Bữa ăn trưa đó của ông Năm thật giản dị : một trái cà tô-mát không
dầu không dấm và một miếng thịt ḅ nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ
sắt không muối không bơ. Quá giản dị ! Nhứt là hôm nay thứ bảy,
không phải đi làm. Nghĩa là có dư dả th́ giờ để làm một món ǵ đó
cho có vẻ một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với ngày thường ăn vội
ăn vàng cái ǵ cũng được. Thật quá giản dị ! Nhứt là ông Năm sống
một ḿnh, không bị phiền toái bởi những chuyện vụn vặt lỉnh-kỉnh
phải làm vào cuối tuần của người có gia đ́nh. Ở Paris này mà sống
một ḿnh như ông Năm th́ thời gian không biết phải làm ǵ cho hết
chớ đừng nói không có th́ giờ để làm một bữa ăn cho tươm tất vào
trưa thứ bảy.
Nói rằng ông Năm không biết làm bếp cũng không đúng. Hồi xưa, hồi
c̣n ở bên nhà, thật t́nh ông Năm không biết chiên một cái trứng gà.
Ông chỉ biết đi làm ngày hai buổi, c̣n việc bếp núc có bà Năm lo
hết. Bây giờ th́ khác. Ông cũng biết nấu vài món thông thường và lâu
lâu cũng biết " làm " một nồi phở để đăi đôi ba ông bạn già cùng lứa
tuổi và cùng thân phận lưu vong…
Như b́nh thường th́ trưa thứ bảy, ông hay thả xuống khu 13 la-cà ở
nhà sách Khai Trí một lúc rồi sang qua mấy cửa hàng nho nhỏ trên lầu
Paris Stores để coi có ǵ lạ không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm phở
để ăn trưa, có khi một ḿnh,nhưng thường th́ với một vài người bạn
gặp nhau ngoài phố. Ở khu 13 vào trưa thứ bảy, không gặp người này
cũng gặp người nọ, bởi v́ ai cũng đến đó để mua đồ, nói là " đi chợ
Tàu " chớ thật ra là để t́m lại một chút ǵ hơi hướm của quê hương :
những khuôn mặt gần gũi (gặp ai cũng thấy quen quen !), những món
hàng c̣n giữ nguyên nét cũ (đ̣n chả lụa vẫn phải có màu xanh của lá,
con vịt quay vẫn phải đỏ ao màu mật…) và những cái tên chỉ cần đọc
lên là đủ để gợi nhớ…
Hồi sáng này, ông Năm cũng đă đóng bộ để đi khu 13. Trời đă sang
thu, nhưng nắng c̣n thật ấm. Cây marronnier nhà hàng xóm nằm ngay
dưới cửa sổ nhà ông Năm đă trở màu vàng. "Chắc lá đă rụng đầy", ông
Năm nghĩ vậy khi đứng thắt cravate gần khung cửa sổ. Chỗ ông cư ngụ
là một studio nhỏ ở lầu ba khu nhà cũ nằm sâu phía sau nhà thờ Sacré
Coeur. Cây marronnier che hết phía dưới thành ra từ cửa sổ nhà ông
Năm nh́n thẳng ra chỉ thấy bức tường cao của khu nhà đối diện chắn
ngang, chừa phía trên bầu trời bị đóng khung h́nh chữ nhựt bởi hai
dẫy nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt phía xa, là nóc nhà thờ với cây
thánh giá. Thành ra, thế giới bên ngoài nh́n từ pḥng ông Năm chỉ
c̣n lại vỏn vẹn có cây thánh giá để cái nh́n c̣n có một điểm tựa !
Ông Năm theo đạo Phật, nhưng từ ngày dọn về đây – năm sáu năm ǵ rồi
– cứ nh́n cây thánh giá riết mà ông có cảm tưởng như ḿnh đă thành
con chiên của Chúa ! Nhiều khi ông thấy cây thánh giá thật là sinh
động. Ông không hay rằng niềm suy tư của ông đă gởi trên đó từ lâu…
Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho bà Năm, ông viết : "Anh thừơng
nh́n cây thánh giá đứng cao ṿi vọi một ḿnh trên kia mà tự hỏi
không biết anh và cây thánh giá, ai cô đơn hơn ai ? Nhưng cây thánh
giá hăy c̣n giang tay ngạo-nghễ chớ anh th́ từ lâu rồi anh đă buông
tay đầu hàng số mệnh ! Tuy nhiên, ở đây anh c̣n có cây thánh giá
trứơc mắt để hứơng về đó mà cầu nguyện, chớ ở bên nhà giờ đây muốn
cầu nguyện em phải hứơng về đâu hả em ? Anh bỗng ứa nứơc mắt thương
em vô cùng… Ở ngay trong ḷng quê hương mà thiếu thốn đủ thứ, đến
nỗi điểm tựa cho niềm tin mà c̣n không có th́ em sống ra sao, em hả
?" Đối với ông Năm, cây thánh giá trên chót nhà thờ Sacré Coeur mặc
nhiên đă trở thành một vật ǵ thật gần gũi, thật trần gian, thật
ngừơi, và là động cơ khơi nguồn kỷ niệm…
