tây vẫn chưa kiếm được mối nào nhờ giúp việc. Nhân mở miệng
đề nghị chủ hàng để được bốc vác th́ chủ hàng nh́n Nhân đầy nghi
ngờ. Bởi chàng ta vẫn c̣n bỏ áo trong quần, nai nịt đầy đủ, chân c̣n
mang đôi giày da tuy đă cũ sờn, lại thêm cắp kính đen che đôi mắt
sùm sụp. Ai lại tin người có vẻ trí thức như vậy chịu làm chuyện của
người lao động. Chắc có mục đích ǵ đây. Nghe ngóng? Theo dơi?...
Nghi là phải. Mà lúc này xă hội mới h́nh thành một lối sợ mơ hồ và
đầy nghi ngại với tất cả mọi người. Chẳng ai tin ai. Cũng may vỉa
hè, quán sá, phố phường cũng không thiếu những anh chàng có vẻ ngoài
như vậy lê bước với khuôn mặt chán chường và tuyệt vọng. Cho nên
Nhân cũng không bị để ư lắm.
Trời tối, đói meo, Nhân lê gót đến ghế đá cạnh tượng ông chủ họ
Quách, người lập ra ngôi chợ này. Bức tượng đă bị đem đi đâu mất,
chỉ c̣n cái bệ tượng chơ vơ. Có ba người thanh niên đang ngồi nhậu
trên đó. Họ ngồi quanh, ở giữa có dĩa mồi là con gà luộc da vàng
óng. Cuộc nhậu h́nh như mới bắt đầu, li rượu mới chuẩn bị xoay tua.
Ngôi chợ vắng vẻ, ánh đèn vàng vọt và âm thanh chỉ là tiếng chổi
quét lẹt quẹt của người phu quét chợ. Nhân ngồi ở ghế đá nh́n lên,
con gà hấp dẫn quá. Hắn nuốt nước bọt liên tục. Đă mấy lần quay đi
và cũng đă nhiều lần nh́n lại. Con gà vẫn bóng lưỡng khêu gợi tênh
hênh giữa chiếu nhậu…
Bỗng nhiên Nhân t́ tay vào ghế đá, bắn người lên. Đôi chân vừa chạm
đất quét ngang, con gà bay lên nằm gọn trong tay Nhân. Ba gă thanh
niên quá bất ngờ, không kịp một phản ứng nào. Nhân ngoạm một miếng
vào đùi gà, nhai nhồm nhoàm. Ba gă thanh niên đă định thần, cùng hét
lớn xông vào đứa đấm, đứa đá, đứa lên gối. Nhân vừa nhai, vừa cầm
chắc con gà, xoay nhiều ṿng, hai chân đạp hai gă gần nhất đang chồm
tới, tay c̣n lại đấm vào ngực gă kia. Ba tên bị bắn lui, kinh hoàng.
Ba gă lại tiếp tục hè nhau tấn công thêm mấy bận nữa, nhưng chẳng
làm ǵ được Nhân. Nhân vừa nhai vừa né đ̣n, rồi ra đ̣n nhưng chỉ mấy
miếng đấm đá không nhằm chỗ hiểm. Cuối cùng cả bọn dừng tay. Gă râu
xồm có vẻ đầu đàn hất hàm nhưng trong giọng nói có chút vị nể:
- Ông bạn ở đâu mà dám đến đây cướp gà của tụi này?
Nhân dừng nhai:
- Tôi đói quá, định xin mấy người anh em chút ǵ bỏ bụng, nhưng biết chắc là khó nên đành cướp vậy. Có ǵ các anh thứ lỗi.
- Ông ở băng nào mà ngón nghề cũng oách quá vậy?
- Chẳng có băng nào cả, thất nghiệp lang thang thôi….
Lời qua tiếng lại một hồi, hiểu được nhau. Giang hồ vốn trọng người
tài, nên rồi cả bọn ngồi chung chiếu, nhậu suốt đêm thâu. Từ đó,
Nhân nhập băng, lần hồi nhờ tài vơ nghệ cộng với trí thông minh, hắn
trở thành đại ca của băng chợ B́nh Tây, từ từ lan ra một vùng khá
rộng của khu Chợ Lớn, dưới trướng có vài chục đàn em, cùng nhau hành
hiệp. Lúc đầu chỉ quanh quẩn công việc ở các chợ, lần lần nhảy vào
bán mua, rồi buôn lậu đường dài. Càng ngày càng lấn sâu vào chốn
giang hồ phạm pháp, tên tuổi của trùm Nhân nổi tiếng khắp chốn giang
hồ là một đại ca mưu mô tuyệt diệu mà vơ công lại vô cùng thâm hậu,
được đàn em vô cùng quư mến, tôn sùng. Tiền bạc vô ào ào. Nhớ bạn
đang nghèo nhưng mặc cảm đang là thằng tướng cướp nên chẳng dám về
t́m lại.
Giang hồ có lănh địa riêng, bán buôn cũng chia từng khu vực, các
băng nhóm không được xâm phạm, vi phạm là sẽ có máu đổ ngay. Nhưng
không lấn sân nhau th́ không tồn tại và phát triển được, nên đụng độ
nhau là chuyện không thể tránh. Sau mấy tháng làm đại ca, một cuộc
tranh chấp lănh thổ và mối lái giữa băng của Nhân và băng ALũ xảy
ra. Đây sẽ là trận lớn, cả hai bên trang bị mă tấu, ống nước inox,
dao bầu, kiếm nhọn. Một trận huyết chiến, một mất một c̣n, máu me
tràn ngập chắc chắn sẽ không tránh khỏi. A Lũ là một đại ca máu mặt
ở vùng này, trước tháng 4.75 là trùm khu Chợ Lớn – Phú Lâm, bị Ban
bài trừ du đăng của cảnh sát Sài G̣n bắt giam ở Chí Ḥa, được thoát
ra trưa 30. Hắn ngứa mắt trước ảnh hưởng càng ngày càng lan rộng của
băng thằng Nhân, nên quyết đấu.
Nhân không muốn cuộc chiến diễn ra ồn ào, công an xuất hiện là điều
bất lợi cho bản thân hắn và lũ đàn em, nên đến gần giờ máu đổ, Nhân
đề nghị đấu tay đôi với A Lũ. Bên nào thắng sẽ được trọn quyền hoạt
động toàn khu, bên thất bại sẽ giải tán hoặc gộp chung thành đàn em
của băng thắng. A Lũ đồng ư ngay, bởi hắn là một tay vơ sư có hạng
của vơ Thiếu Lâm. Hắn nh́n thân h́nh hơi thấp và dáng thư sinh của
Nhân nên có vẻ xem thường. Cuộc đấu tay đôi sẽ diễn ra trong nghĩa
địa nhị t́ khu cây da xà lúc nửa đêm.
Hai thằng đúng là kỳ phùng địch thủ, bất phân thắng bại. Hơn nữa,
Nhân cố tránh không sử dụng đ̣n chí mạng, chỉ muốn làm cho A Lũ và
đám đàn em hắn tâm phục khẩu phục, nên cuộc chiến kéo dài hơn tiếng
đồng hồ. Hai bên ra lệnh không được ḥ reo, tránh sự chú ư. A Lũ
đúng là một tay vơ lâm đầy tài nghệ. Hắn tránh được nhiều đ̣n của
Nhân và cũng phản đ̣n rất dũng mănh. Cuối cùng, không muốn kéo dài
cuộc chiến, Nhân phải sử dụng đến ngón đ̣n giết người rất nguy hiểm.
Hắn bấm ḿnh bay đến bức tường sau lưng A Lũ, chạy như gió trên
tường rồi bắn ngược trở lại, tung cước ngay đầu A Lũ, A Lũ gục xuống
như thân chuối bị đốn. Đấu trường xôn xao. Cùng lúc ấy có tiếng chân
chạy sầm sập, tiếng c̣i thổi và bóng nhiều công an xuất hiện ở cổng
nghĩa trang. Cả bọn tháo chạy. A Lũ cố gượng dậy nhưng không nhấc
ḿnh lên được. Đă chạy đi rồi, quay nh́n lại thấy A Lũ quằn quại
không gượng dậy nổi, Nhân quay lại cơng A Lũ trên vai và cố thoát
khỏi ṿng vây. Nhưng không kịp. Ba công an kềm sát chân anh, ôm chặt
lấy Nhân, quật xuống và tra c̣ng….
Nhân bị giam ở đồn hai ngày, hai tay bị c̣ng vào song cửa sổ, chờ xe
chở về Đắc Nông, nơi tập trung đám giang hồ bị bắt cải tạo lao động.
Bọn đàn em bắn tin sẽ t́m cách giải cứu đại ca, đồng thời báo cho
biết A Lũ chỉ bị trọng thương, đang nằm ở bệnh viện, công an canh
giữ sát sao, nhưng liệt nửa người dặt dẹo. Thời đó chẳng có ṭa án,
cũng chẳng xét hỏi, lập hồ sơ, cứ thế mà đi thẳng vào trại, chẳng
biết ngày về.
Nhân nghĩ chỉ có giải pháp duy nhất là phải trốn thôi, không thể
giam ḿnh trong trại không lối thoát như thế được. Nửa đêm đó, chờ
mọi người ngủ say, Nhân lấy hết sức b́nh sinh, bẻ song cửa sổ, hai
tay c̣n dính c̣ng, trốn thoát. Anh chạy về sào huyệt báo tin cho đàn
em, từ biệt chúng, chia chác tiền bạc và sáng hôm sau đi t́m tôi. Và
chúng tôi đă gặp nhau ở dốc chân cầu Trương Minh Gỉang, khi tôi
chuẩn bị tuột dốc.
Tôi hỏi Nhân:
- Cậu mua vé tàu xe ǵ chưa?
Nhân bảo:
- Ḿnh tránh mua vé, sợ bị lộ. Ḿnh sẽ đi bộ về Đà Nẵng, gặp đâu xin
đi đó, được đoạn nào hay đoạn đó, chứ đi tàu dễ bị xét hỏi lắm, chắc
là khó thoát.
Và chúng tôi chia tay nhau. Lúc ấy là cuối năm 1976.
6.
Tôi được ghi tên đi học lại, khóa chúng tôi được nhập chung với sinh
viên Sư phạm thành trường Đại học Sư Phạm Thành phố. Nhờ số tiền
Nhân đưa, tôi sống được thời gian dài, dù cũng chỉ tạm đủ ngày hai
bữa cơm rau ở căn tin và qua lần đổi tiền lần thứ hai 1978. Cuộc
sống trôi đi, học hành rồi ra trường, tôi ra trường cũng gặp chút
khó khăn lúc phân công tác. Lí lịch xấu quá, đen thui. Con công chức
cao cấp chế độ cũ. Bản thân thiếu phấn đấu. Nhưng rồi trời thương,
được vài người giúp đỡ, tôi được phân công về dạy ở một trường cấp 3
heo hút ở Củ chi. Cuộc sống cũng được cho là ổn. Tôi cố t́m cách
liên lạc với gia đ́nh, nhưng thư gởi đi mà không có hồi âm. Tôi cũng
chẳng nhận được lá thư nào từ Pháp gởi về. Cũng chẳng nhận được chút
tin tức nào của Nhân. Tất cả im ĺm như nấm mộ.
Đầu năm 1978, tôi nhận được một lá thư từ nước Pháp. Lá thư của em
gái tôi, cô em duy nhất mà khi tôi rời Việt Nam, em mới 14 tuổi. Em
gởi từ Mỹ qua địa chỉ cũ của tôi ở Montpellier từ cuối năm 1975, nay
tôi mới nhận được. Trong thư em báo tin đă di tản qua Mỹ từ tháng
4.1975, hiện ở New Hampshire, miền đông nước Mỹ đồng thời cho biết
ba tôi đang bị học tập cải tạo tại Hàm Tân. Tôi chạy ra Hàm Tân th́
được tin ba tôi đă bị chuyển ra Bắc, đang ở Hà Nam Ninh. Mùa hè năm
1978 tôi ra bắc, lên Hà Nam Ninh thăm nuôi ba nhưng không được gặp
mặt, đến năm sau ra lần nữa th́ được tin ba tôi đă chết trong trại.
Trên đường từ bắc xuôi nam, tôi dự định ghé Đà Nẵng thắp nhang cho
mẹ th́ lại biết rằng nghĩa trang Nam Ô, nơi mẹ tôi nằm đă bị qui
hoạch, mộ mẹ tôi không biết t́m đâu? Như vậy, từ khi rời Đà Nẵng năm
1968, tôi chưa trở lại chốn này lần nào. Bởi chẳng c̣n ǵ để tôi trở
lại, cha mất chưa t́m được xác ở chốn xa xôi. Mộ mẹ bị san bằng
không dấu vết. Nhà cửa không c̣n. Trở lại chỉ thêm buồn đau và hờn
tủi.
Tôi lập gia đ́nh, sinh con. Quẩn quanh với cuộc sống từ những khó
khăn và thiếu thốn. Cuộc sống cứ thế trôi đi. Những kỷ niệm của ngày
xưa lần hồi phôi pha. Phải tập quên để sống. Phải cứ hướng tới phía
trước để tồn tại. Cho đến 2010, khi tôi tṛn 60 tuổi, về hưu, con
cái cũng đă lớn, đă yên bề gia thất. Nhiều đêm không ngủ được, tuổi
mới chớm già mà cứ nhớ đến quá khứ đến quắt quay. Tôi nhớ Nhân, nhớ
đến những năm tháng đă qua đi và sẽ không c̣n trở lại. Không biết
bây giờ Nhân sống ra sao, c̣n ở Việt Nam hay đă trôi dạt xứ nào.
Thời gian quá dài, quá nhiều đổi thay, quá nhiều bất trắc. Không
biết những nơi chốn xưa có c̣n như cũ nữa không? Biết bao là h́nh
ảnh, biết bao là câu hỏi cứ quẩn quanh….Tôi mua vé bay về Đà Nẵng,
t́m lại kỉ niệm xưa, đồng thời t́m lại người bạn thân yêu đă một
thời gắn bó.
Thành phố không c̣n như cũ nữa, nhiều đổi thay. Những dấu vết kỉ
niệm đă bị mất dấu. Tôi ngu ngơ giữa thành phố xa lạ. Chẳng gặp
người quen, chẳng t́m ra cảnh cũ.
Tôi lang thang quẩn quanh ở chợ Cồn, nơi ngă tư. Chỗ đó hồi xưa là
nơi thường ngày tôi qua. Ngày xưa, bên này là cây xăng, bên kia là
cư xá Đoàn Kết của quân đội, bên kia đường là nhà sách Văn Hóa, nơi
tôi thường mua sách. Xuống một chút là cà phê Xướng, nơi bán những
li cà phê đượm hương beurre Bretel và bánh ḿ thịt thơm nức mũi, ba
tôi thường ăn mỗi sáng. Đi qua đường rầy của đường Hùng Vương, có
xưởng vẽ của họa sĩ Trần Viết Hậu, người họa sĩ già mà ngày nào đi
học ngang qua, tôi cũng dừng chân đứng lại một chút để nh́n ông ta
vẽ, tôi mê hội họa từ những nét vẽ của ông. Tất cả biến mất, chẳng
c̣n dấu vết.
Tôi đi loanh quanh cả chục lần chốn cũ mà không t́m thấy chút h́nh
ảnh nào sót lại. Ở góc phố, tôi dừng lại mua gói thuốc. Ông già bán
thuốc tóc bạc chải mượt có khuôn mặt rất quen, quen lắm, nhưng tôi
vẫn chưa nhớ ra được. Tôi băng qua đường, đốt thuốc nh́n qua. Ông
già đốt thuốc hút, hai ngón tay cầm điếu thuốc hững hờ, điệu nghệ.
Nh́n h́nh ảnh đó, tự nhiên gợi tôi nhớ đến một người, tôi băng nhanh
qua đường, ôm lấy vai người bán thuốc: Thầy Thanh, Thầy Thanh, phải
Thầy không? Thầy nhớ con không?
Thầy Thanh ngỡ ngàng nh́n tôi, ngờ ngợ:
- Phải, tôi là Thanh đây, trước đây tôi có thời dạy học. Anh là ai mà biết tôi?
- Con là Ngọc. Ngọc con ông Đốc Kim, học tṛ của thầy hồi đó.
Thầy ôm vai tôi, ngấn nước mắt:
- Tôi nhớ ra rồi… Anh về hồi nào?...Trời ơi lâu quá rồi, lâu quá rồi…
Mấy chục năm rồi nhỉ? Phải hơn bốn chục năm rồi. Đúng không?
Tôi và thầy Thanh ngồi trong quán cà phê, nhắc hoài chuyện cũ. Nhắc
đến người đi, kẻ ở, kẻ mất người c̣n. Nhắc đến những đổi thay. Tôi
hỏi thầy có nhớ Nhân không, thầy bảo làm sao quên được người học tṛ
đặc biệt ấy. Thầy cho biết bây giờ Nhân khó khăn lắm, cũng khó gặp
v́ Nhân t́m đủ cách để tránh mọi người. Nghe như Nhân đạp xe ba gác
chở rau ở chợ Thanh Khê, đến đấy t́m chắc gặp. Thầy c̣n cho biết Hồ
Lê bây giờ làm chức lớn lắm, cũng có ghé Thầy mấy lần, có khi c̣n
tặng quà.
Tôi t́m về chợ Thanh Khê, hồi xưa đây là xóm chài ven biển, nghèo
lắm. Bây giờ nhà cửa cao ngất như phố thị. Lân la ở chợ, hỏi nhiều
người tôi t́m vào nhà Nhân men theo con đường nhỏ loằng ngoằn, sâu
trong mấy cánh đồng c̣n sót lại, nhà cửa thưa thớt, chung quanh toàn
rác rưởi. Căn nhà như cái lều, phía trước có khoảnh sân nhỏ, rào
thưa. Con chó gầy c̣m đang phơi nắng thấy người lạ cất tiếng sủa yếu
ớt. Sân vắng, tôi gọi măi không thấy ai. Một lát sau, một cái đầu bù
rối hiện ra nơi khung cửa cất tiếng ồm ồm: Hỏi ai? Tôi bảo: T́m
Nhân. Lại cái giọng ấy: Nhân đi vắng rồi.
Người đàn bà hiện ra, khuôn mặt lộ diện dưới ánh nắng. Một khuôn mặt
rất quen. Tôi nghĩ vẫn chưa ra. Tôi bảo: Khi nào th́ Nhân về. Tôi
đợi được không? Người đàn bà nh́n tôi trân trân. Khuôn mặt quen lắm.
Tôi vẫn chưa nhớ ra nổi khuôn mặt rất quen này. Tôi chào và đi ra
ngơ. Con chó lười biếng không tiếng sủa. Người đàn bà nh́n theo lẩm
bẩm chi đó không nghe được.
Tôi ngược ra đầu ngơ, ngồi ở quán bên đường, đợi Nhân.
Tôi đốt đến điếu thuốc thứ ba th́ trí nhớ vỡ oà. Đúng là chị Đầm rô.
Chị Đầm rô bán quán chè đậu rất ngon, giọng nói ồ ề. Chị Đầm rô dạy
tôi hút thuốc lá. Chị Đầm rô có ánh mắt ngưỡng mộ Nhân. Phải rồi.
Đúng là khuôn mặt của chị Đầm. Nhưng sao chị lại ở trong nhà của
Nhân?
Tôi không cách ǵ nhận ra Nhân. Nhân ngồi đó, trên chiếc ghế đẩu trơ
trọi giữa sân, trong ngôi nhà có khoảnh rào thưa, dưới chân có con
chó gầy g̣ quanh quẩn. Ly rượu cầm tay, miếng mồi chỉ là con cá khô
nhỏ và dĩa ớt trái đỏ rực. Không c̣n nét nào của Nhân ngày xưa. Đó
chỉ là lăo nông ngồi uống rượu buổi chiều. Những lọn tóc duyên dáng
cũ đâu mất rồi, chỉ c̣n một nhúm tóc lơ thơ lốm đốm bạc, bết lại nằm
lạc lơng trên vầng trán hói. Đôi môi đỏ cũng đă không c̣n, chỉ c̣n
lại một khóe miệng khinh bạc, thâm x́ và móm mém, hàm răng trống
rỗng khiến cho khuôn mặt như choắt lại. Da mặt b́ b́, thâm tái, men
mét của người mắc bệnh gan kinh niên. Những nếp nhăn dồn dập làm cho
khuôn mặt héo hon như trái táo tàu khô. Đôi mắt trũng, mờ tối, đầy
khói u ám. Đâu mất rồi ánh mắt sáng rực đầy sát khí của Nhân bốn
mươi năm trước. Siêu nhân đây ư? Tấm gương của nhiều bậc cha mẹ đây
sao? Niềm mơ ước của nhiều người !!! Chỉ c̣n lại là một tấm thân
tiều tụy và hom hem thảm sầu. Chắc chắn là không phải là sự tàn phá
của thời gian. Thời gian không thể xóa hết dấu vết của một con người
tàn nhẫn đến như thế. Chỉ có nỗi đau đớn của cuộc đời,tuyệt vọng,
tủi nhục, cay đắng và sự thất bại cùng cực mới làm cho một con người
đổ gục đến vậy. Nhân hoàn toàn mang h́nh dáng của một con người
khác.
Tôi ôm Nhân, những giọt nước mắt trào ra ướt mặt. Từ thân thể Nhân
bốc lên một mùi nằng nặng. Mùi chua của mồ hôi lâu ngày, mùi úng
thối của rau củ, mùi rượu trộn lẫn với mùi bụi đời đắng cay. Tôi lại
khóc. Tôi cầm lấy tay Nhân, bàn tay nhiều vết xước, màu da đen tái
lốm đốm mủ cây trái, những móng tay cũng đầy nhựa, nứt nẻ, nhiều vết
chai sần. Tôi nh́n xuống đôi chân của Nhân. Đôi chân cũng khẳng
khiu, sứt sẹo, đen x́, những chiếc móng đầy cáu ghét, đôi dép đứt
quai được buộc lại bằng sợi dây nhựa đỏ, đế ṃn vẹt.Lúc đầu Nhân
hững hờ ôm vai tôi, rồi bỗng siết chặt và người Nhân rung lên. Tôi
khóc như trẻ con. Bỗng Nhân buông tay và nói như mắng: Đụ mẹ, mày
vẫn như xưa, lúc nào cũng ẩm ướt.
Tôi lại thêm một ngạc nhiên, không những Nhân đổi thay h́nh dáng, mà
c̣n thay đổi luôn cách xưng hô, và biết chưởi thề. Suốt thời gian
dài quen biết nhau, chưa bao giờ chúng tôi xưng hô mày tao với nhau,
chỉ gọi nhau là cậu tớ, Tôi chưa một lần nghe Nhân buột miệng chưởi
ai. Tôi trố mắt nh́n Nhân, trời ơi, Nhân ngày xưa đă chết thật rồi.
Biết đổ lỗi cho ai đây, hoàn cảnh, cuộc đời hay thời thế. Hay là đổ
cho số phận.
Tôi ở lại với Nhân ba ngày c̣n lại của chuyến đi. Ban ngày hai đứa
lang thang với những chốn kỷ niệm cũ, lê la các hang quán. Đêm về,
hai đứa kể nhau nghe những chuyện của đời nhau, những chuyện đời
buồn nhiều hơn vui. Tôi mua sắm nhiều vật dụng cần thiết của cuộc
sống, chị Đầm rất vui khi nhận những món quà này, riêng Nhân vẫn
dửng dưng…
7.
Hồi đó, cuối năm 1976, Nhân vội vă trở về Đà Nẵng để trốn lệnh truy
nă. Chuyến đi kéo dài hơn tuần lễ. Đón xe dọc đường từng chặng, có
khi đi bộ suốt buổi. Suốt đoạn đường cũng chẳng có chuyện ǵ. Nhưng
hôm từ B́nh Định về Quảng Ngăi, sau một bữa nhậu say quắc cần câu
với cánh tài xế, sang hôm sau khi tỉnh rượu, Nhân thấy ḿnh nằm ở vệ
đường ở Mộ Đức, tiền bạc trong túi bị tước hết. Hai tên tài xế cho
Nhân đi nhờ biến đâu mất. Cũng may, Nhân đă chia nhỏ bó tiền, để mỗi
nơi một chút, nhờ vậy, cũng c̣n chút tiền dấu trong đôi giày, dù
không nhiều lắm. Đến Đà Nẵng nửa đêm, căn nhà cũ của gia đ́nh nay đă
biến thành cơ quan của chính quyền mới. Lang thang suốt đêm, thấy
ḿnh như kẻ xa lạ ở một thành phố khác. Lân la quán cà phê gần ngôi
nhà cũ từ tờ mờ sớm, Nhân biết được gia đ́nh ḿnh đang ở trong một
con kiệt nhỏ cuối đường Hoàng Diệu, gần đường rầy xe lửa. Ngôi nhà
ngày xưa đă bị trưng dụng từ khi cách mạng về, ba Nhân nhờ ngày
trước có tham gia kháng chiến chống Pháp, trước 75 cũng có thành
tích nuôi dấu cán bộ ǵ đó, nên không bị đi học tập cải tạo, nhưng
không được sử dụng.
Nhân vừa bước vào ngơ, ba Nhân đă nhận ra ngay. Ông cuống quit ôm
lấy Nhân, miệng cứ lập lại măi một câu hỏi: Về lúc nào? Sao lại về?
Về lúc nào? Hành lí đâu? Nhân cũng ôm lấy cha, nước mắt giàn giụa:
Ba ngồi xuống đây nghe con nói, ba ngồi xuống đi. Nhân qú dưới đất,
lạy mấy lạy. cứ lập đi lập lại: Ba ơi, con bất hiếu không làm được
ước nguyện của ba rồi,,rồi lại lạy. Ông Đốc ngồi sững sờ, mang máng
hiểu đă có một tai họa tày trời. Niềm tin của ông, lẽ sống của ông.
Sao lại thế này? Nhân vừa khóc, vừa lạy, vừa kể hết mọi chuyện. Lâu
lâu lại nấc lên, nước mắt đầy mặt. Ông Đốc có cảm giác như ngàn lưỡi
dao đâm vô ngực, xoáy mạnh. Tai lùng bùng, trái tim như đang có bàn
tay ai bóp nghẹt. Đầu óc choáng váng, trái đất như sụp dưới chân
ông, ông thấy khó thở, trước mặt chỉ là một khoảng tối vô tận. Nhân
kể lể không biết bao lâu, không thấy ông Đốc động tĩnh ǵ. Nhân
ngước lên, nắm lấy tay cha. Anh hoảng hốt như diện giật, tay ông Kim
lạnh ngắt như nước đá, cứng đờ. Nhân hốt hoảng ngồi lên, nh́n thấy
khuôn mặt trắng bệt, hai mắt mở trừng trừng của ba ḿnh, anh hét
lên: Ba ơi, con giết ba rồi, ba ơi!!! Ông Đốc đă tắt thở từ lúc nào,
mặt đanh lại, hai mắt vẫn mở, hai hàm răng nghiến chặt, giận dữ.
Đám ma diễn ra lạnh lẽo, chỉ c̣n hai anh em: Nhân và cô em gái. Cô
em kế Nhân bị bệnh thần kinh không biết lang thang ở đâu mà bị cưỡng
hiếp có bầu, rồi băng huyết lúc sinh, chết hồi đầu năm. Đứa em bị
bệnh down th́ mất tích trong những ngày chộn rộn cuối tháng ba năm
bảy lăm. Thằng em trai kế Nhân nghe nói đi bộ đội đóng ở Tây Ninh,
nhưng chẳng có địa chỉ liên lạc. Hôm đưa đám trời lại mưa suốt buổi,
hai anh em mặc áo xô, chống gậy trông thảm thiết giữa đồng trống.
Nhân không khóc, nhưng hai mắt đỏ ngầu.
Đám tang xong xuôi, Nhân đi t́m Dạ Lan. Gia đ́nh Dạ Lan cũng lâm vào
bi kịch. Hôm Dạ Lan về Huế thăm bà ngoại, gia đ́nh ông Bửu Hân tổ
chức vượt biên. Hai vợ chồng và cậu con trai bị băo tố d́m xác xuống
đáy biển, chuyến đi đó chỉ có mấy người được tàu lớn cứu thoát, tạm
ngụ ở Hồng Kông. Nhà bị tịch thu v́ tội phản quốc. Dạ Lan xin được ở
lại trong căn pḥng nhỏ dành cho người giúp việc ở góc sân cùng với
cây đàn piano. Không biết v́ lí do nào, những người phụ trách cũng
chấp nhận.
Nhân nhiều lần t́m đến chỗ ở của Dạ Lan, nhưng nàng không tiếp, cứ
trốn tránh măi. Sau cùng, hai người gặp mặt nhau, Dạ Lan cho biết
nàng đang mang thai, nhưng không cho biết cha đứa bé là ai. Sững sờ.
Nhưng Nhân chấp nhận tất cả, chỉ mong ước được sống cùng nhau. Nhân
cũng không t́m hiểu ai là cha đứa bé…Sau này, Nhân mới biết rằng cái
bào thai là kết quả của cuộc trao đổi để nàng được ở lại căn pḥng
nhỏ đó cùng với cây đàn.
Và hai người đồng ư chung sống, không lễ cưới, không hôn thú, trong
căn pḥng chật hẹp dưới gốc cây ngọc lan, kết cục một cuộc t́nh như
thế cũng là một đoạn kết đẹp v́ lúc bấy giờ là thời kỳ loạn lạc,
nhiều bất trắc.
Nhưng cuộc sống không phải chỉ có t́nh yêu là đủ. Nhân không t́m đâu
được việc làm, v́ cũng chẳng có giấy tờ chứng minh năng lực, lí lịch
lại mù mờ mà cũng v́ thời bấy giờ phải có mối quan hệ nhất định nào
đó mới có thể kiếm được việc.. Loay hoay măi với cơm áo, cuộc sống
gia đ́nh bắt đầu thiếu vắng tiếng cười. Lương cô giáo của Dạ Lan với
tiêu chuẩn mười ba kí gạo bây giờ phải chia ra cho hai người, những
bữa cơm toàn độn sắn khoai với bo bo, canh rau và cá hẩm
Mùa đông năm đó, Dạ Lan bị tai nạn xe cộ lúc đi dạy học về, chiếc xe
đạp cong niềng, găy phuộc. Dạ Lan chỉ bị trầy sướt nhưng lại bị hư
thai, máu nhuộm đỏ phần dưới cơ thể. Không biết kiếm đâu ra tiền,
Nhân đành bán chiếc piano lấy chỉ vàng lo thuốc men cho vợ. Ở bệnh
viện về, biết chiếc đàn đă bị bán, Dạ Lan im lặng suốt cả tháng,
chẳng hé một câu nào. Nhân thấy ḿnh có lỗi, và Nhân nhớ dự định của
ḿnh khi bước đầu du học, sẽ mua cho Dạ Lan chiếc đàn piano tốt nhất
lúc tốt nghiệp trở về.. Dự định không thực hiện được lại đem bán
chiếc đàn kỉ niệm của Dạ Lan. Nhân cảm thấy ḿnh hèn hạ và bất lực.
Thời ḱ này, người ta rủ nhau đi săn trầm, kiếm được rất khá. Trước
bức bách của đời sống và nỗi buồn khó nguôi của Dạ Lan, Nhân quyết
định vào núi t́m trầm, mong đổi đời, hi vọng sẽ mua lại đền cho vợ
chiếc đàn khác.
Rừng rú bao la, ngậm ngăi t́m trầm, những chuyến đi nhiều khi kéo
dài cả mấy tuần. Cả bọn sống như dân du mục, đến đâu dựng lều trại ở
đó. T́m trầm là công việc chẳng dễ dàng ǵ, mưa gió, rắn rít, thú
dữ...tất cả đều đáng sợ, có thể chấm dứt đời người bất cứ lúc nào.
Nhưng đáng sợ hơn cả là con người. Lo nhất là lúc ăn được trầm, đó
là thời gian sinh tử, phải rời rừng ngay bất cứ giá nào, nếu muốn
c̣n sống để trở về. Chỉ cần một phát đạn, hay chỉ là một nhát dao,
một cú đâm từ sau lưng, số trầm vừa kiếm được sẽ không c̣n và tính
mạng sẽ bị định đoạt. Sống như kẻ du mục và cư xử như những kẻ du
thủ. Nhân ḥa ḿnh vào thế giới đó, và trở thành thủ lănh một nhóm
ba người. Suốt mấy tháng gần như kiệt sức và cũng chẳng c̣n bao
nhiêu vốn liếng, trầm vẫn là những giấc mơ. Cả bọn quyết định đi sâu
vào rừng nguyên sinh, giáp ranh với vùng Tây nguyên. Trúng đậm. Có
cả kỳ nam. Chuyến này sẽ đổi đời. Ba người run rẩy gói ghém, rời
rừng. Mưa như trút. Mỗi người một ba lô đầy căng trầm và kỳ nam.
Trời nhá nhem, sấm sét xé trời, đi ngang qua một đường ṃn, dưới là
vực sâu thăm thẳm. Một nhóm cướp xuất hiện như từ dưới đất mọc lên.
Tiếng nổ đầu tiên hạ gục ngay người đi đầu, xác rơi xuống vực cùng
chiếc ba lô. Nhân hét như sấm, băng lên, nhắm vào thằng đầu đàn đang
cầm súng, một cú song phi, tên cướp ngă ngửa, súng văng ra. Nhân
nhanh chân đạp ngay báng súng, bật lên, cây súng nằm trong tay như
một ánh chớp. Anh lên đạn, bắn chỉ thiên nguyên một tràng. Bọn cướp
lóp ngóp bỏ chạy.
Hai người chạy dưới mưa, băng qua con suối tràn nước. H́nh như lũ
về. Những thác nước trắng xóa ào ạt. Nhân và người đồng hành lóp
ngóp bơi qua con suối. Nước dữ dội, cuốn phăng phăng. Cả hai mệt lử.
Ranh giới sống chết. Đang cố chống trả ḍng nước cuồn cuộn, Nhân
nghe tiếng kêu thảm thiết của người bạn. Anh quay lại, nước đang kéo
người bạn xa dần. Nhân cố bương tới, nắm được tay trơn tuột. Anh bạn
sợ hăi, run rẫy, lắp bắp: Cứu tôi..Cứu tôi. Lại tuột tay, Nhân cố
bơi tới, anh bạn buông ḿnh xuôi ḍng nước, chiếc ba lô của anh ta
rời khỏi người trôi băng băng. Anh ta cố với theo nhưng không kịp.
Nhân cố vượt lên, nắm được tay bạn, gh́ hết sức kéo lại. Lại một đợt
nước ào ạt, chiếc ba lô của Nhân tuột khỏi vai, trôi theo ḍng nước
dữ. Không tiếc, phải sống đă. Cố lên, gắng lên. Nước lũ đang về,
những tiếng ầm ầm như sấm động. Nhân ôm bạn, cố vươn lên. Đến bờ,
lại tuôn chạy trốn lũ. Người bạn như cái xác không hồn, líu díu chạy
theo Nhân. Mưa rát mặt. Những cành cây quất vào thân thể. Cứ bương
tới. Bương tới. Để sống.
Cả hai chạy ra tới b́a rừng, bên kia là quốc lộ. Sống rồi. Hai người
ôm lấy nhau, nước mắt ḥa nước mưa. Lại trắng tay.
Đón được một chiếc xe của bộ đội sau khi ăn hai tô phở lớn ngút khói
ở quán phở bên đường. Nhân thấy khỏe hơn và lúc đó anh mới thấy tiếc
cái ba lô kỳ nam vừa mất. Một gia tài đă tuột khỏi tay. Ngồi trên xe
dưới cơn mưa tầm tă, Nhân nhớ Dạ Lan đến cồn cào. Anh h́nh dung thân
thể trắng ngà, thơm tho của vợ. Anh nhớ tiếng rên như mèo kêu của
nàng khi cả hai lên đến đỉnh của yêu đương. Mái tóc dài xơa trên nền
drap trắng. Nỗi nhớ xôn xao trong dạ, anh mong về mau để được ôm
nàng trong ṿng tay với những lời yêu thương.
Nửa đêm Nhân mới về đến căn nhà nhỏ dưới cây ngọc lan. Phố vắng
tanh. Mưa vẫn ào ạt. Anh đội mưa đi về, định tạo một sự ngạc nhiên
cho Dạ Lan. Căn pḥng đèn mờ sáng. Cửa chỉ khép hờ. Anh nhẹ nhàng
đẩy cửa. Anh sững người. Dưới ánh đèn mờ ảo, trên giường, những
khoảng trắng da thịt loang loáng theo nhịp. Tiếng thở của người đàn
ông, tiếng rên như mèo kêu của người đàn bà. Khốn nạn. Máu Nhân như
đông cứng lại. Tim muốn vỡ ra. Hai bàn tay bỗng nắm chặt, gồng lên
chuẩn bị một cú đấm. Đôi chân muốn vọng động. Chỉ một cú tấn công,
sẽ có người chết. Bỗng Nhân run rẩy như người mắc kinh phong, cả
thân người giật không kiểm soát được. Những giọt nước mưa từ người
anh đọng vũng trên sàn nhà. Đầu anh bỗng nhức như muốn vỡ ra. Tim
loạn nhịp. Anh lặng lẽ đi ra, ngồi dưới gốc ngọc lan, mưa vẫn xối
trên người anh. Nhân thấy ḿnh bất lực, tự khinh ḿnh. Anh chẳng
trách ai cả. Chẳng qua cũng bởi tại anh, v́ anh chẳng làm tṛn trách
nhiệm của một người chồng. Anh chỉ mang lại những nỗi đau. Nhân ngồi
như bức tượng suốt đêm.
Trời gần sáng, chân trời sáng lên một vệt mờ. Có tiếng kẹt cửa,
người đàn ông len lén đi ra, lặng lẽ đi về cuối phố. Nhân chẳng cần
biết đó là ai. Chỉ biết đó là người đàn ông đă ngủ với vợ ḿnh suốt
đêm qua. Từng đó cũng đă đủ.
Trời sáng hẳn. Dạ Lan mở cửa, dắt xe ra. Nàng quay lại khóa cửa th́
nh́n thấy Nhân. Thoáng một chút hoảng hốt. Nàng cất tiếng:
- Anh về hồi nào mà không vào nhà? Sao lại ngồi dầm mưa thế này?
- Về hồi hôm. Không vào v́ căn nhà này không c̣n chỗ cho tôi nữa rồi.
Dạ Lan tái mặt, người như muốn ngă, nàng níu cánh cửa, hoảng hốt,
lắp bắp. Chiếc xe ngă chổng chơ bên thềm. Không chờ câu nói tiếp của
Dạ Lan, Nhân lẳng lặng đi nhanh ra đường. Phố bắt đầu một ngày mới.
Anh bước mà chẳng biết đi đâu. Cả ngày hôm đó, Nhân say khướt. Mấy
hôm sau anh rời thành phố, lại đi vào núi. Gần nửa năm sau, Nhân mới
lại về.
Lần này trở về, Nhân định sẽ quên hết, sẽ sống lại với Dạ Lan, làm
lại một chương mới. Quên tất cả. Nhưng, Dạ Lan đă không c̣n nữa.
Một tuần lễ sau khi Nhân bỏ đi, không thấy Dạ Lan đến lớp, nhà
trường đến t́m nàng th́ phát hiện Dạ Lan đă treo cổ tự sát. Nàng mặc
chiếc áo màu tím than, cổ quấn chiếc khăn quàng màu tím nhạt, di đôi
guốc cao cũng màu tím. Dây treo cổ siết làm cho lưỡi nàng thè ra,
khuôn mặt cũng tím rịm.
Từ hôm đó, thành phố thêm một người điên. Nhân lang thang bờ bụi,
lúc nào cũng say khướt, Áo quần càng ngày càng rách bươm, hôi hám,
tóc tai bù xù, dơ bẩn. Ban ngày Nhân thường đi dọc biển, lượm những
cành cây khô, bẻ nhỏ mang đến tiệm bán trầm hương, đ̣i bán với giá
cao, khi người ta bảo không mua, đuổi đi, Nhân chưởi một tràng tiếng
Pháp và bắt đầu xổ tiếng Tây giờ này qua giờ nọ, không ai hiểu. Đêm
đến, anh múa vơ trên hè phố, miệng lẩm bẩm tên Dạ Lan. Anh khóc cười
vô chừng như mưa nắng. Anh sống trong một thế giới khác. Những người
trước đây biết tài năng của Nhân, chỉ biết chép miệng lắc đầu,
thương cho một số phận. Lúc đầu, bên công an nghi Nhân giả điên với
mục đích mờ ám chính trị nào đó, nhưng rồi sau một thời gian thẩm
vấn và theo dơi, chẳng thu thập được ǵ. Nhân sống như vậy gần hai
năm dài, rồi bỗng dưng thành phố vắng bóng người thanh niên điên
loạn nói toàn tiếng Pháp.
Nhân lại đi vào núi, đến Bồng Miêu rồi qua Phước Sơn đào vàng. Ở đâu
anh cũng trở thành đại ca v́ thế giới của những kẻ săn vàng là thế
giới của bạo lực, giết nhau như cơm bữa, mà Nhân th́ vơ nghệ cao
cường, nên đắc dụng trong cái thế giới máu và vàng đó. Hơn nữa, sau
những biến cố của cuộc đời, Nhân bất cần thân thể, liều lĩnh và tàn
nhẫn. Những đặc tính đó ở chốn giang hồ không xanh cỏ sớm th́ chỉ là
lănh chúa.
Nhân bắt đầu giàu có, những miếng vàng đào được biến Nhân thành một
đại gia, tiêu tiền như rác. Anh về phố, mua một chiếc đàn piano mới
cứng, thuê xe chở đến mộ Dạ Lan, ngồi suốt ngày độc thoại với cỏ
cây, giun dế. Khi hoàng hôn xuống, anh đốt chiếc đàn. Lửa cháy rừng
rực sáng một góc nghĩa trang.
Trong một lần nhậu ở quán bên biển Mỹ Khê, sau khi đă chếnh choáng
th́ anh nghe ở bàn bên đang nói về anh. Một tay anh chị chắc cũng đă
xỉn, nói với mọi người: Đụ mẹ, tưởng đi Tây đi Mỹ về làm ông này
bà nọ, cuối cùng cũng chỉ là một thằng đi mót vàng. Lại thêm giết
cha, giết vợ. Nhân loạng quạng bước qua, chỉ vào mặt tên đó và
bảo: Đụ mẹ mày là thằng nào mà dám trêu ông, mày vừa bảo ǵ, nhắc
lại xem nào. Thằng kia cũng chẳng phải tay vừa. đứng lên hùng
hổ, nói chưa hết câu đă ngă vật ra giẫy đành đạch. Nhân vung tay một
cú atémi chặt vào gáy của địch thủ. Hắn chết ngay sau mấy cái giẫy.
Cả quán xôn xao, đứng cả lên. Nhân lừng khừng bước ra quán, xiêu vẹo
trên đường. Tay chủ quán bắt vào mạch của nạn nhân, hét lớn: Nó
chết rồi, bắt cái thằng giết người lại. Ai cũng la hét nhưng
chẳng ai có một hành động cụ thể nào. Nhân bước ra ngơ, đi đến đồn
công an bên kia đường, tự thú. Án giết người, ṭa xử 15 năm. Ở tù
trên rừng, lao động đúng 9 năm th́ Nhân được đặc xá. Tiều tụy trở về
thành phố, Nhân chưa biết ḿnh sẽ sống như thế nào th́ cơn sốt rét
ác tính quật ngă anh. Anh bất tỉnh bên vệ đường. Người đi đường mang
anh vào nhà thương, anh mê man suốt mấy ngày, thân thể như cái xác
ve, không một người thân chăm sóc.
Số mệnh đẩy đưa, hôm đó chị Đầm vào bệnh viện thăm người quen. Đi
t́m pḥng, trời xui đất khiến thế nào mà chị nh́n ra Nhân đang thoi
thóp trên giường bệnh. Chị ở lại chăm sóc cho Nhân mấy tháng ṛng,
lúc xuất viện chị đưa Nhân về nhà ḿnh, tiếp tục lo miếng ăn, giấc
ngủ cho Nhân. Và rồi họ sống như vợ chồng. Lúc trước chị Đầm ở bàu
Thạc Gián, bán rau ở chợ Cồn, sau đó khu bàu bị quy hoạch, được đền
bù được ít tiền th́ chị gặp Nhân, lo thuốc thang cho Nhân, c̣n lại
một ít, hai vợ chồng mua khoảnh đất ở Thanh Khê. Vợ bán rau c̣n
chồng chạy xe ba gác, sống tạm cho xong một đời gần mười mấy năm
nay, loay hoay măi mà không đủ đút lỗ miệng.
Tôi, Nhân và thầy Thanh ngồi uống cà phê ở Bạch Đằng. Điện thoại của
thầy Thanh reo, thầy bảo đến đi, đến đi, có Ngọc ngồi với Nhân, đến
cho vui nhé. Tôi hỏi ai vậy, thầy bảo: Hồ Lê, Hồ Lê bữa trước gặp
tôi có nói là khi nào ngồi với mấy anh th́ bảo Lê ra cho vui.
Hồ Lê đến, vẫn to cao lừng lững, trông c̣n khỏe hơn xưa. Hắn mang
vợt tennis, giày Adidas, áo thun cá sấu trắng kẻ sọc, nh́n như tài
tử. Sau lưng hắn có hai thanh niên trẻ, đi kè kè, chắc là bảo vệ.
Vừa bắt tay tôi hắn đă hất hàm: Chào. Lúc này mày c̣n sợ tao không.
Tôi buột miệng; Sợ gấp đôi ngày xưa. Hắn cười cười: Sao vậy? Tôi
tiếp liền, sợ sẽ không dám nói nếu ngần ngừ: Ngày xưa tao sợ mày v́
mày có sức mạnh, bây giờ mày vừa vẫn có sức mạnh lại thêm quyền lực,
sợ gấp đôi là phải rồi. Thầy Thanh giảng ḥa: Anh em bạn cũ gặp
nhau, mừng vui đi, hằm hè nhau làm ǵ hè. Tôi chợt nhớ ngày xưa tôi
hay chưởi thầm nó và tự bảo anh hung mười năm trả thù chưa muộn. Bây
giờ đă bốn mươi năm trôi qua, tôi vẫn là thằng dưới cơ.
Nhân bỗng lên tiếng: Mày biết ngày xưa tại sao thằng Hồ Lê ghét tụi
ḿnh không? Tôi chưa kịp trả lời th́ hắn nói luôn: Ngày trước hắn
thèm cuộc sống của chúng ta mà không có được nên ganh tỵ. Bây giờ
hắn có điều kiện, mày thấy không, hắn đang tập tành sống như ngày
xưa cha ông chúng ta đă sống, ăn chơi, nhậu nhẹt, đánh gôn, chơi
tennis, thế thôi.
Thầy Thanh xua tay: Thôi mà, cay cú nhau làm chi, vui với nhau đi.
Hồ Lê im lặng, chẳng trả lời. Hắn đang nghĩ ǵ nhỉ?
Bữa cuối ở Đà Nẵng, tôi đi mua cho Nhân đôi săng đan, hắn bảo mua
dép nhựa dễ đi hơn, nhưng tôi nói thay đổi tư duy cho đời khá hơn
đi, mang dép da vẫn tốt hơn chứ. Hắn cười: Đụ mẹ, đương nhiên da
phải hơn nhựa rồi.Tôi rút hết tiền tiết kiệm được 37 triệu, tôi đưa
hết cho vợ chồng Nhân. Chị Đầm cầm tiền cứ khóc măi, cám ơn tôi
hoài. Tôi bảo với chị:
- Đây là tiền của Nhân, tôi gởi lại cho Nhân chứ không có ơn huệ ǵtrong sự việc này, chị đừng bận tâm. Sau này, cần ǵ cứ bảo tôi, tuy cũng chẳng giàu có ǵ nhưng tôi với Nhân là hai anh em, phải biết giúp nhau chứ.
Hôm tiễn tôi ra phi trường, chị Đầm khóc và Nhân cũng rơm rớm nước
khi ôm tôi.
8.
Tôi về Sài G̣n được nửa tháng th́ chị Đầm điện thoại cho tôi. Bữa đó
trời mưa, nghe tiếng được tiếng mất v́ chị khóc nhiều hơn nói. Đại
khái là Nhân đă bị tai nạn, xe lửa cán nát đôi chân của Nhân, không
biết có qua nổi không?
Gần Tết Nguyên Đán, mua vé quá khó khăn, tôi phải chầu chực hai hôm
ở phi trường mới kiếm được cái vé bay ra.
Nhân nằm đó, hai chân đă cưa đến bẹn, băng trắng cả phần dưới. Người
hắn teo tóp, xanh mướt. Hắn cầm tay tôi, rưng rưng. Đôi săng đan mới
mua để trên đầu giường. Nhân bảo: Ḿnh để nó ở đây để nhớ đến cậu,
cậu bảo ḿnh trong năm tháng c̣n lại gắng bước qua số phận, ḿnh
cũng muốn bước qua, nhưng giờ c̣n chân đâu nữa mà bước, hở Ngọc.
C’est bien! Tôi khóc và ngạc nhiên v́ thấy Nhân đă xưng hô như xưa,
như cái thuở chúng tôi là những thanh niên với tương lai rộng mở. Và
kiểu nói “C’est bien” làm tôi nhớ đến Andre Gide, năm 1951 lúc sắp
từ trần, cũng bảo “C’est bien”, và nhà triết học Kant cũng thế, lúc
sắp ĺa đời cũng buột miệng: “Es ist gut”. Có phải là điềm gở chăng.
Hay là suy nghĩ của các thiên tài đối với cuộc đời điên dại này. Với
tôi, Nhân cũng là một thiên tài, nhưng là thiên tài mắc đọa.
Chị Đầm kể hôm trước đi chở rau ở chợ về, ngang qua đường rầy xe
lửa. Có hai mẹ con đang băng qua đường rầy khi xe lửa đang ầm ầm
chạy tới. Mọi người la oai oái, không biết phải làm ǵ. Nhân bay từ
chiếc xe ba gác, đẩy hai mẹ con ngă sấp phí bên kia, và Nhân kẹt đôi
chân trên đường rầy, những bánh xe lửa nghiến qua, nát bét. Chị lại
khóc và lo lắng. Tôi biết chị thương Nhân lắm. Thương từ khi Nhân ở
đỉnh cao cũng như lúc Nhân ở vực sâu.
Có hai cô nhà báo và anh chàng quay phim của Đài Truyền h́nh vào
phỏng vấn Nhân. Nhân được trở thành gương người tốt việc tốt. Nhân
cầm bằng khen và bao thư, cô nhà báo giương máy ảnh cứ hét lên: Cười
đi, cười đi..1..2..3.. chụp nè. Máy quay phim chạy sè sè. Mặt Nhân
nhăn nhúm v́ đau đớn. Chị Đầm thảng thốt lo âu.
Hôm ngồi trên máy bay về lại Sài G̣n, đọc trên báo thấy h́nh của
Nhân, nụ cười như đang khóc.
Sài g̣n, tháng 3.2011
ĐỖ DUY NGỌC
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại