ĐINH LÂM THANH
Tôi yêu Trạch Gầm cả Thơ lẫn con Người. Những gì anh viết, chính là
niềm đau của một người lính phải tức tưởi buông súng đầu hàng, chính
là uất hận của một kẻ phải bỏ nước ra đi sau những năm tháng tù đày
và cũng chính là nỗi xót xa đối với đồng đội đã một thời gắn bó với
anh. Tôi yêu con người, vì anh thật xứng đáng một cấp chỉ huy, tuy
sống dưới chế độ tự do nhưng không bao giờ anh quên những người bạn
sống chết với nhau đã nằm xuống hay còn kẹt lại ở quê nhà. Đời binh
nghiệp của anh thật khiêm nhượng với vài ba ‘mai vàng’ dừng lại trên
vai, nhưng trong lồng ngực của anh, mãi mãi là một trái tim vĩ đại
mà anh đã trân trọng dành cho đồng đội đã hy sinh cho màu cờ tổ quốc
và những phế nhân còn sống sót dưới chế độ cộng sản. Anh xứng đáng
ngửng mặt lên khi nhìn lại những cấp chỉ huy lớn, những ‘vì sao’ đã
rụng xuống ‘boong’ tàu của hạm đội Mỹ trước giờ mất nước ! Rồi 34
năm nay họ đã làm được gì cho đồng đội, thương binh, cô nhi quả phụ
cũng như cho quê hương và dân tộc ? Và cứ mỗi năm, vẫn áo mũ chỉnh
tề nhắc lại chiến công một thời vang bóng. Nhưng có mấy vị nhớ đến
thuộc cấp của mình là những người đã hy sinh xương máu để đem lại
những huy chương hiển hách trước ngực cũng như những ngôi sao lấp
lánh trên cổ áo !
Nhắc đến Trạch Gầm là nói đến con người của tình cảm, luôn nặng tình
với quê hương, ray rứt cho cuộc chiến và ấm ức vì đầu hàng…tất cả
những trăn trở đó đều chất chứa trong thơ của anh. Đọc thơ Trạch Gầm
độc giả nhận ra ngay trong con người anh là một khối tình gắn bó
thiết tha với đồng đội, là ân sâu nghĩa nặng đối với bạn bè, là
những người đã nằm xuống hay bị lãng quên dưới chế độ cộng sản.
Cách đây hai năm, tôi gặp Trạch Gầm trong một ngày nắng ấm tại quán
café Tip-Top trên đường Westminster, Sàigòn nhỏ, Cali. Anh đọc cho
nghe bài thơ ‘Lời Trước Nghĩa Trang’. Chưa dứt bốn câu đầu, anh đã
bật khóc và làm tôi phải khóc theo trước ngạc nhiên của số thân hữu
bạn bè. Thật khó tưởng tượng nổi, hai người đàn ông 65 và 71 tuổi đã
khóc như một đứa trẻ khi nhắc đến những người bạn đã nằm xuống. Rồi
hình ảnh Trạch Gầm với những giọt nước mắt bên tách càfé vẫn ngày
đêm ám ảnh và gây xúc động mỗi khi tôi cầm cuốn Vụn Vặt trong tay.
Những lời thơ viết về tình đồng đội của anh đã kéo ký ức tôi trở lại
quảng đời dĩ vãng mà trong thời Mậu Thân 1968, tôi đã sống trọn vẹn
với những người lính thuộc trung đội tác chiến tại vùng rừng núi
Quảng Đức. Những người bạn nầy đã ra đi nhưng họ vẫn sống mãi bên
tôi và phù hộ cho tôi còn sót đến ngày hôm nay. Tôi xin mượn mấy câu
thơ của Trạch Gầm để tưởng niệm những người lính đã nằm xuống :
Tao sống đến ngày cuối cùng cuộc chiến
Được cái hơn mầy nhìn thấy đau thương
Đành làm người ngu đổ thừa vận nước
Uổng cả tháng ngày gối đá nằm sương
(Lời trước nghĩa trang)
Cũng từ bài thơ nầy Trạch Gầm gởi đến với những người đã nằm xuống
chân dung của anh trong những ngày tháng vô vị nơi quê người
Mầy đã hơn tao vì mầy đã chết
Hưởng chút lễ nghi hưởng chút ân cần
Có được người thân cho lời nuối tiếc
Còn tao bây giờ sống cũng như không
(Lời trước nghĩa trang)
Kỷ niệm để đời với Trạch Gầm là tuyển tập Vụn Vặt, cuốn thơ vừa lấy
từ nhà in chưa ráo mực, anh đã biếu tôi và từ ngày đó đến nay tôi
vẫn chưa đọc xong. Mỗi lần cầm cuốn thơ lên vừa nghiền ngẫm vài
giòng thì tôi bị cuốn vào tâm trạng của tác giả…đau buồn cho vận
nước, xót xa vì cuộc chiến và tiếc thương những người bất hạnh, rồi
nước mắt tôi cũng xóa mờ những giòng chữ. Đa số thi nhân thường mượn
các đề tài tình yêu nam nữ để tìm nguồn cảm hứng sáng tác nhưng trên
100 bài thơ trong tuyển tập Vụn Vặt, Trạch Gầm đã dành gần như đa số
bài để nói về những gắn bó về tình huynh đệ, tình cảm của người trai
thời chiến và để tưởng niệm đến đồng đội đã ra đi…
Những ai đã sống chết với đồng đội, đã cùng băng rừng lội suối, ngày
đêm truy lùng địch thì mới cảm thông được tình thương gắn bó với
nhau. Cuộc đời người lính chiến không có gì quý hơn ngoài chiếc ba
lô độc nhất trên người, tấm ‘pông-sô’ thay mái ấm gia đình và việc
kết nghĩa anh em đồng đội như tình thân ruột thịt. Họ là những người
trai thời chinh chiến, hiến dâng cuộc đời cho tổ quốc non sông,
thương tật, sống chết không biết sẽ đến bất chợt bao giờ. Đối với họ
trên đầu là tổ quốc, trước mặt là kẻ thù, hai bên là đồng đội và sau
lưng là chiếc ‘băng-ca’ hay cổ quan tài đang chờ sẵn ! Hãy nghe
Trạch Gầm viết về số mệnh :
Một thoáng theo mây rơi dài nước mắt
Khóc nỗi bạn bè…lưu lạc bốn phương
Thằng mất thằng còn - Nổi trôi vận nước
Giọt ngán giọt dài ướt đẫm quê hương
(Vụn Vặt)
Những ai đã qua đoạn đường gian khổ với những lúc hành quân, lội
sông, bằng rừng, vượt núi trong rét mướt, trong đói khát, trong gian
khổ, ngày đuổi giặc, chiếm mục tiêu, đêm ngủ ngồi ngay tại hố cá
nhân để chờ địch thì mới thấm thía được những cảnh :
‘Bi-đông’ nước bùn chia sẻ
Gói mì nhai vội chuyền tay
Chuyển nhau điếu thuốc cháy dở
Sống chết biết giờ nào hay
(Cho nhau, Thơ DinhLamThanh)
Để rồi từ đó những người con yêu quý khắp mọi nẻo đường đất nước đã
trở thành anh em ruột thịt một nhà. ‘Pông-sô’cùng ngủ, cơm chung nón
sắt, nước một bi-đông, miếng khô chia đôi thì việc đùm bọc sống chết
với nhau vẫn là một cái gì thiêng liêng của những người khoác chiếc
áo trận.
Em còn chia xẻ cùng anh
Nỗi xót xa tự ngọn ngành đau thương
Vẫy tay giã biệt chiến trường
Một ngày cũng đủ cô đơn suốt đời
(Hỏi)
Đối với bạn bè còn sống, Trach Gầm đã giải bày tâm sự về những năm
tháng nơi đất khách quê người :
Mầy hỏi tao bây giờ sống ra sao
Cơm áo tha phương có phải nghẹn ngào
Gần mười năm tù còn in trong trí
Hay…cháy rồi giữa đất rộng trời cao
… Tao gởi về mầy một trang giấy trắng
Thật lao đao mầy cứ tự vẽ vời
Nơi tha phương trăm hội đoàn yêu nước
Tao ngu ngơ…không biết khóc hay cười
(Trả lời)
Rồi những đêm mưa vùng Cali, anh trăn trở như hổ nhớ rừng :
Mầy nhìn mưa mầy nhớ gì không hở ?
Tao nhìn mưa tao cứ mãi nhớ rừng
Rừng của quê hương những ngày khói lửa
Tao, bao năm dài cặm cụi hành quân
Mầy nhìn mưa…mầy nhớ gì không nhỉ
Tao nhìn mưa…Tao nhớ quá bạn bè.
(Từ cơn mưa dài)
Và cái ‘đau’ của anh vẫn vây quanh cuộc sống :
Tao bây giờ không tiềm mua rượu uống
Mà vẫn say…say ngút với nỗi buồn
Nhìn thiên hạ tranh nhau quyền yêu nước
Mấy chục năm ròng - Nước vẫn tang thương !
(Nói với bạn bè)
Mầy có tin không quê hương đã mất
Giữa lúc bọn tao nguyên vẹn hình hài
Đâu thuở quân trường đâu thời huấn nhục
Để nhận lấy ngày khốn nạn hôm nay
Một lũ đàn anh tan hàng cuốn gói
Bỏ mặc bọn tao đứng khóc dưới cờ
Món nợ tang bồng bao giờ trả nổi
Mất cả sơn hà cứ tưởng như mơ
Giờ chẳng dám nhìn ngay vào mắt Mẹ
Cũng chẳng đủ lời tâm sự cùng Cha
Đành đến thăm mày những thằng đã chết
Ngày…quê hương còn lắm nỗi thiết tha
(Lời trước nghĩa trang)
Ít thấy anh đề cập đến tình yêu đôi lứa cũng như những mộng mơ tuổi
trẻ, mà nếu có, anh cũng mượn những mối tình vụn vặt để nói về thân
phận đau thương đất nước cũng như những mất mát thời chiến tranh :
Anh có mẹ gì đâu mà để tặng
Một món quà sinh nhật cho em
Gặp gỡ thôi…dăm ba lần thất hẹn
Còn nhớ ngày anh còn tỉnh…chưa điên
Là thằng lính cứ rày đây mai đó
Có nhớ thương, cũng đỏ mắt phố phường
Chiếc võng tòn teng ôm đời chinh chiến
Có em vật vờ đở bớt cô đơn
(Quà sinh nhật cho người yêu)
Viết về Trạch Gầm mà không nhắc đến những chữ Đ.M. trong thơ của anh
thì thật thiếu sót. Một vài người cho rằng nghe không được êm tai
qua hai bài thơ :
Đọc thơ mầy…
Đ. M, tao buồn muốn khóc
Tao chẳng còn là tao, tao chẳng nên người
Mấy chục năm rồi tao lạc lỏng chơi vơi
Dù trước đó
Tao có triệu anh em chung màu áo trận
Tàn cuộc chiến…
Hình hài tao nguyên vẹn
Mười năm tù xem tựa giấc chiêm bao
Tao còn tay còn chân. Còn nỗi tự hào
Chỉ tội cái…mang ước mơ lần lựa
Cứ chờ đọi Ai cho tao nhúm lửa
Nơi tha phương tao hốt toàn tro tàn
Tro bụi từ quá khứ vinh quang
Đến nỗi đầu óc tao ung què, tao chẳng hề hay biết
Đọc thơ mầy
Đ. M. tao buồn muốn chết
Nơi quê hương mầy hào khí ngút trời
Nơi tha phương…
Tao cũng có lắm người
Yêu nước thật thà, thật thà yêu nước
Rắn không đầu, mạnh thằng nào nấy thét
Ngày cứ tàn, đất nước cứ tan thương
Hai chữ tự do sấp ngữa đoạn trường…
Tao ôm chặt lội qua ngày khốn đốn
Mầy cần súng mà tao không có súng
Nỗi nghẹn ngao nầy mới chết mẹ tao
Cám ơn mầy
…Ừ thì cũng dù sao
Nhờ mầy thét Trăm hồn sông núi thức
(Đến cùng Nguyễn Cung Thương)
Những ai đã sống đời quân ngũ, sống chết với đồng đội thì mới cảm
nhận hai chữ Đ.M thoát ra từ miệng của người lính. Đối với người
Miền Nam, hai chữ nầy không có nghĩa là một câu chưởi thô tục mà
trong thân tình giữa bạn bè thường được xử dụng một cách thân
thương. Tôi còn nhớ rõ câu nói của một đệ tử cũng như người bạn,
người em theo sát tôi trong các cuộc hành quân. Một đêm trong rừng
Quãng Đức, anh vén tấm ‘pông-sô’ chui vào hỏi tôi :
- Đ.M. ông thầy húp canh không ?”
Tôi hỏi lại :
- Đ.M. canh gì đó mầy ?”
- Thì Đ.M ! Canh nước mưa với bột ngọt chớ có gì nữa !”
‘Ca’ (ly bằng nhôm của lính) canh nóng thật ngon, chỉ có nước mưa
pha với bột ngọt nhưng tôi thấy ấm bụng và cái mặn mà đang chạy vào
tim phổi ruột gan, không biết vì bột ngọt hay chữ Đ.M. thân thương
nằm trong chén canh của người lính !
Nhưng một trường hợp khác, Trạch Gầm lại xữ dụng hai chữ Đ.M, để
chưởi cha bọn cộng
sản. Tôi biết anh không còn ngôn ngữ nào để diễn tả nỗi uất hận
trong lòng, dù hai chữ Đ.M. nầy thật đúng nghĩa và hợp thời nhưng
vẫn chưa lột hết ý nghĩa để chưởi bọn bán nước cướp của, hại dân hại
nước, đem giang sơn bán cho Tàu cộng ! :
Đ.. má, cho tao chưởi mầy một tiếng
Đất của Ông Cha sao mầy cắt cho Tàu
Ngậm phải củ gì mà mầy cứng miệng
Đảng của mầy, chết mẹ… đảng tào lao
Chế độ mầy vài triệu tay cầm súng
Cầm súng làm gì… chẵng lẽ hiếp dân
Tao không tin lính lại hèn đến thế
Lại rụng rời … trước tai ách ngoại xâm
Mầy vỗ ngực. Anh hùng đầy trước ngỏ
Sao cứ luồn, cứ cúi, cứ van xin
Môi liền răng à thì ra vậy đó
Nó cạp mầy, mầy thin thít lặng thinh
Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước
Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu
Thân phận mầy cũng là Lê là Nguyễn
Hà cớ gì.... mầy hèn đến thế sao
Chuyện mầy làm Toàn Dân đau như thiến
Mầy chết rồi, tao nghĩ chẵng đất chôn
Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi
Cứ đà nầy... chết tiệt còn sướng hơn
Đàn gãy tai trâu.... xem chừng vô ích
Giờ mầy nghe tao chưởi còn hơn không.
(Cho tao chưởi mầy một tiếng)
Tôi tin rằng những độc giả nào đã đọc thơ Trạch Gầm cũng sẽ Yêu
Trạch Gầm như tôi vậy.
Paris, Tháng Tư Đen 2009
Nguôn http: www.hvhnvtd.com
==//==
ĐỌC ‘RÁNG CHỊU’ CỦA TRẠCH GẦM
* ĐINH LÂM THANH *
Đối với Trạch Gầm, chỉ có hai cái đáng quý và đáng nhớ trong đời anh
: Bạn và Rượu. Hai lãnh vực nầy tuy xa nhưng mà gần, vì uống rượu
thì phải có bạn mà gặp bạn thì cần phải có rượu ! Rượu và Bạn được
Trạch Gầm trang trọng nhận làm hành trang kể từ lúc anh bước chân
vào quân trường Thủ Đức, rồi theo chân anh trên khắp các nẽo đường
đất nước. Và cho đến ngày nay, đối với anh, vẫn còn là một cái gì
trang trọng và đáng quý nhất đời. Đọc ‘Vụn Vặt’ những người yêu thơ
Trạch Gầm sẽ cảm thông được thế nào là ‘tình huynh đệ’ của những ai
đã một thời chiến đấu bên nhau, cũng như để tưởng nhớ những chiến
hữu đã an nghỉ trong lòng đất hay đang còn lây lất dưới chế độ cộng
sản ‘Vụn Vặt’ là những kỷ niệm tình người, được Trạch Gầm dệt thành
thơ với lối gieo vần ân tình và giản dị.
Trạch Gầm dùng chữ ‘Vụn Vặt’ làm tựa đề cho tập thơ đầu tay, có lẽ
do bản tính khiêm tốn của anh, nhưng tôi cho đó những giòng thơ lớn
và chân tình phát xuất từ con tim…vì nó bộc lộ tấm lòng bao la của
anh đối với tình yêu quê hương, với bạn bè đồng đội, và cũng trong
đó, chính là nỗi uất ức của một người lính đã tức tưởi bỏ súng giữa
đường…
Hơn một năm sau anh cho xuất bản tập thơ thứ hai. Lần nầy Trạch Gầm
mượn hai chữ ‘Ráng Chịu’ để làm đề tài cho 85 bài thơ và 8 bản nhạc
do Quang Lăng, Nguyễn Hữu Tân, Hoa Sông Kiên, Quốc Anh và Yên Ly phổ
nhạc. Đặc biệt trong tập thơ nầy, nhiều bài anh viết từ năm 1966
(Tuổi Trẻ Bây Giờ Là Quê Hương), 1970 (Không Đề - Nói Với Người Tình
Tuổi Dưới 20 – Viết Từ Lai Khê)…không ngoài mục đích ca ngợi quê
hương đất nước, tình yêu thầm kín của tuổi thanh xuân đồng thời nói
lên cái thân phận con người trước và sau một cuộc chiến tương tàn.
Ta có một ngày…một ngày ngồi khóc
Ta có một ngày gãy đổ ước mơ
Mười năm lính tưởng đâu là sỏi đá
Ai có ngờ lại ngồi khóc như mưa
… …
Thân lính trận, nhận lịnh gì không nhận
Nhận lịnh đầu hàng…rời rã tai ương
Hồn chinh chiến chỉ còn trơ thân xác
Thân xác không hồn…điếng ngắt cô đơn
… …
Thôi chia tay, mà về đâu đã chứ
Mất hết cả rồi…mất dễ như chơi
Lịch sử sang trang…sang trang lịch sử
Mất cả vinh quang, mất cả ngậm ngùi
Mỗi lần nhắc đến quá khứ anh đều đề cập đến rượu và những người bạn
đã một thời cùng chia sẻ sống chết với nhau. Nhưng những ai quen
biết đều thấy tội nghiệp cho Trạch Gầm : Rượu lúc nào vẫn còn đó
nhưng anh chỉ được phép ngồi nhìn mà thôi :
Xin lỗi mầy, ừ tao xin lỗi
Một giọt bây giờ tao uống không vô
Cái gan tao đã thành gan phá lấu
Mầy không tin, cứ nhậu…ngon ơ !
Bốn câu thơ trên trong bài ‘Ngồi Nhìn Bạn Bè Uống Rượu’ mà Trạch Gầm
đã đọc cho tôi nghe lúc anh vừa viết xong, trong một đêm, khi hai
đứa nằm dài giữa salon tại nhà ở Anahem. Nghe đọc, tôi không can đảm
nhìn vào mắt anh, dù dưới ánh đèn đỏ trên bàn thờ Cụ Bà thân mẫu của
anh, tôi vẫn thấy những giọt nước mắt cứ theo lời thơ tuông xuống.
Tôi rùng mình và lòng bỗng dưng chùng lại. Những hình ảnh chia sẻ
‘ngụm rượu tình nghĩa’ với đồng đội trong những lúc ngồi chờ giặc
dưới giao thông hào đang hiện về trước mắt và làm tôi bật khóc…
Ngày xưa, mầy tới đâu, tao tới đó,
Nhắc lại à…mà nhắc lại làm chi
Mình rượt giặc, giặc rượt mình…tung tóe
Khi quay về lại chan chát…cụng ly
Ly mầy, ly tao, ly cho thằng chết
Thằng chết rồi mình uống thế được sao
Lính bọn mình toàn những tay hào kiệt
Xô lệch trời đất, xô lệch thương đau
Làm quan, nghèo, mình chơi bằng rượu đế
Lại cợt đùa uống nước mắt Quê Hương
Nước mắt Quê Hương, uống sao cho hết
Ngập núi, ngập rừng ngập cả gió sương
Đã chết rồi giờ tao lại muốn sống
Sống để nhìn chung cuộc một trò chơi
Mầy còn sức cứ mình ênh ngồi uống
Ly cuối, dành cho…thân phận ngậm ngùi.
Xong bài thơ, cả hai đều qua một đêm thức trắng trong tố ấm gà trống
nuôi con. Chúng tôi không nói gì thêm, yên lặng và buồn cho vận
nước, cho số phận con người cũng như cuộc đời nổi trôi của những kẻ
tha phương không có ngày về. Rồi những lần gặp gỡ tiếp theo, anh
không được phép uống nhưng ngồi nhìn bạn bè nâng ly, có thể cảnh nầy
giúp anh sống lại một thời sống chết với bạn bè đồng đội :
Uống đi mầy cứ làm thêm vài chén
Nhớ đừng say, còn nghĩ đến anh em
Những thằng bạn của một thời chinh chiến
Đổi mạng mình…để lấy sự bình yên
… …
Mầy nhắc trước hay là tao kể trước
Mỗi dấu giày mình khép một mùa xuân
Bù Đăng, Phó Bình, Suối Ngô, Xóm Được
Mười ngón tay, cứ mất từng thằng
Rồi giữa đường gãy cánh, bạn bè thất lạc nhau, kẻ vô tù, người ra
đi…
Súng trên tay bỏ xuống
Rõ ngu hơn người ngu
Rồi ôm nhau khóc lóc
Còn rủ nhau vô tù…
Hai chữ ‘Ráng Chịu’, có lẽ anh dùng để tự an ủi cái thân phận thiệt
thòi của tuổi trẻ trước vận nước đảo điên, trước cuộc chiến khốc
liệt hay để vỗ về những người bạn đã nằm xuống, chết gục trong tù,
chìm sâu dưới biển hay dở sống dở chết nơi đất khách quê người…rồi
hôm nay được gì hay chỉ còn lại những niềm đau bất tận :
Với Quê Hương, ta một đời ráng chịu
Người thương ta rồi…cũng ráng chịu theo
Lỡ yêu tính năm vài tuần…níu kéo
Chụp giựt không bằng mà vẫn cứ yêu
……
Ta vào lính, bài học đầu ráng chịu
Cứ thi hành, muốn khiếu nại, làm sau
Mỗi một mạng…đổi đuợc vài ba phút
Chiến trường đau, ngập lút, lút cả đầu
……
Cứ ráng chịu. Tin có ngày mai đẹp
Bỏ nụ cười người vào túi rong chơi
Ta xin cả những gì người thua thiệt
…đốt từng trang. Thắp sáng lại cuộc đời
Trang nhật ký người lại thêm nước mắt
Ráng chịu te tua, ráng chịu tận cùng
Bọn ta sống, sao Quê Hương lại mất
Xót xa nầy…còn ráng chịu nổi không
… …
Và ‘Ráng Chịu’ cũng có thể là một nuối tiếc những gì mà con tim thời
loạn hằng ước mơ nhưng phải buộc lòng giã vờ làm kẻ ngây-thơ-vô-tình
để chấp nhận khoác lên vai món nợ núi sông ! Rồi quả đất tròn, ước
mơ trở về nhưng cuộc đời đã rẽ làm đôi, đầu tóc đổi màu…thôi thì
đành ‘ráng chịu’ !
Hồi mới quen
Em bảo ta đừng bao giờ xin lỗi
Cắm đầu yêu thì làm gì nên tội…
Một trăm năm có rảnh phút nào đâu
Ta hẹn lung tung, hẹn lần hẹn lữa
Đời ta xuôi ta có lắm bạn bè
Những thằng bạn chia cả trời khói lửa
Chân đạp mòn cả vạn sơn khê…
Có lẽ vì thế mà anh đã vuột mất tình yêu…Cho đến một ngày :
Đêm ngồi nghe em hát
Rối bời sương Cali
Tóc thời gian bạc trắng
Em mang buồn…giấu đi
… …
Cứ hờn anh em nhé
Bằng gợi nhớ đau thương
Anh xa rời cuộc chiến
Như…một chuyện hoang đường
Rồi Trạch Gầm đành phải thú nhận :
Anh kể em nghe tháng ngày phiêu bạt
Đốt đuốc quạnh hiu, tìm kiếm mỏi mòn
Phân nửa mặn nồng lạc từ ký ức
Tặng cho cuộc đời…vượt suối trèo non
Cuộc sống nơi quê người và nguồn yêu thương duy nhất của anh, bây
giờ chính là :
Sáng vào trường…
Con ăn hamburger, hot dog
Chiều về nhà…
Con ăn rau luộc chấm tương
Ngồi cùng cha, con ngồi tận Quê Hương
Việt Nam mình…
Một ngày bỏ đi, một đời thương nhớ
Đất Mỹ tư do, cửa đời rộng mở
Con muốn hụt hơi…
Chạy tìm kiếm tương lai
Con đủ khôn ngoan, ôm trọn tháng ngày
Như lòng con…
Vẽ vời trăm điều mơ ước
Rau luộc chấm tương
Cha mong con còn nhớ được
Con có một đoạn đời…
Rất nghiệt ngã, rất đau thương
Đầu óc chết khô
Lúc con đứng giữa thiên đường
Cái thiên đường tối thui của bọn người cộng sản
Con đủ kiến thức chưa,
Hãy soi gương thân phận
Đổi được màu da không đổi được tâm hồn
Cũng thời gian nầy, con cười
Nhưng tại Quê Hương,
Việt Nam mình, bằng tuổi con…
Có triệu người đang khóc
Cha không giải bày, nhưng con hiểu được
Ai bạn, ai thù, ai mở cửa lầm than
Tại sao cha con mình…
Thành những kẻ lưu vong
Xếp tập thơ lại vì cảm thấy đôi mắt hơi cay. Trước mắt tôi, Trạch
Gầm với cái điếu cày mà giờ đây anh xem như bình rượu để an ủi trong
những ngày còn lại. Đặt ‘Ráng Chịu’ lên ngực và cố dỗ giấc ngủ nhưng
những lời thơ của anh vẫn ám ảnh tôi như muôn ngàn tiếng thở dài của
người lính bị buộc phải buông súng giữa đường một cách nhục nhã.
Đinh Lâm Thanh
Paris, 14.01.2010
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện tình trái
ngang
Khối diễn hành
Bãi tập
Lễ mãn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
Tình Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
Vì hai chữ Tự Do
Nghìn trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào lòng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển bão tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vuì quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giã từ
vũ khí
Mối tình đầu
Tình lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện tình
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc tình
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người còn
nhớ hay người đã quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
BÌNH-TUY,
những ngày cuối cùng...
Tình Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và hòa bình
Tây
Ninh, chút còn lại trong lòng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi dòng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Trìu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Bão Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một dòng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện tình của một
Phi Công
Hai vì sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người tình
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái Bình Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Ðội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện tình
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
Tìm
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Gãy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ Hình Của Chính Mình
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy còn
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Dòng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa qua những tình khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn còn đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hãy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương tình
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những giòng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư tình của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nhìn được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư tình
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời còn dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba dòng nước mắt
Những xác chết trên mãnh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính gãy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện tình khoai lang
Tâm tình
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm tình
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xã đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi tìm Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất tình
Dấu "Hỏi Ngã"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ý yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
Tình... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ tình
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi dòng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi tìm tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hãy giúp tôi
Con còn nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ tình
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà nòi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái tình
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ còn một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một mình
Hãy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Hòa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc tình
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nhìn những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời còn vui vì có
chút tòm tem
Đôi mắt Phượng
Ngưòi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
Tình già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân tình
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài vòng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
Tình người
Hồi ký của một người Hà
Nội
Tình nghĩa, nghĩa tình
Đôi đũa
Giòng đời... và hồi âm
giòng đời...
Không cho phép mình
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
Tình ngây dại