Hồi xưa, ông làm việc cho Air France ở Sàig̣n. Đời sống rất thoải
mái, nhưng hai vợ chồng lại không có con. Chạy thầy chạy thuốc măi
rồi mới biết tại v́ tử cung của bà Năm nằm lệch. Điều này làm bà Năm
khóc hết nứơc mắt. Tuy nhiên, hồi đó c̣n trẻ nên cũng dễ nguôi, hai
vợ chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi, tuổi đời chồng chất, sự
không có con đă trở thành một vấn đề cho hai vợ chồng. Mặc dù ông
Năm không bao giờ nhắc đến chuyện đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận lỗi
về ḿnh. Mặc cảm đó làm cho bà lúc nào cũng ân hận, áy náy. Rồi cái
ǵ hư, cái ǵ trật, cái ǵ bậy ở trong nhà dù là do lỗi những ngừơi
giúp việc, bà cũng nhận hết. Ông Năm phải mất một thời gian dài để
giải thích, khuyên lơn, an ủi bà Năm mới lấy lại đựơc quân b́nh. Có
hôm, trong lúc hai vợ chồng đi dạo trên băi biển Vũng Tàu, nh́n thấy
mấy gia đ́nh đông con đùa giỡn vui vẻ, bà Năm chợt thở dài than :
"Nếu không phải tại em th́ bây giờ hai đứa ḿnh đâu có bơ vơ như vầy
!". Ông Năm choàng tay ôm vai vợ xoay ngừơi lại để nh́n sâu vào mắt
: "Em à! Ḿnh không có con, nhưng ḿnh c̣n có nhau. Đó là Trời
thương lắm rồi, em c̣n đ̣i hỏi ǵ nữa ? Thử tưởng tượng một ngày nào
đó không c̣n có nhau nữa th́ sao ?". Bà Năm gật gật đầu nhưng chẳng
bao giờ tưởng tượng đến "cái ngày không c̣n có nhau" đó.
Vậy mà cái ngày đó đă đến cho ông bà Năm. Hai năm sau ngày mất nước,
trong chuyến vượt biên ở Cà Mau, ông Năm đi thoát, bà Năm bị bắt lại
với một số người không may khác ! Ông Năm sang Pháp, làm việc lại
cho hăng Air France. Bà Năm nằm tù hết mấy tháng. Được thả ra th́
nhà cửa đă bị tịch thu, đành về quê ở G̣ Công làm công nhân cho nhà
máy xay lúa của gia đ́nh mà trong đợt đánh tư sản đầu tiên, Nhà Nước
đă tịch thu để biến thành hợp tác xă. Từ đó, là những chuỗi dài
thương nhớ, là những lo âu dằn vặt, là những lá thư nhiều ẩn nghĩa
cho đúng "văn phạm Nhà Nước". C̣n chuyện vượt biên lần nữa là chuyện
mà bà Năm không bao giờ dám nghĩ đến ! Bên này, ông Năm chạy măi rồi
cũng được nhập cảnh gởi về, nhưng phía bà Năm th́ gặp quá nhiều khó
khăn trong hồ sơ xin xuất cảnh, cứ bị kéo dài, kéo dài bằng những
chầu chực, bằng những lời hứa hẹn suông và bằng mấy lần bị lường
gạt… Để cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là hồ sơ đă bị bác từ lâu !
Tin đó đến với ông Năm bằng tờ giấy tập học tṛ vàng như giấy súc mà
trên đó bà Năm chỉ c̣n đủ sức viết có mấy hàng… Vậy là vĩnh viễn
không c̣n có nhau nữa ! Ông Năm mất tinh thần hết một thời gian dài.
Sau đó, dọn về khu phố này t́nh cờ cửa sổ mở về hướng nhà thờ Sacré
Coeur, để mỗi sáng trước khi đi làm ông nh́n cây thánh giá một lúc,
giống như một tín đồ ngoan đạo…
Khi ông Năm mặc xong quần áo th́ trời cũng đă gần trưa. Đốt điếu
thuốc để lên môi, ông đóng cửa bước chậm răi xuống cầu thang, giống
như đo từng nấc thang một ! Thật ra, tại tánh ông Năm vốn đă trầm
thêm tuổi đă gần sáu mươi bắt ông phải cẩn thận khi bước lên bước
xuống. Ngoài ra, có ǵ phải vội phải gấp khi mà chẳng có ai đợi ai
chờ ? Đi khu 13 vào trưa thứ bảy đă thành một thói quen, chẳng có ǵ
phải náo nức. Bỗng nhiên, ông Năm nhận thấy cuộc đời ḿnh sao thật
vô vị. Giống như tờ giấy trắng mênh mông trải dài, thẳng băng, chẳng
có một ḍng mực, chẳng có một đốm màu, cũng chẳng có một vết hoen ố.
H́nh ảnh đó làm cho ông Năm dừng lại ở giữa cầu thang, ngẩn ngơ một
lúc như vừa khám phá ra một điều ǵ quá rơ-rệt nằm ngay trước mắt mà
sao lâu nay ông không nhận thấy ! "Ḿnh đi làm đều đặn. Mỗi tuần
xuống khu 13 cũng đều đặn vào trưa thứ bảy. Mỗi tối thứ hai đi ciné
một lần v́ giá vé hạ. Đêm nào cũng coi télé vào 8 giờ tối để theo
dơi tin tức, rồi đọc sách đọc báo đến 11 giờ rưỡi là tắt đèn ngủ.
Đều đặn. Đều đặn. Đến như cái cầu thang này, ḿnh cũng đều đặn trèo
xuống trèo lên đến nỗi biết nó có bốn mươi tám nấc ! Vậy rồi thôi !
Rồi cứ như vậy cho tới về hưu,tới chết !". Ông Năm hít hơi thuốc
thật sâu để thở khói ra thật dài. Ông làm mấy lần như vậy, giống như
đang t́m một đáp số ! Rồi ông vỗ nhẹ bàn tay lên thành lan can gỗ,
tự nhủ "Thôi ! Đừng nghĩ tới nữa" Ông tiếp tục bước xuống, nhưng bây
giờ sao thấy bước chân nặng hơn hồi năy nhiều…
Khi đi qua trước pḥng gác-dang, có tiếng gọi :
- Ông Georges ! Ông Georges !
Georges cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm Năm thành Nam,
nghe lơ lớ chói lỗ tai, nên ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ
kêu. Bà gác-dang bước ra trao cho ông một điện tín, nói :
- Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho ông th́ ông xuống đây.
Ông Năm run tay mở bức điện tín. Gịng chữ ngắn ngủn hiện lên nhảy
múa : "Đă có xuất cảnh. Lo vé máy bay cho em. Mai". Điếu thuốc trên
môi bỗng rơi xuống đất. Ông Năm có cảm giác như ḿnh đang lên cơn
sốt. Ông đọc lại điện tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại
mới kềm được tờ giấy đứng yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói cho ḿnh
nghe : "Đúng rồi ! Bả được xuất cảnh rồi !". Bà gác-dang nghiêng đầu
lo lắng :
- Có sao không ? Có chuyện ǵ không ? Ông Georges ?
Tiếng bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nh́n bà ta, mỉm cười, rồi
nắm lấy tay bà ta lắc mạnh :
- Cám ơn bà ! Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết nói ǵ cho phải.
Bà thật tốt bụng ! Quá tốt bụng ! Cám ơn ! Cám ơn !
Giọng ông thật thành khẩn, làm như chính bà đă cho giấy xuất cảnh !
Bà ta không hiểu ǵ cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái độ
của ông Năm. Bà ấp úng "Nhưng mà… Nhưng mà…" trong lúc ông Năm buông
bà ra để chạy lên cầu thang. Nữa chừng, sực nhớ ra, ông dừng lại
nghiêng người nói vói xuống :
- Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam. Bả nói bả sẽ qua đây ở với tôi !
Cám ơn ! Cám ơn nhiều !
Rồi ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một, nhanh như sóc, nhẹ
như hưu. Làm như ông mới có hai mươi tuổi !
Vào pḥng, ông ngă người lên giường, thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi
bất thần t́m lại chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc thang
thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật
rơ ràng mà ! Đây nè, hàng chữ không bỏ dấu "Da co xuat canh. Lo ve
may bay cho em. Mai" Đọc là hiểu ngay ! C̣n Mai là tên của bả rồi,
chớ c̣n ai vô đây nữa ! Cái tên dễ thương mà ḿnh đă thương từ mấy
chục năm, không c̣n lộn với ai được. Vậy là chỉ c̣n có vé máy bay
nữa là xong. Ông nhỏm người lên nh́n tấm lịch tháng treo gần đó để
thấy rằng ḿnh bỗng quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải đợi thứ
hai mới vào sở lo vụ này được. Ông lại nằm xuống. Dễ thôi ! Nhờ
thằng Durand đánh cái télex là xong ngay. Ờ… nhưng ḿnh cũng phải
gởi cái điện tín về cho bả mừng. Tội nghiệp ! Không biết ai chạy lo
cho bả cái xuất cảnh, chớ bả th́ lo khỉ ǵ được với cái tánh hiền
khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến đó, ông Năm bỗng thấy thương vợ vô
cùng. Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó đă về làm vợ ông từ
hơn ba mươi năm, trước sau như một, theo chồng như một cái bóng.
Ngoài chuyện không có con, chẳng thấy bao giờ bà làm bận tâm ông.
Con nhà giàu ở G̣ Công, học ở Marie Curie, vậy mà cô gái có cái tên
Trần thị Lệ Mai đó đă có một quan niệm sống thật cổ điển, thật Á
đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà đối xử với bên
chồng thật vuông tṛn và xem việc nội trợ như một thiên chức ! Hồi
xưa, bạn bè vẫn nói là "thằng Năm trúng số độc đắc" hoặc "đẻ bọc
điều mới có người vợ như vậy". Ông th́ nghĩ rằng tại vợ ḿnh hiền
khô và nhát hít nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà
ai cũng thương… Ông lại nhỏm dậy nh́n tấm lịch. Trên đó ông có ghi
bằng marker đỏ con số 10 to bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng
đă mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua lịch, ḿnh ngồi nắn nót viết con
số lên đó giống như người tù bị lưu đày ghi số năm mà ḿnh biệt xứ.
Có khác là người tù c̣n biết ngày được thả chớ c̣n ḿnh th́ mù tịt.
Đă tưởng vĩnh viễn sống một ḿnh rồi… chết cũng một ḿnh trên đất
lưu vong này, nào ngờ Trời c̣n thương ḿnh nhiều quá !
Ông ngồi hẳn dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc thật thơm thật ngọt. Vậy
mà cũng đă mười năm xa nhau ! Mười năm… lâu lắm chớ ! Vậy mà sao vẫn
thấy c̣n thương c̣n nhớ. Lạ quá ! Có phải như vậy người ta gọi là
chung thủy hay không ! Rồi ông nh́n quanh. Nhà cửa thiệt là lượm
thượm, phải dọn dẹp laị coi cho nó được một chút. Vậy là ông đứng
lên đẩy ghế, đẩy bàn, quên mất là ḿnh c̣n mặc bộ đồ lớn để đi khu
13 và làm như bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa làm vừa nói một ḿnh,
lâu lâu ông ngừng lại hít một hơi thuốc thật sảng khoái. Hai cái
fauteuils này cho sát vào tường, kê gần nhau để cùng ngồi coi télé.
Cái télé nằm đó được rồi. Cái bàn ăn nhích qua một chút để có chỗ
kéo cái nệm dưới gầm giường ra. Bả trên giường, ḿnh dưới đất, tạm
ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà khác rộng hơn. Cái tủ búp-phê đẩy tới
một chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng nặng ớn !
Ông đứng lên thở hổn hển, nh́n quanh. Bây giờ coi có nét rồi đó. À !
Cái màn cửa sổ, phải tháo xuống đem giặt, cho nó "sáng" ra mới được.
Rồi ông vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc ở đây th́ sạch sẽ rồi, khỏi
lo. À ! C̣n cái tủ quần áo ở bên pḥng ngoài nữa. Phải thu gọn lại
cho có chỗ để bả để quần áo chớ ! Ông bỗng ph́ cười. Làm như ḿnh
sắp cưới vợ vậy ! Mà thiệt ! Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng
giống như cưới nhau lần nữa chớ ǵ ! Ông soi gương chải lại tóc. Tóc
ḿnh mới có mấy sợi bạc thôi. Mặt mũi hăy c̣n "nét" lắm, ai mà nói
ḿnh sắp sáu mươi ? Cô dâu qua đây thấy chú rể như vầy là nh́n… rớt
con mắt ! Ông Năm bỗng nghe ḷng vui rộn ră, giống như tâm trạng
ngày xưa, thuở c̣n trẻ, lúc sửa soạn đi đến nơi hẹn với người con
gái tên Trần thị Lệ Mai…
...Vậy là trưa thứ bảy này ông Năm không thấy đói ! Tuy vậy, cũng
phải "bỏ bụng" một cái ǵ,v́ thói quen hơn là v́ nhu cầu. Ông mở tủ
lạnh lấy một trái cà tô-mát và một miếng thịt ḅ. Cà xắt khoanh,
không dầu không dấm, thịt nướng trần trên vỉ sắt không muối không
bơ. Làm cho "lấy có" và ăn cũng cho "lấy có". Bởi v́ tâm hồn ông
đang măi phiêu bồng ở đâu đâu xa lắm, h́nh như là ở G̣ Công quê vợ,
ở Gia Định quê ḿnh, ở những ngày đầu "hai đứa gặp nhau" (Tiếng nói
của t́nh yêu là một chuỗi dài im lặng !),ở rạp hát bóng Đại Nam là
nơi "hai đứa hẹn ḥ" (Dù trời mưa anh cũng tới. Em nghe không ?), ở
Đà Lạt ít lâu sau đó. Chao ôi ! Đẹp quá ! Dễ thương quá ! T́nh yêu
là cái ǵ mà sao măi măi vẫn c̣n nguyên, như mới hôm qua hôm kia…
-oOo-
Ông Năm lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ
hai. Hồi sáng, đă lên đó một lần, đợi cả tiếng đồng hồ để được thông
báo là chuyến bay Air France từ Thái Lan qua sẽ đến trễ gần tám
tiếng. Nhờ là nhân viên của hăng nên ông Năm được biết là máy bay bị
trục trặc kỹ thuật ở Karachi. Trở về sở làm, ông ngồi đứng không
yên, lâu lâu cứ nh́n đồng hồ. Bạn bè trong sở thấy vậy thương hại,
mỗi người một câu an ủi trấn an. Có người ngồi lại gợi chuyện tán
dóc cho ông đỡ thấy sốt ruột. Có người đặt tay lên vai ông bóp mạnh
:
- Georges ! Đợi chờ nhau mười năm mà mày c̣n chịu nỗi huống ǵ chỉ
có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !
Vậy rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông Năm lái xe đi
phi trường, ḷng náo nức xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu.
Vào phi trường, ông gắn thẻ nhân viên lên ngực áo rồi đến quầy Air
France hỏi thăm. Mô phật ! Lần này máy bay sẽ đến đúng giờ. Hai cô
tiếp viên trong quầy không quen ông Năm nhưng thấy đeo thẻ Air
France, nên cũng hỏi đẩy đưa :
- Ông chờ đón bạn à ?
Ông mỉm cười, vừa bước đi vừa trả lời :
- Không ! Tôi đón nhà tôi. Chào hai cô.
Phi trường giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người đi kẻ
lại tấp nập. Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc, nh́n thiên hạ. Ông
thấy ai cũng dễ thương hết ! Ông muốn họ uống với ông một tách cà
phê, hút với ông một điếu thuốc lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói
thuốc Dunhill thật ngọt. Tâm hồn ông Năm được trải rộng mênh mông…
Lại nghĩ đến bà Năm. Bả điệu" lắm ! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ.
Tóc lúc nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành một ṿng kẹp
lại phía trên ót, thành ra khuôn mặt trái soan và cái cổ tṛn lúc
nào nh́n cũng rơ nét. C̣n về quần áo th́ bả chẳng bao giờ mặc loại
có màu sắc sặc sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc xanh đậm và nếu
có bông th́ cũng phải tiệp màu với nền vải và h́nh dáng phải nhă
nhặn, nho nhỏ tương xứng với tầm vóc của bả. Hà ! Bả hiền khô và
nhát hít vậy mà về vấn đề ăn mặc bả khó dàng trời ! Người ta nói bả
có "gout". Ḿnh cũng nghĩ như vậy, nhưng nếu bả không có thân h́nh
đều đặn cân đối th́ không biết cái "gout" để vào đâu cho nó nổi !
Ông hít một hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà ḿnh mê bả quá,
nhứt là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp mắt đen to
như mắt đầm làm cho cái nh́n của bả lúc nào cũng có vẻ như ngạc
nhiên. Điều lạ là sau này khi đă đứng tuổi, bả vẫn c̣n giữ nguyên
đường nét thời con gái. Thành ra lắm khi nh́n bả, ḿnh muốn trêu
chọc bằng câu "Gái không con mà nom cũng ṃn con mắt", nhưng v́ sợ
bả buồn nên ḿnh nín thinh luôn !
Ông Năm ngừng suy tư trên h́nh ảnh đẹp của bà vợ, mỉm cười vu vơ.
Lại hút thuốc, lại nh́n thiên hạ. Hớp cà phê cuối cùng đă nguội ngắt
mà sao vẫn c̣n thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật cười. Sau bảy mươi
lăm, sống với Việt Cộng mà bả vẫn tiếp tục "điệu" như thường ! Trong
lúc người ta lôi quần áo cũ rách ra bận và để mặt mũi tóc tai lôi
thôi lếch thếch cho có "tác phong cách mạng" th́ bả vẫn gọn ghẽ sạch
sẽ như thường, vẫn chút đỉnh má hồng, chút đỉnh son, vẫn quần dài áo
ngắn tươm tất, mặc dù phải đạp xe đi làm công nhân ở tổ may thêu xa
bảy tám cây số. Ḿnh hay trêu chọc bả bằng câu nói của Việt Cộng
"Song chân lư ấy vẫn không bao giờ thay đổi", bả cười không nói. Vậy
mà có hôm, bả trả lời bằng một câu… xanh dờn : "Đàn bà phải biết tự
trọng. Làm như mấy bà cách mạng tóc tai xủ xộp, quần áo xốc xếch
rộng rinh hoặc ngắn ngủn như mặt đồ khín, em làm không được"…
Có tiếng nhạc chuông d́u dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của cô
tiếp viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ Thái Lan
đă đáp xuống sân bay. Ông Năm đứng lên trả tiền, xong đi vào phía
trong qua ngă văn pḥng trực của hăng. Ông nghe ḷng vừa náo nức vừa
hồi hộp giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết quả thi tú tài ! Ông
ra đón tận cổng vào. Có hai chuyến bay đến từ hai nơi khác nhau
nhưng đổ hành khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người. Giữa
cái lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ t́m vợ trong luồng người
thoát ra từ cổng F, cổng của chuyến bay Air France.
Ông nh́n từng khuôn mặt, từng người. Ông nh́n, ông chớp mắt để nh́n
cho rơ hơn. Những gương mặt Á đông phờ phạc. Những gương mặt Á đông
hốc hác. Những gương mặt Á đông xanh xao. Ông nh́n, ông chờm tới,
nhích tới để nh́n. Bả dễ nh́n lắm. Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc
nào cũng điệu. Trong đám đông, bả nổi hơn người ta nhờ nước da trắng
hồng của gương mặt trái soan và đôi mắt lớn, cho nên dễ nhận ra lắm.
Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà này coi ngờ
ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không phải bả. Ông nhón chân lên
để cái nh́n được đưa ra xa th́ tai thoáng nghe h́nh như có tiếng
người gọi nhỏ : "Ông Năm !" Ông vẫn tiếp tục nh́n từng người, từng
khuôn mặt. Lại có tiếng người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc đi :
"Ông Năm…"
Nghe rơ có tiếng ai gọi ḿnh, ông nh́n lại. Ngay phía trước, đứng
cách ông chỉ mấy bước, người gọi ông là một bà già tóc muối tiêu hớt
bom bê ngắn như mấy bà Tàu Chợ Lớn, mặc áo len nâu rộng thùng th́nh,
ống tay dài phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi bên một túi vải. Chỉ
mới nh́n tới đó thôi, linh tánh bắt ông nh́n lại gương mặt : khuôn
mặt gầy xạm nắng với những nếp nhăn trăng trắng ở khoé môi và đuôi
mắt. Ngần đó thứ giống như miếng cau khô, chỉ trừ có hai con mắt là
sinh động, là mở to như có vẻ ngạc nhiên, là nói lên, là nhắc nhở,
là… là… Trời ơi ! Là vợ tôi đây mà ! Ông Năm nghẹn ngào bước tới,
hai tay đưa về phía bà già và chỉ c̣n đủ sức gọi có một tiếng : "Mai
!" Ông ôm lấy vợ mắt nhắm nghiền đau đớn. Tội nghiệp ! Người vợ chỉ
dám gọi chồng bằng hai tiếng "Ông Năm" như người xa lạ, và chỉ dám
gọi có hai lần. Và khi chồng nh́n ra ḿnh, ôm chầm lấy ḿnh, người
vợ đó chỉ c̣n nói được bằng nước mắt !
Ông Năm buông vợ ra để nh́n lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời và nghẹn
cả ḷng. Ông chỉ c̣n nói được bằng hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn
tóc bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt
bây giờ sao không lấp đầy hai ḷng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống bờ
vai bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rơ nét gầy của bờ vai bây giờ.
Bây giờ… Hồi đó… Từ trong sâu thẳm của ḷng ông, nỗi đau khổ tột
cùng bỗng bật lên thành tiếng, một thứ tiếng nói lệch lạc méo mó v́
uất nghẹn : "Sao vầy nè ?". Rồi, không kềm chế nổi nữa, không cần
giữ ǵn ư tứ ǵ nữa, trong cái rừng người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ,
ngửa mặt lên trời thét lên một cách thống thiết : "Sao vầy nè… Trời
?". Tiếng "Trời" nặng trĩu thoát ra từ ḷng ngực ông như tất cả sinh
lực trong người được trút ra hết… Rồi ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn
rụa. Bà Năm cũng khóc nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải. Hơn
mười năm sống với Việt Cộng, đă trở thành một bản năng : nắm chặt,
giữ chặt những ǵ c̣n thuộc về ḿnh, những ǵ mà "tụi nó" chưa kịp
chiếm lấy, cướp lấy !
Một lúc lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại b́nh
tĩnh. Ông nói :
- Thôi ḿnh về đi em !
Tiếng "em" thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng "em" mà đă mười năm,
bà không c̣n nghe thấy ! Bà cắn môi để kềm xúc động, nh́n chồng mà
đuôi mắt nheo lại mỉm cười. Bà nghe một cái ǵ mát rượi đang len vào
ḷng, một cái ǵ đă làm rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới t́m gặp
lại. Măi đến bây giờ, ông Năm mới thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày
xưa : to tṛn như mắt đầm, trồng đen lay láy. Đôi mắt đó đang nh́n
ông, cái nh́n ngời lên như muốn nói thật nhiều… Ông cúi xuống định
xách hai túi vải. Bà Năm lắc đầu :
- Để em xách !
Tiếng "em cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu
dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt đă tẩy sạch dấu vết của mười năm…
Ông vói tay cầm lấy quai túi :
- Để anh xách cho.
Bà Năm vừa bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai túi vải :
- Không sao. Em xách được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà máy,
có sao đâu.
Ông Năm bỗng nghe ḷng quặn thắt. Th́ ra "tụi nó" đày đọa bả đến
nước đó ! Bả tội ǵ ? Tội ǵ ? Tội vượt biên ? Th́ đă ở tù trên ba
tháng rồi c̣n ǵ nữa ? Vậy tội ǵ ? Ông Năm nghiến cái câm thù trong
răng để đừng chửi đổng, nhưng rồi ông cũng bật ra : "Quân khốn nạn
!"
-oOo-
Về đến nhà th́ trời đă xâm xẩm tối. Lần này th́ chính ông Năm xách
hai túi vải, đi trước dẫn đường, ḷng vui như mở hội. Đến chân cầu
thang, ông nói :
- Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không ?
Bà Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo :
- Ǵ không nổi ? Bây giờ em làm cái ǵ cũng nổi hết.
Rồi bà bước lên cầu thang, bước đều đặn. Ông Năm theo sau, nh́n dáng
dấp nhỏ thó với mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô
cùng. Mười năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo sát về phía sau để
cuốn tṛn kẹp gọn một ṿng trên ót… bây giờ chỉ c̣n là như vầy ! Cái
cổ tṛn dẫn xuống bờ vai thon thon của hồi đó… bây giờ gầy nhom như
vầy ! Mười năm… Chắc bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng ghê lắm mới
ra nông nỗi này ! Tội nghiệp ! Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó
chưa làm phiền lụy ai bao giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái
cớ nào đó để hành hạ. Và như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả
già trước tuổi, chớ bả cũng c̣n giữ được cái nh́n, giọng nói và tâm
hồn… những thứ mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được !
Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nh́n quanh mỉm cười, không nói.
Ông Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi cũng nh́n quanh :
- Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một thời gian rồi ḿnh sẽ
kiếm nhà khác rộng hơn.
Bà Năm dịu dàng :
- Như vầy cũng được. Có hai đứa mà ǵ…
Bỗng nhiên hai người nh́n nhau. Tiếng "hai đứa" nhắc cho họ nhớ tới
hoàn cảnh bây giờ, một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu
thống hận dập dồn đă làm họ quên đi : bây giờ "hai đứa" vẫn c̣n có
nhau, thật sự c̣n có nhau. Rồi sẽ không c̣n ǵ chia cách. Rồi sẽ đi
bên nhau, đi hết đoạn đường c̣n lại, một đoạn đường không c̣n bao
nhiêu xa… Bởi v́ họ biết : họ đang bước vào mùa thu của cuộc đời…
Cho nên họ nh́n nhau mà yêu thương dâng đầy trong mắt.
Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền trời trắng đục, hiện lên
thật rơ cây thánh giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi :
- Cây thánh giá này đây ?
Câu hỏi trống không nhưng hai người cùng hiểu : cây thánh giá mà ông
Năm viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần trong thư gởi về Việt
Nam. Ông bước lại khoác vai vợ, gật gật đầu. Hai người yên lặng nh́n
cây thánh giá như đang tạ ơn, giống như đang rước lễ, giống như cô
dâu chú rể sau khi được kết hợp thành vợ chồng… Thời gian bỗng như
dừng lại, để h́nh ảnh trở thành bất diệt, nói lên cái cao cả của
t́nh yêu, cái huyền diệu của niềm tin… những thứ mà Việt Cộng muốn
xoá bỏ để biến con người thành gỗ đá.
Một lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh :
- Để em soạn đồ ra.
Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói
thuốc lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nh́n vợ soạn đồ bằng đôi
bàn tay xạm nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn
tay đă từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây
giờ là như vậy ! Ông thấy thương vợ vô cùng.
Bà Năm soạn đồ ra để trên bàn : vài bộ quần áo, mấy cái khăn lông,
một cái mền nhỏ…
Vừa làm bà vừa nói :
- Có bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ không biết
lúc nào tụi nó bắt ḿnh lại. Có nhiều người lên máy bay rồi mà c̣n
bị lôi xuống, không biết v́ cớ ǵ. Rồi khi được thả ra là trắng tay.
Bà lấy trong túi ra một khuôn h́nh, trao cho ông Năm :
- Em đem h́nh ông già bà già qua để lâu lâu ḿnh thắp một cây nhang.
Ông Năm nh́n h́nh cha mẹ, ḷng bồi hồi xúc động. H́nh này, hồi đó,
để trên bàn thờ nhà cũ. Nhà bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy
được để mang qua đây ? Ông đứng lên nh́n quanh, rồi treo khuôn h́nh
lên cây đinh trên tường đối diện.
Có tiếng bà Năm nói :
- Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi đó anh ưa
lắm.
Ông quay lại, cầm chai lên mở nút. Chưa đặt miệng chai lên mũi mà
mùi rượu ngọt ngào thơm phức tỏa ra thật nồng nàn. Ông hít một hơi
dài, đóng nút lại, rồi nh́n chai rượu mà ứa nước mắt. Nỗi nhớ quê
hương nằm sâu trong t́m thức, bây giờ, mùi rượu nếp than, màu rượu
nếp than đă làm bật dậy, vô cùng mănh liệt. Ông tưởng chừng như vừa
hưởi thấy mùi thơm quê hương. Có mùi ngọt ngọt của lúa chín, có mùi
nồng nồng của rơm của rạ, có mùi hăng hăng của đống un đốt cạnh
chuồng trâu chuồng ḅ… Ông tưởng chừng như đang giữ trong tay một
mảnh trời quen thuộc. Ở đó có màu tím lờn lợt của hoa bằng lăng, có
màu tím nâu nâu của vỏ măng cụt, có màu tím học tṛ của trái mồng
tơi, và những tà áo tím phất phơ theo gió qua cầu, với những chiều
tím quê ngoại, đứng ngẩn ngơ bên sông Vàm Cỏ khi tuổi vừa mới lớn…
Chao ơi ! Ngần đó thứ, tưởng quên nhưng vẫn nhớ. Ngần đó thứ bây giờ
xa thật xa. Xa, không phải v́ cách biệt, mà xa v́ không c̣n thuộc về
ḿnh nữa !
Ông Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím ngát dợn lên trong ḷng
chai. Ông mở nút rót thẳng vào miệng một hớp. Chất rượu béo ngậy
ngọt ngào cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn, những món
thịt rừng ở Biên Hoà, những con cá mú sửa kho tộ ở Vũng Tàu băi sau
băi trước… Ông ngậm lấy hớp rượu để nghe rơ chất rượu đang thấm vào
nướu răn, đang thấm vào các thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng,
đang nồng lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương là đây… ông không cầm được
nước mắt !
Bà Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà hiểu ông Năm lắm và nghe thương
chồng vô cùng. Tội nghiệp ! Mười năm xa quê hương…
Ông Năm vào pḥng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ cho vợ xếp quần áo.
Xong ông bảo :
- Anh đă làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem ra hâm. Em đặt
bàn đi. Đồ đạc trong tủ búp-phê đó.
Bà Năm nghi ngờ :
- Anh mà làm bếp cái nỗi ǵ ? Mua ở tiệm th́ có.
Ông Năm cười sảng khoái :
- Em lầm rồi ! Bây giờ, anh làm cái ǵ cũng được hết. Nấu bếp, giặt
đồ, làm ménage … đủ thứ. Rồi em coi ! À… đặt bàn em nhớ để một dĩa
sâu cho món súp légume và một dĩa trẹt cho món gà nấu rượu, nghe !
Bà Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng mà ḷng cũng thênh thang trải
rộng.
Một lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn ăn. Trên bàn cũng có hai cây
nến. Cũng khăn trải bàn trắng phau, cũng khăn ăn màu xám lợt, cũng
dĩa trắng chạy chỉ vàng, cũng nĩa dao cáng gỗ có nét vẽ cong cong
nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có chân, đựng chút rượu nếp than
có màu tím đậm đà và hương thơm mời mọc.
Ông vui vẻ :
- Như vầy mới đúng là nuit de noces chứ, phải không em ?
Bà Năm nh́n chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói
lảng :
- Súp ngon chớ ! Anh học nấu ở đâu vậy ?
Ông để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật :
- Hùm… Không nói đâu ! Ông Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó,
dặn anh đừng nói cho ai biết !
Rồi cả hai cùng cười v́ h́nh ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười hồn nhiên
t́m lại sau mười năm xa nhau…
Bữa ăn kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể đó,
không mạch lạc đầu đuôi, bởi v́ trong thời gian mười năm có biết bao
nhiêu sự việc đă xảy ra để mà nhớ cặn kẽ cái nào sau cái nào trước !
Dọn dẹp xong th́ trời đă khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên
giường, ông nằm trên nệm dưới đất.
Tắt đèn đă lâu mà hai người vẫn c̣n trằn trọc. Làm như c̣n thèm nói
chuyện với nhau nữa ! Bóng tối dầy đặc vây quanh. Không khí trong
nhà êm êm mát mát. Mùi rượu nếp than và mùi thuốc lá Dunhill c̣n
phản phất thơm thơm. Bỗng bà Năm nghe một bàn tay của chồng đặt lên
ḿnh ḿnh. Toàn thân bà run lên nhè nhẹ. Hơi thở của bà bỗng trở nên
phập phồng. Một cảm giác dường như thật cũ, mà cũng dường như thật
mới, d́u dịu ngây ngây… Bà không biết nữa ! Rồi, không tự chủ được,
bà cầm bàn tay chồng áp lên má, lên mũi, lên môi. Bàn tay này tưởng
đă vĩnh viễn không c̣n nh́n thấy, cầm lấy. Da thịt này tưởng đă vĩnh
viễn không c̣n đụng chạm sờ mó được. Mười năm… Mười năm… Nước mắt
bỗng chảy dài xuống hai bên tai, bà Năm thốt lên nho nhỏ : "Ḿnh !".
Chỉ có một âm đơn độc, nhưng sao tiếng "ḿnh" nói lên thật nhiều,
diễn tả thật nhiều. Tiếng "ḿnh" mà mười năm nay ông Năm không c̣n
nghe. Tiếng "ḿnh" gợi lên t́nh nghĩa vợ chồng, nỗi niềm chia xẻ.
Tiếng "ḿnh" cũng là tiếng nói của yêu đương, của hài hoà sum họp.
Và tiếng "ḿnh" ở đây, trong hoàn cảnh này, sao nghe thật mời mọc
dâng hiến… Người đàn bà mười năm khổ hận đó, vợ ông, cần được yêu
thương thật nhiều để bù lại. Tiếng "ḿnh" gọi nhỏ trong đêm bỗng
nghe tiếp nối… Bồi hồi xúc động, ông Năm chồm lên ôm xóc lấy vợ, hôn
tràn lên tóc, lên má, lên môi. Ông nghe trong tay, run lên như đang
cơn sốt, thân xác gầy c̣m của vợ. Và tai ông c̣n nghe những tiếng
"ḿnh" đứt quăng ú ớ như tiếng nói trong chiêm bao…
Cuộc t́nh của tuổi vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng
nồng nàn ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi năy. Có
mùa chớm thu nào mà không thấy c̣n sót lại vài tia nắng hạ ?
-oOo-
Tôi muốn câu chuyện này chấm dứt ở đây cho cuộc t́nh được đẹp như
bài thơ, được vuông tṛn như trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế
không phải như vậy. Bởi v́…
…Một tháng sau đó, bà Năm ngă bịnh, phải vào nằm nhà thương. Bà bị
ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đă giấu ông Năm, lâu nay, bây giờ
bà mới cho biết : hồi c̣n ở Việt Nam, nhờ khám thấy ung thư nên bà
mới xin được chiếu khán xuất cảnh. "Nhà nước Cách Mạng vốn khoan
hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang thăm chồng đấy ! Chớ chị không
nằm trong diện được cứu xét nào cả. Rơ chưa ?". Gă cán bộ trao giấy
phép cho bà Năm, mà nói như thật ! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại
cũng chỉ tốn gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa và là một miệng ăn phi
sản xuất, chẳng lợi lộc ǵ cho "nhân dân". Thà tống đi gấp để khỏi
phải chôn thêm một người, chật đất !
Ông Năm đă ngồi bên giường vợ suốt thời gian cuối cùng. Ông đă cầm
bàn tay c̣n mang tỳ vết của mựi năm gian khổ. Ông đă ôm gương mặt
phong trần chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống đầy hạnh phúc. Và
cuối cùng, ông đă chải lại mái tóc bạc chưa kịp dài để được cuốn
tṛn kẹp lên sau ót, như ngày xưa…
Ông đă gục lên thân xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt c̣n lại.
Mùa thu đó, lá rụng thật nhiều…
Tiểu Tử
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại