Ngỡ Ngàng Đời Chiến Sĩ

NGUYỄN THỪA B̀NH

Ngày xưa c̣n nhỏ, thường năm giờ sáng, tôi đă thức dậy học bài bên ba má tôi đang ngồi uống nước trà với kẹo thèo lèo và đủ chuyện Đông, Tây kim cổ. Tôi mê nhất ông cụ kể chuyện Kinh Kha vào Tần với cái đầu Phàn Ô Kỳ và bản đồ nước Yên mà giúp Thái Tử Đan ám sát Tần Thủy Hoàng. Tôi giận Tần Vũ Dương, tên giang hồ tứ chiếng mà nhát gan, làm hỏng đại sự. Ba tôi giỏi Hán Văn, thường ngân nga hai câu thơ của Kinh Kha làm bên bờ Sông Dịch mà cái đầu cứ ngả qua ngả lại như biểu lộ một cảm khái u hoài: “Phong tiêu tiêu hề, Dịch Thủy hàn. Tráng Sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn” và dịch thoáng nghĩa, đậm một chút ḷng “Gió thổi hiu hắt buồn và nước gịng Sông Dịch lạnh. Người Tráng Sĩ một khi đă ra đi th́ không bao giờ trở về”. Bóng dáng Kinh Kha đi theo tuổi nhỏ của tôi cùng lớn lên với Bài Ca Sông Dịch của Vũ Hoàng Chương “...Tám phương trời khói lửa. Một mũi dao sang Tần. Ai trách Kinh Kha rằng việc người đă lỡ. Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân. Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu, mà thương cho cánh tay thần. Ta chỉ thấy. Tơi bời tướng sĩ, thây ngă hai bên. Một triều rối loạn, ngai vàng xô nghiêng...”. Sống trong một đất nước chiến tranh nhiều hơn ḥa b́nh, chúng ta hiểu được tâm sự của một Thái Tử Đan và tính can cường con người Tráng Sĩ Kinh Kha. Không nói quá xa mà chỉ từ năm 1954 đất nước qua phân, Người Việt Quốc Gia có biết bao nhiêu người hiên ngang đâu có thua ǵ Kinh Kha, coi nhẹ tử sinh, sống chết không màng danh phận, một ḿnh quyết tử trong ḷng địch. Họ là những anh hùng khác ǵ Đại Úy Le Blanc và đồng đội trong cuốn phim“Héros Sans Retour” chiếu năm 1964, mà những ngày đũng quần c̣n mài ghế nhà trường, tôi phải phục lăn, thèm bắt chước. Nhưng bản chất là kẻ nhát gan lại sợ chết, tôi làm sao mà bắt chước cho được. Chỉ cùng đồng đội “tác chiến” với địch quân tới trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 là dữ lắm rồi. Đời người, ai lại không gặp biết bao nhiêu chuyện tréo cẳng ngỗng, có khi đáng buồn cười mà cũng nhiều lúc phải chảy dài những giọt nước mắt. Và không ai phủ nhận được rằng, người chiến sĩ tang bồng hồ thỉ kiếm cung làm sao mà không thường xuyên bắt gặp chuyện đời bất thường đến ngỡ ngàng, bàng hoàng tột cùng ư nghĩa và cường độ cảm xúc. Từ khi vào quân trường để được dạy làm người đánh giặc, những cái kỳ cục “không giống ai” đă đè cái-tôi-đáng-ghét xuống làm thứ dân. Từ đó, ngày23 tháng 01 năm 1967 đến nay cũng đă 43 năm 4 tháng 25 ngày th́, biết bao nhiêu chuyện trời ơi đất hởi thăng trầm một đời bể dâu. Những chuyện ḿnh không bao giờ nghĩ nó sẽ xẩy ra th́ nó cứ xẩy ra. Những chuyện ngờ ngờ trước mắt th́ ḿnh không thấy bao giờ. Những chuyện ḿnh mong ước có khi hăo huyền th́ không nói làm chi, mà cũng có khi trong tầm tay nhưng bao giờ nắm bắt được? Những chuyện lớ ngớ, lẩm cẩm cứ đeo đuổi tuổi già mà chọc ghẹo, không nghĩ thời trai trẻ chiến trường xông pha mà châm chước....Tất cả th́nh ĺnh xuất hiện một cách ngỡ ngàng như trêu ngươi...anh và tôi, những Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa đau trong ḷng biết chừng nào, không thua trận mà phải đầu hàng!.

Dĩ nhiên tôi đă biết rồi, bom đạn thời chiến tranh giết người một cách vội vàng, dă man, không lựa chọn. Nhưng có những cái chết thật lạ lùng, thật bi thương, thật bất ngờ, thật mau quá. Thằng bạn tôi con một, khi xưa rớt Tú Tài I vẫn nhong nhong vài tuần lớp Đệ Nhất chơi. Ra trường Đồng Đế hơn 2 năm, đụng trận liên miên vẫn sống nhăn răng. Vào Thủ Đức, lon Chuẩn Úy chưa kịp rửa, bồ chưa kịp gặp, cha mẹ chưa kịp mừng, lời hẹn bạn bè chưa kịp giữ, đă bị thiêu sống ở Ḥa Tân, G̣ Công, xác không nhận ra h́nh hài. Nghe tin, cha chết liền tại chỗ. Mẹ như người mất trí đầu đường cuối phố ơi ới “ con ơi, con ơi”. Người bồ chờ ngày đám cưới nhất định “ở góa” suốt đời. Chúng tôi không t́m đâu ra nó mà đưa đám, nói ǵ ngồi ở Thanh Bạch, vô Vĩnh Lợi. Cái thằng nầy có tật, về Sài G̣n chỉ thích ngồi gần như suốt sáng ở Thanh Bạch nh́n gái dạo phố Lê Lợi và người ta dập d́u qua lại đằng kia Chợ Bến Thành rồi chun đầu vào cái Rạp Ciné Vĩnh Lợi nghèo nàn nhiều chuột kế bên, mà dán mắt vào những phim cũ rich chiếu “permanent” suốt cả ngày với ổ bánh ḿ paté cầm trong tay. Năm 1970 tôi ở nhà ông chú, chủ ḷ bánh ḿ trên đường Trưng Nữ Vương, khu Nại Hiên Tây thuộc Thị Xă Đà Nẳng, nhiều đêm bị Việt Cộng pháo kích đạn hỏa tiễn 122 ly, chết biết bao dân thường vô tội, thảm cảnh hăi hùng lắm! Một cái đầu người rớt lên rớt xuống mấy lần khi chở tới Bệnh Viện Duy Tân. Một gia đ́nh chết trọn, ai chôn cất ai!? Hai mẹ con Bà Hai mới hồi hôm đến mua bánh ḿ đây, bây giờ chết không toàn thây mà 2 ổ bánh ḿ c̣n nguyên đó. Một chú nhỏ Nhân Dân Tự Vệ thường 11 giờ đêm đến “xin” bánh ḿ cho toán lót dạ ban đêm cũng chết bên người vợ mới cưới tháng trước. Chiến tranh mà!. Ai cũng nói như vậy. Không. Thằng bạn tôi chết không kịp ngáp lời từ biệt. Nó chết bị thui sống như loài súc sanh tồi tàn, tanh tưởi. Nó chết mà không biết ai là nó , nó là ai. Ba nó đó. Má nó đó. Bồ nó đó. Bạn bè nó đó. Nó ra đi, chẳng ai ngỡ ngàng. Tôi quen nó mấy chục năm không chết. Mới đó đă không c̣n. Ngỡ ngàng!. Ngỡ ngàng v́ nó là bạn bè lối xóm của tôi, là bạn học của tôi, là chiến hữu của tôi, là đồng ngủ của tôi nữa...nếu không th́ cũng “chiến tranh mà”. Vào tháng 4 năm 1972, Quân Bắc Việt xă láng hơn 40 ngàn quân, gồm Bộ Binh, Công Binh, Thiết Giáp, Pháo, Pḥng Không...rót hơn 200 ngàn quả pháo đủ loại trong hơn 2 tháng trời vào Thành Phố An Lộc nhỏ chút xíu chút xiu vài cây số vuông mà thua vẫn thua nhục. Đối phương cũng phải cúi đầu. Đồng Minh cũng phải khâm phục. Đồng bào cũng phải vinh danh “An Lộc địa sử ghi chiến tích, Biệt Cách Dù vị quốc vong thân”. Hồi đó đọc báo hằng ngày, tôi nghĩ là, ḿnh sẽ mất An Lộc, B́nh Long là chắc. Nhưng anh hùng thay! Lẫm liệt thay! Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa người người nằm xuống, người người đứng lên đă dựng cờ chiến thắng. Làm sao mà không ngỡ ngàng!? Đầu tháng Giêng năm 1975, ông bạn Tư của tôi, Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Phước Long dắt lính chạy giặc qua Tỉnh Quảng Đức đang b́nh yên của tôi. Ảnh nói “nó đông người, nhiều tăng, vũ khí tôi tân” ḿnh thua. Phước Long mất!. Tỉnh của Việt Nam Cộng Ḥa đầu tiên mất. Nó sát nách chúng tôi quá!. Chúng tôi không c̣n đường 14 về Nam. Tôi bàng hoàng. Tôi ngỡ ngàng. Dầu ai cũng biết rằng, nó sẽ thua v́ chính quyền trung ương không đủ sức giữ cho nó c̣n, không màng nó c̣n. Rồi khuya ngày 9 tháng 3 năm 1975, người anh vợ làm ở Bệnh Viện Quân Y Ban Mê Thuột gọi cho biết, ở đó Việt Cộng đang tấn công. Việc Cộng Sản Bắc Việt sẽ đánh Ban Mê Thuột ai cũng biết. Có điều các lực lượng chiến đấu của ta mỏng quá, ít quá, thô sơ quá... đành chịu mất Ban Mê Thuột như bỏ mất Phước Long. Tôi nhớ, chiều ngày 8 tháng 3 năm 1975, ở Ninh Ḥa trời đang mưa mà “dám” bảo tài xế lái xe về Ban Mê Thuột. Quốc Lộ 21 nầy ai dám đơn thương độc mă ban đêm một chiếc Jeep với ba anh lính qua Đèo Phụng Hoàng? Đường rừng, núi, dốc, đồi, ngoằng ngoèo...im thin thít. Chắc Việt Cộng chê bọn thằng ngu không đánh tốn đạn, không bắt tốn cơm. Chúng tôi đến Ban Mê Thuột b́nh yên lúc 10 ǵờ đêm. Sáng hôm sau, tiếp tục về Quảng Đức, chúng tôi qua Cầu 14 trên sông Sêrêpôk nối hai Tỉnh Darlac và Quảng Đức, lúc nào cũng lạnh lùng, đ́u hiu... Đến Đức Lập, đậu xe đi ṿng ṿng khu chợ kiếm nước uống. Những anh lính “mừng Đại Úy đi công tác về”. Định lên căn nhà gổ của ông triệu phú Trần Trọng Lưu nhờ chú quản lư, pha cho vài ly cà phê cứt chồn, anh em uống cho tỉnh táo, nhưng thôi. Khu phố trước Quận nhỏ hơn thổ trạch một nhà và ít người hơn ngày đám giổ một gịng họ, sinh hoạt cũng ồn ào, b́nh yên. Đến Ngả Ba Dakson, qua Cái Am Đầu Lâu, chúng tôi ngậm ngùi kiếp nhân sinh. Gọi là Cái Am Đầu Lâu v́ mấy miếng ván sơ sài che cái đầu người của ai ở trỏng. Mấy anh lính phất phơ b́a rừng, thong dong với cây súng cầm tay như thách thức mạng sống nơi âm u chiến trường, quơ quơ tay như lời chúc “thượng lộ b́nh an”. Ai có thấy ǵ đâu bóng dáng chiến tranh hờm sẳn. Về đến Gia nghĩa, mệt đừ. Một đêm ngủ ngon cho đến nửa khuya, ông anh vợ gọi, báo Việt Cộng Đánh Băn Mê Thuột. Ừ th́ chiến tranh, nay đánh chỗ nầy, mai đánh chỗ kia vậy mà, tôi cũng không quan tâm ǵ. Ngủ. Qua ngày hôm sau, ngày 10 tháng 3 năm 1975, Việt Cộng tấn chiếm Quận Đức Lập mới thái b́nh ngày hôm qua đó mà. Tôi đi trong ḷng chiến tranh mà không thấy chút nào súng ống, bom đạn, bóng dáng thập tḥ Việt Cộng. Đức Lập là một Quân phía Bắc của Tỉnh Quảng Đức, Nam của Darlac. Vậy là Nam và Bắc hai đầu một chặng Quốc Lộ 14 đă nằm trong tay địch, bít Quảng Đức ở giữa. Dân sợ. Lính lo. Một sáng hạ tuần tháng 3 năm 1975, Mục Sư Hồ Hiếu Hạ dắt đàn con chiên người Thượng chăn cả mấy bầy ḅ, dê, cừu và cơng cả heo, gà, vịt...định băng rừng, lội suối, vượt sông Đa Dung rộng thênh thang mà đến Lâm Đồng. Tôi nh́n theo mà ngỡ ngàng hết sức. Ngỡ ngàng v́ biết là Mục sư sẽ không đi tới đâu được khi đùm túm số đông người gia cảnh lượm thượm như vậy. Những anh em của tôi nói “làm sao mà đi?”, “tại sao mà di tản?”. Mục Sư Hồ Hiếu Hạ, người chống Cộng, linh hoạt, vui vẻ nhưng khó tính. người địa phương ai cũng nói như vậy. Nhưng tôi, đơn vị trưởng an ninh ở đây, tôi hiểu ông hơn hết. Một lần ổng đă hy sinh lắm mới đành đoạn cưa cho tôi một nhánh lớn của cây mai đang rộ bông vàng mùa Xuân, trồng trước Thánh Đường. Tôi biết, ổng quí nó vô cùng. “Anh là người đầu tiên và cuối cùng tôi tặng”, ổng nói như vậy. Lính của tôi nói “Đại Úy trúng số độc đắc rồi”. Bây giờ tôi vẫn không quên. Chẳng biết hiện nay Mục Sư đang ở đâu? Dự đoán chúng tôi không sai. Chiều, Mục Sư mệt quá rồi! Con chiên mệt quá rồi! Gia cầm, gia súc như đừ lắm rồi! Họ về lại là đương nhiên. Nhưng cả một tôn giáo rủ nhau mà chạy, bảo sao không nhốn nháo cái Thị xă Gia Nghĩa nhỏ như một ṿng đai chiến đấu, vào cái lúc tứ phương chộn rộn? Tôi đă thấy vắng bóng mấy ông lớn, vắng mặt mấy bà lớn. Thành phố hốt hoảng như đang cơn binh biến. Hết sức ngỡ ngàng, vào thời điểm bất ổn đó, Đài BBC đọc bản tin Thị Xă Gia Nghĩa đă bị Việt Cộng đánh chiếm, khi mà chúng tôi đang ngồi uống nước trà trên mặt hầm lô cốt một cách thái b́nh. Thiếu Tá Cừ giận quá “địt mẹ, bố c̣n ngồi đây”. Trung Úy Thu từ Đức Lập chạy về, hùa theo “đụ má, nói bậy nói bạ”. Không biết những tỉnh khác, Đài BBC có làm những việc tương tự như vậy không? Họ vô t́nh hay cố ư đưa tin thất thiệt một cách vô trách nhiệm, thiếu thận trọng, không trong sáng, có lợi cho Cộng sản biết mấy. Từ đó đến nay, hơn 35 năm rồi, tôi có bao giờ nghe lại cái đài ác ôn đó nữa đâu. Sáng ngày 23 tháng 3 năm 1975, như những ngày vừa qua tôi phải lo đàn em Đức lập về nhiều quá mấy hôm nay, không đi họp ở Tiểu Khu được như hằng ngày. Thiếu Tá Phạm Cừ đi một ḿnh, về nói lại, Trung Tá Tham Mưu Trưởng Phạm Đức Dư ra lệnh di tản. Di tản!?. Tôi biết, cái ngày đó phải xẩy ra, sẽ xẩy ra. Nhưng tôi không sao dấu được nỗi bàng hoàng, ngỡ ngàng! Quảng Đức nằm trọn lơn trong rừng. Bắc th́ Việt Cộng đă chiếm Ban Mê Thuột kéo dài xuống Đức Lập. Tây là Tỉnh Mondolkiri của Campuchia. Nam là Phước Long và Lâm Đồng. Phước Long không c̣n. Lâm Đồng nghe cũng lộn xộn như Tuyên Đức ở phía Đông. Xế hôm đó, chúng tôi bỏ Thị Xă Gia Nghĩa, bỏ Tỉnh Quảng Đức chạy trốn Việt Cộng, gọi là di tản cho oai như Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bô Binh “tan hàng” tháng 4 năm 1972 và Trung Tá Phạm Văn Đính, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 56 phải ra đầu hàng giặc vậy mà. Ai không buồn? Ai không đau? Ai không ngỡ ngàng? Ai không ngậm ngùi?. Quảng Đức của tôi, hơn nửa tháng sau, Việt Cộng trong rừng mới ḷ ṃ ra, không tốn một viên đạn nào. Ḿnh chạy nhanh quá mà. Việt Cộng đâu kịp tiếp thu. Tôi về đến Bảo Lộc, tỉnh h́nh ở đây cũng bát nháo khác ǵ Gia Nghĩa. Việt Cộng đang c̣n ở đâu đâu trong rừng hay trong “hốc bà tó” nào đó. Bấy giờ không ai nói ǵ đến chiến đấu nữa mà chỉ nói “làm sao chạy về Nha Trang, về Phan Rang, về Phan Thiết... đây?”. Đừng nói ai chỉ huy ai di tản. Đêm ngày 1 tháng 4 năm 1975, chúng tôi chứng kiến Nha Trang hải hùng quá. Người người đổ ra đường mà chạy, mà la, mà cướp phá, mà bắn loạn xà ngầu. Có ai chết cũng chẳng ai cứu. Người ta lo cứu người ta là chạy khỏi nơi nầy sớm chừng nào tốt chừng nấy. Chúng tôi len lỏi một cách khó khăn và hoảng hồn mới xuống được Cầu Đá, đạp ọp ẹp lên hàng trăm thân thể người chết cuộn trong bọc nylon mà đi trong đám đông hàng chục ngàn người. Họ là những xác người chết mấy hôm trước từ những ch́ếc xà lan Miền Trung kéo vào, bỏ đó không ai chôn. Họ là xác những người mới chết bị đè bẹp trong đám đông hỗn loạn tối nay. Xin những oan hồn uổng tử tha tội cho những bước chân người chúng tôi vào lúc đi t́m cái sống dẫm lên cái chết của người! Tại Cầu Đá, chỉ có đi tới chứ không thể đi lui, chỉ có đi thẳng, không làm sao quẹo trái, quẹo phải được. Biết bao nhiêu giấy tờ, h́nh ảnh quí giá biêt chừng nào của tôi đành chịu mất trong trường hợp nầy. Cái Samsonite kẹt cứng trong người với người phải bỏ, không th́ ḿnh bị dẫm đạp lên ngay. Chiếc tàu đậu đó, đầu sát bờ khoảng 5 thước mà phần đuôi xa khoảng vài chục thước. Một là mạnh, nhảy bám dây lưới leo lên. Hai là yếu, rớt xuống biển. Biết bơi c̣n sống. Không biết bơi th́ ôm nhau xuống biển, ch́m nghỉm. Tới bờ đá là nhảy ngay, chậm một giây th́ lớp người đằng sau như gịng nước lũ đùa ḿnh xuống biển liền. Khiếp đảm lắm! Về Cát Lái chiều ngày 3 tháng 4 năm 1975 mới biết ḿnh c̣n sống qua 2 ngày 2 đêm hăi hùng trên chiếc tàu được sắp xếp trước của Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu, đang là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Vợ ở nhà làm người đàn bà “vạn lư tầm phu”, từ Vũng Tàu về thấy chồng mừng chảy nước mắt. Rồi hơn 20 ngày sau, Tổng-Thống-Dân-Không-Bầu Dương Văn Minh, người ta gọi là Tổng-Thống-Hai-Ngày vào khoảng hơn 11 giờ trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 tức ngày 19 tháng 3 năm Át Măo, tuyên bố “hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện”. Tôi hết sức ngỡ ngàng một cách u mê. U mê v́ c̣n tin có một giải pháp ḥa hợp ḥa giải hay trung lập ǵ đó trong một thế lực không c̣n ǵ, không có ǵ. Người ta đă nghĩ ngày ḿnh thua từ sau Hiệp Định Paris kư ngày 27 tháng 1 năm 1973 hay ít nhất cuối tháng 3 năm 1973 khi lính Mỹ về nước hết. Tôi th́ không, nghĩ rằng ḿnh c̣n mạnh lắm. Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa c̣n cả một Miền Nam chưa sứt mẻ mà. Chưa thua Tổng Công Kích Tết Mậu Thân Năm 1968, Quảng Trị, Thừa Thiên và An Lộc năm 1972...th́ “sức mấy” Việt Cộng làm được gi!? Cả một ngày hôm qua từ chiều cho đến khuya, c̣n kéo dài tới sáng hôm sau, rầm rập tiếng máy bay trực thăng lớn nhỏ đủ kiểu đủ cỡ làm rát cả Thủ Đô Sài G̣n đang cơn hấp hối. Trên nóc nhà tôi sau Rạp Ciné Văn Hoa Dakao, sáng cả bầu trời đêm 18 Âm Lịch mới vừa qua Rằm. H́nh hài những chiếc trực thăng vội vă ra đi, ra đi biền biệt...mang theo những con người hớt hăi, tuyệt vọng, tiếng than và nước mắt. Tôi ngước nh́n lên, ḷng trĩu nặng tâm tư bời bời, tan nát. Vợ tôi đứng bên lấy khăn “mouchoir” lau cho tôi những giọt nước mắt sao cứ chảy, cứ chảy không ngừng, nói “thôi, người ta sao, ḿnh vậy anh à”. Tôi nghe được tiếng nói hết sức xúc động của người vợ đang rưng rức gịng lệ ứa ra. Vợ tôi chạy vào nhà, ôm gối khóc nức nỡ. Người anh em cột chèo, Đại Úy Quân Nhu, không nói không rằng một tiếng, châm điếu thuốc ra ngồi dưới gốc cây b́nh bát trước nhà, đầu gục xuống, nhả làn khói trắng dài thê lương! Mấy bà xă ra Chợ Tân Định mua vài đùi gà Mỹ làm sẳn về “làm đồ nhậu cho mấy ổng uống giải sầu”. Hai đứa tôi lấy hai bà chị em cũng đă 6, 7 năm rồi nhưng chưa bao giờ có th́ giờ ngồi lại với nhau, nói ǵ uống với ăn. Sáng sớm, nếu không có lẹt đẹt vài tiếng súng AK muộn màng th́ không biết bao giờ chúng tôi thức giấc một giấc ngủ thật dài từ chiều hôm qua mà quên đi lời kêu gọi thê thảm của Đại Tướng Dương Văn Minh. Một Trung Tá Trung Đoàn Trưởng đầu hàng. Một Sư Đoàn tan đoàn rả đám. Một Tỉnh Phước Long không c̣n trong lảnh thổ Việt nam Cộng Ḥa. Rồi di tản tiếp theo những di tản. Rồi những đổ vỡ tiếp theo những đổ vỡ...C̣n ǵ!? Mất nước! Dẫu là nam nhi, đời kiếm cung tang bồng ngang dọc, ai không chảy những gịng nước mắt mà chê là nhi nữ thường t́nh? Những con người trở mặt nhanh hơn lật bàn tay, đeo băng đỏ lăng xăng chạy xe Jeep, xe Lam, xe găn máy, ngay cả xe đạp... phất cờ màu đỏ, xanh và ngôi sao vàng của cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam đi làm an ninh và chỉ điểm cho bọn trong rừng ra trả thù và ăn cướp. Thằng bạn tôi, Tham Sự Hành Chánh cũng khoe ra cái giấy chứng nhận là đoàn viên của cái Hội Sinh Viên Yêu Nước, nói là “cho chắc ăn”. “Cho chắc ăn” th́ cũng đi tù rục xương như người ta. Không biết bây giờ mầy đang ở đâu hởi cái thằng giỏi thói tráo trở, khôn vặt? Lời kêu gọi trí trá, giảo hoạt của bọn Ủy Ban Quân Quản làm ḿnh cứ tưởng là sẽ đi “học tập cải tạo” 10 ngày. Mười ngày đến cuối tháng 4 năm 1984 mới được về đèo theo “một năm quản chế”. Cái xă hội ǵ, cứt quư như vàng!? Ở trại tù trong Nam phải canh, không th́ bị ăn cắp. Ở trại tù ngoài Bắc phải trộn với tro hay than đá mũn đóng thành bánh dấu trong kho. Người ta lái ghe đi bán cứt, đi mua cứt. Có khi người ta giết nhau v́ cục cứt. Một bà cụ không kiêng dè ǵ hết, nói “chúng tôi có “són” bao nhiêu đi nữa cũng phải ráng mà về đến nhà mới tè, không để phí một giọt nào giữa đường”. Nói như chuyện đùa mà có thực một trăm phần trăm tôi đă trải qua trong cái gọi là học tập cải tạo ở Trại An Dưỡng Biên Ḥa hay ở Xă Lạc Hồng, Huyện Trấn Yên, Tỉnh Yên Bái, chứ không phải nghe nói bâng quơ, bêu rếu, tếu... Khắp hang cùng ngơ hẻm, những người bạn tôi đó. Bây giờ có người vợ đi lấy chồng cán bộ. Có người con bị đuổi học. Có người tả tơi đạp xích lô. Có người c̣m cơi ngồi bán mấy tấm giấy số. Có người đi bốc xếp, khuân vác. Có người trong núi trong non kinh tế mới. Có người ôm thùng cà rem đi bán, Có người đi xin ăn...Tất cả sống đời thiếu ăn, thiếu mặc, tồi tàn, hạ cấp, bị hết thảy người ta miệt thị, khinh rẻ....C̣n bút mực nào tả cho đủ nỗi oan khiên, đoạn trường của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa Thua Trận c̣n kẹt lại. Ra đường, ḿnh cảm thấy sao như người lạc chợ trôi sông, cù bơ cù bất, bơ vơ giữa những con người cũng là Việt Nam, mà lạ hoắc la huơ, quê mùa, hống hách. Những “Cửa Hàng Bách Hóa Tổng Hợp”, những “Tụ Điểm Bán Buôn Chất Đốt Thanh Niên”, những “Nhà Đẻ”, “Xưởng Đẻ”, “Hợp Tác Xă May Mặc”, “Đồn Quân Giải Phóng”, “Bến Đỗ Ô Tô Con”... nghe sao tréo bản họng. Những con đường bóng dáng kỹ niệm xưa, bây giờ đă đổi tên hết trơn. Đường Công Lư có Dinh Độc Lập, Chùa Vĩnh Nghiêm, Dinh Hoa Lan... đổi tên Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Đường Tự Do có Bộ Nội Vụ, Nhà Hàng Caravelle, Continental Palace, La Pagode., Vũ Trường Maxim’s...đổi thành Đồng Khởi. Dân truyền miệng “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lư. Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do”. Đường Phan Thanh Giản có Trường Trung Học Tư Thục Phan Sào Nam, Rạp Ciné Long Vân, Bịnh Viện B́nh Dân, Trường Nữ Trung Học Gia Long... đổi là Điện Biên Phủ và ngay Chung Cư Minh Mạng tôi ở, cũng đổi ra Chung Cư Ngô Gia Tự như con Đường Minh Mạng là Ngô Gia Tự vậy... Ôi, Bùi Chu là Tôn Thất Tùng, Phát Diệm là Trần Đ́nh Xu, Duy Tân là Phạm Ngọc Thạch, Lê Văn Duyệt là Cách Mạng Tháng 8, Trần Quốc Toản là 3 tháng 2...loạn xà ngầu, biết đâu mà ṃ. “Một năm quản chế” không được bước ra khỏi Sài G̣n và hằng tuần phải tŕnh diện Công An Phường với quyển sổ báo cáo công việc hằng ngày. Một năm mới được trả quyền công dân qua buổi họp của bà con quanh nhà gọi là “Tổ Dân Phố”, hầu hết là đàn bà và một tên Công An Khu Vực mắt lé, con nít, nhà quê, đọc không ra chữ. Rồi Mỹ có chương tŕnh ra đi trật tự “Orderly Departure Program” để cho anh em “Cựu Tù Nhân Học Tập Cải Tạo” là “Former Re-Education Center Detainees” tái định cư ở Hoa Kỳ. Gia đ́nh tôi có hai vợ chồng với trai, gái, lớn, nhỏ năm đứa con, theo tên HO 14 mà rời Việt Nam sáng tinh sương ngày 18 tháng 11 năm 1992 và Phi Trường Thái Lan tối cùng ngày để vào Phi Trường Quốc Tế KCI của Kansas City, Tiểu bang Missouri qua ngày 19. Thấy Thái Lan mới thấy 17 năm Việt Cộng cai trị đă làm cho đất nước Việt Nam thụt lùi sự tiến bộ đến chừng nào. Phi trường người ta hiện đại, to lớn, văn minh, sạch sẽ quá sức. Ḿnh, cơm c̣n bửa đói bửa no. th́ nói ǵ. Cơm phải chia gạo ra 6 tô cho 6 đứa vừa con vừa cháu ngồi lựa bông cỏ ra mới nấu ăn được. Hằng hà sa số bông cỏ đủ loại trong gạo, có khi c̣n nhiều hơn gạo. Tụi nó phải có một cây tăm xỉa răng, một cái chén nước. Nhúng đầu cây tăm vào nước cho ướt mới chấm dính được bông cỏ. Đố ai lựa bằng tay không cho được. Vẫn cứ hợp tác xă, vẫn cứ tem phiếu, vẫn cứ hộ khẩu, vẫn cứ tiêu chuẩn, vẫn cứ cái ǵ cũng quốc doanh...của cái thứ Xă Hội Chủ Nghĩa th́ muôn đời Nước Việt Nam không bước ra khỏi ṿng tối tăm, nghèo đói, lạc hậu được. Nhớ lại khi máy bay cất cánh cao dần cao dần và xa dần xa dần Phi Trường Tân Sơn Nhất, ḷng tôi như chùng lại cái tâm trạng nửa vui nửa buồn mà nước mắt th́ chảy dài! Có ai muốn bỏ nước mà đi đâu? Đứa con gái út của tôi 7 tuổi, ôm cứng ông nội không chịu đi. Ba tôi đứng đó nh́n con cháu ra đi không biết bao giờ trở lại. Tôi quây mặt qua chỗ khác mà ḷng đau nhói. Nhưng phải ra đi. Ra đi cho đến bây ǵờ đă hơn 18 năm rồi mà tôi chưa một lần quây về. Ba tôi chết đó, cũng không về. Mồ ba tôi chôn đâu cũng không hay. Những đồng tiền tôi gởi về cho các anh chị và các cháu lo liệu rơ ràng là chưa đủ tấm ḷng. Tiền đó, t́nh đâu!?. Tôi biết. Tôi buồn lắm. Ngày tôi đến Mỹ, người của Hội Cựu Quân Nhân, của Don Bosco, của các anh chị em chưa từng quen biết... đón ở phi trường một đoàn xe dài như một phái đoàn ngoại giao cao cấp. Hết sức ngỡ ngàng. Hết sức cảm động. Ḷng bổng nao nao câu thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị “Đồng thị thiên nhai lưu lạc nhân. Tương phùng hà tất tằng tương thức”.

Và một chiều Chủ Nhật vài ngày sau đó, anh bạn Đ́nh, Đại Úy Không Quân lái trực thăng HU-1B chở tôi đến Don Bosco tham dự buổi họp định kỳ hằng tháng của Hội Cựu Quân Nhân. Anh em gặp nhau mừng hết sức. Tôi đă khóc thật sự. Đă hơn mười bảy năm dài mới thấy lại Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Ḥa. Đă hơn mười bảy năm dài, mới hát lại một cách công khai, hùng hồn Quốc Ca Việt Nam Cộng Ḥa “nầy công dân ơi! Quốc Gia đến ngày giải phóng...”. Ai có chai ḷng bao nhiêu đi nữa cũng không khỏi bùi ngùi, xúc động! Và mới qua đầu hôm sớm mai, tuyết đă rải trắng xóa bầu trời. “Đẹp quá”, mấy đứa con lớn của tôi vén màn cửa sổ coi không chán. Nhưng tôi, vợ tôi và hai đứa nhỏ bảy tuổi và năm tuổi “lạnh chết cha”. Cái cô Lư, cô Hoa, chú Tư nhà ta làm việc ở Don Bosco mướn nhà cho ḿnh ở Mùa Đông mà không có “heat”. Họ trịch thượng ra kiểu ta đây, người qua trước chê kẻ qua sau ù ù cạt cạt. Vốn bạn bè thường nói, tôi là thằng ngay và ngang tính nên, có kiêng dè thằng nào, con nào đâu, “xạt’ liền, “nạt” liền. Dẫu sao đi nữa, chúng tôi cũng đă hết những ngày giang nắng, chạy mưa thời làm nhang, bán nhang độ nhật, nuôi con, “khổ thấy mẹ”. Tôi vừa có foodstamp dư mua đồ ăn khỏi trả tiền vừa có tiền mặt welfare trả nợ Việt nam. Việc ǵ “cái thuở ban đầu” cũng đáng ghi nhớ. Làm sao mà không nhớ cho được cái công việc đầu tiên của tôi ở Mỹ là housekeeping cho Lữ Quán Comfort Inn nằm bên trong đường Front. Chú Thanh, người Thủ Đức b́nh dị, người Trung Úy Biệt Kích ĺ lợm, ngày đầu tiên không chịu được, nổi sung “đụ me! tôi về, không làm”. Giải thích, năn nỉ lắm, chú chịu ở lại. Lúc ăn trưa, chú nói mà không dấu được nỗi buồn xa xăm rằng, ở tù về nghèo xơ nghèo xác, bà con ruột thịt xa lánh hết trơn. Ngày giổ họ, ḿnh ráng đạp chiếc xe đạp sườn ngang cũ rich, đèo con gà mái dầu thật mập về Sài G̣n cúng. Người ta biết lấy con gà, không biết hỏi ḿnh một tiếng. Dựng chiếc xe đạp cà tàng vào hiên nhà, ra sau hè vấn điếu thuốc rê, tới lu nước múc một gáo nước lạnh uống, vào bàn thờ thắp ba cây nhang lạy, tôi ra về trước mắt mọi người, có ai nói năng ǵ đâu!? Đă ra tù hai năm rồi, cả nhà tôi chưa có ai được ăn một miếng thịt. Con gà mái chở đi, chúng tôi thèm chảy nước miếng lắm chớ. Bà con ḿnh tàn nhẫn quá, nói ǵ người dưng nước lă! Hai anh em tôi ráng hết sức cũng chỉ tới 2 tuần, đúng 10 ngày hay 80 tiếng đồng hồ.. Ở đây đă có hai cha con Trung Úy Thiện, người Huế làm từ vài tháng trước rồi. Họ chắc cũng không vui ǵ nhưng cũng không thấy buồn. Chùi cầu tiêu đầy cứt, rửa bồn tắm đầy lông, dọn những cái quần lót đầy máu me... mà buồn ứa nước mắt. Hai anh em v́ vậy mà cố gắng 2 năm trời lấy cho được cái Diploma về Microprocessor Technology vào năm 1994 của trường Electronics Institute treo chơi cho đỡ tủi. Cũng nhớ, giữa năm 1993 ở Lake Land, Florida v́ sợ làm housekeeping ở Kansas City, Missouri mà chạy về đó làm kitchen-helper. Gọi kitchen-helper cho “ngon cơm” vậy thôi, chứ thực ra chỉ là thằng rửa chén cho bếp Nhà Hàng Nhật Bổn của một chú lùn trẻ tuổi Phù Tang. Thằng con trai, chưa đến ngày vào trường, phụ ba kiếm tiền bước đầu trên đất Mỹ xa lạ, làm bus-boy, dọn dẹp chén bát, “clean up” bàn ăn, bàn nấu, thảm, vách... Nó nói “ngán nhất là chùi mấy cái hood” treo trên bàn nấu đầy dầu, mở, trơn, cứng, khó chùi hết sức...mệt lắm! Ngày nào trong tuần mà chùi “cái của nợ” đó, gần như trăm phần trăm thằng con về nhà muốn bỏ ăn. Thấy con mà tội nghiệp, Ḿnh th́ đă đành, nh́n con không cam! Cũng không sáng sủa ǵ ở đây, 5 tháng sau, gia đ́nh lại đùm túm trở về Kansas City “xứ lạnh t́nh nồng” của Missouri ở cho đến bây giờ cũng gần 20 năm dài thường thược. Người ta nói “trong cái may có cái rủi, trong cái rủi có cái may”. Đúng hết sức cho trường hợp hai vợ chồng một ông bà ở đây. Đă đưa nhau qua Mỹ nhưng sống khác ǵ mặt trời với mặt trăng như từ ở Việt Nam. Bả lúc nào cũng chỉ trích nặng nề chồng, gia đ́nh chồng và mang tiếng “ba cái lăng nhăng” Ổng thỉnh thoảng cải chính sơ sài, nhẹ nhàng. Không may, ông chồng “x́u x́u ểnh ểnh” lại bị tai nạn xe hơi nằm “cấp cứu” trong bệnh viện. Bà vợ ân tuyệt, t́nh đoạn nhất định cuốn gói qua Cali dù có ai khuyên đi nữa. Nhưng may, được nghe rằng “auto insurance, life insurance, trường hợp của ảnh sẽ được bạc triệu”, bả đâu chịu bỏ đi. Không biết “ảnh sẽ được bạc triệu” bao nhiêu nhưng, hai vợ chồng bây giờ nh́n có vẻ hạnh phúc, có tiền. “Rủi” cho nên hai vợ chồng mới “may” ăn ở trọn đời, măn kiếp!? Có những điều, những cái, những việc, không thấy, không tin. “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, chuyện nầy có lạ ǵ ở đây nhưng, làm sao tin được ở Việt Nam? Có lúc ngồi một ḿnh, nh́n mây trời Thu lăng đăng những chiếc lá vàng vàng đỏ đỏ phất phơ mà nhớ ngày xưa. Năm đó sau Hiệp Định Paris 1973 bắt 7 tên Việt Cộng ở Nghi Xuân, lấy 6 AK47, 3 B40, 1 K54, 1 radio, 1 máy truyền tin...mà vui với một Anh Dũng Bội Tinh dù là Ngôi Sao Đồng của Trung Tá Nguyễn Hữu Thiên lúc đó làm Tiểu Khu Trưởng cấp cho. Cũng phải nhớ mà nhắc đến cái anh chàng Cẩn, Thiếu Tá Trưởng Pḥng Tổng Quản Trị hồi đó, ngồi mài mỏng đít trên cái ghế văn pḥng “đếch” làm ǵ, cũng có cái Anh Dũng Bội Tinh “em dũng bội tinh” như người ta. Rồi lại nghĩ, tại v́ Trung Tá Cao Văn Chơn thế Đại Tá Phan Đ́nh Niệm làm Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Quảng Đức trong hơn một tháng mà Thiếu Tá Tư, người Huế, Trưởng Pḥng 2 bị phục kích ở Đạo Nghĩa chết thay tôi một cách oan uổng. Xe tôi đă đi trước một đoạn quá dài, nhưng cuối cùng, anh ta đă vượt qua dành tôi cái chết sau đó chưa tới 3 phút. Tụi Việt Cộng đă phục kích ngay cùi chỏ lên dốc Nghĩa Chánh. Số mạng! Biết làm sao!? Tiếc là, việc đó không phải của “các ông đơn vị trưởng phải làm” theo lệnh kém cơi, hời hợt, vô lư của một ông Tiểu Khu Trưởng dỡ ẹt. Một Đại Úy cũng tên Tư nhưng là người Miền Nam lên thay. Rồi lên Thiếu Tá, cũng là Thiếu Tá Tư bị Việt Cộng bắn chết, không phải ngoài chiến trường mà vượt ngục “học tập cải tạo?”. Tôi nhớ ông bạn Tư gốc Sĩ Quan Đà Lạt nầy, nhắc hoài tôi một câu “kệ, ổng nói ǵ nói, cải lại làm ǵ anh” khi tôi phân bua, lư luận với Trung Tá Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Nguyễn Hữu Thiên trong những lần họp cuối ngày ở Tiểu Khu hay đầu tuần trong Ṭa Hành Chánh Tỉnh . Cuối năm 1973, Đại Tá Phạm Văn Ngh́n thay thế Trung Tá Nguyễn Hữu Thiên, dân địa phương người ta nói “năm ngàn đi, sáu ngàn về”. Ông Sáu Ngàn b́nh thường tŕnh diễn tướng tá rất oai vệ kiểu ta đây anh hùng, làm ai cũng sợ, ai cũng nể. Ngày 17 tháng 3 năm 1975, một đám dân đông đảo và hỗn loạn đầy con nít, ông bà già, nam thanh nữ tú, xe hơi, xe gắn máy... ùa lên Phi Trường Gia Nghĩa đang có mấy chiếc trực thăng ở trển, mong chạy ra khỏỉ thành phố sớm chừng nào tốt chừng nấy. Đại Tá đi với mấy anh cận vệ “escort”, súng đạn đầy người, truyền tin “tạch tạch tè tè” hết sức oai phong, rút súng bắn bể hết các bánh xe từ dưới dốc lên trên phi trường. Chưa đủ người ta khiếp, ổng lấy một cây M16 bắn một tràng lên không trung, mặt hầm hầm giọng Quảng B́nh “chạy đi đâu, chạy đi đâu”. Đố ai mà không tán loạn. May xe tôi đang công tác ở đây, đậu hơi xa, nếu không cũng bị bắn, Đại Tá đâu có chừa ai. Tôi cho rằng, việc làm của ổng lúc đó có phần hơi quá đáng, vơ biền. Lẻ ra, ổng nên giải thích và trấn an đồng bào, cho dân t́nh b́nh yên th́ hay biết mấy. Rồi khi Quảng Đức vào thời ly loạn trong cơn hấp hối, t́m ổng đâu không thấy. Ổng đă ngủ kḥ bên Lâm Đồng từ hồi nào rồi, làm ai cũng chê bai ổng là kẻ hèn nhát, bỏ lính, bỏ dân, trốn chạy nhanh hơn thỏ đế, chưa nói đến những việc ổng làm, đáng trách hết sức. Rất tiếc, có những người ngồi ở trên trời viết chuyện ở dưới đất, nói bênh cho ổng chỉ huy cuộc di tản, nói bậy Quảng Đức mất ngày 22 tháng 3 năm 1975. Bây giờ kể ra có khác nào kẻ phản phúc nói xấu cấp trên sa cơ thất thế của ḿnh, tốt lành ǵ!. Có điều, các ổng cùng một mẻ như Thiếu Tướng, Thủ Tướng, Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn Cao Kỳ, đá lính đau quá, ức lắm, la lên một tiếng hỗn hào đôi lời trút giận vậy thôi. Tôi không dám làm tài hay như những người thuở xưa giỏi làm “tà lọt” cho xếp, giữ nhà cho mấy bà, lúc nào cũng khúm núm, cúi đầu dạ dạ vâng vâng...chúng tôi thường trêu là “À Vos Ordres Xin Tuân Lệnh”, bây giờ chửi thầy, chửi bà đủ các ngôn từ xấu xa nhứt. Có phản phúc lắm không!? Một chuyện, tôi không bao giờ quên cái ông Đại Tá nầy là, khoảng 6 giờ chiều một ngày cuối năm 1974, sau khi Toán Thám Sát của tôi báo cáo đă hạ sát được 2 Việt Cộng, tịch thu 3 súng AK và một B40 trong một cuộc phục kích những ngọn đồi nằm bên phải đường vào Đức Xuyên, gần Chi Khu Khiêm Đức, đă ra lệnh “lôi xác tụi nó ra, bỏ ở Ngả Ba Khiêm Đức”. Vào lúc chạng vạng, núi rừng âm u, tôi với 7 anh em nữa phải đi vào rừng nhiều cây số “lôi xác tụi nó ra, bỏ ở Ngả Ba Khiêm Đức”. “Lôi xác tụi nó ra” đâu phải dễ. Thay nhau khiêng, vác, cơng, kéo...trong đêm rừng âm u núi, đồi và canh bị phục kích nữa. Chết như chơi!. May, 11 giờ khuya thầy tṛ về không có ǵ. Nhưng, đại khái những cái lệnh chết người như thế đó xét cũng đâu cần thiết lắm phải “nướng lính” như vậy. Hồi mới qua, xuống downtown thi bằng lái xe, sớn sác làm sao mà cả người ḿnh táng vào tấm tường kính sáng, trong, dầy cợm. Kính không bể. Ḿnh sưng cái trán một cục. Thằng Mễ nào, con Mễ nào chùi ǵ kỹ dữ quá, mắt cataract của người trên 50 tuổi có 9 năm lính, 9 năm tù, 8 năm sống ngất ngư dưới chế độ khắc nghiệt Xă Hội Chủ Nghĩa thấy đường đâu mà tránh. May không ai thấy, không th́ quê chết. Lái xe bên Mỹ chưa quen nước quen cái, đi Highway, Trafficway...cứ lộn vô Exit, lộn ra Exit mà lạc đường hoài. Ḿnh cũng tự an ủi cho ḿnh rằng, ai lái xe ở cái xứ sở nầy mà chưa từng bị lạc? Một hôm lộn tới lộn lui làm sao nhiều tiếng đồng hồ vẫn không biết đường mà về. Rề rề tới cây xăng dùng điện thoại công cộng gọi về nhà bảo thằng con giỏi tiếng Anh dắt ba về. Nó hỏi “ba đang ở đâu?”. Tôi lung túng trả lời là “tao không biết tao đang ở đâu nữa”. Nó cằn nhằn quá, “làm sao con t́m ba ra?”. May, ở đó cũng không xa nhà. Tôi đưa tờ giấy có ghi địa chỉ và số điện thoại cho hai người Cảnh Sát. Họ gọi con tôi không được rồi bảo theo họ mà về. Chắc thằng con tôi đă đi mà cũng không biết đi đâu để t́m tôi rồi. Già ở Mỹ khổ thiệt, có cái miệng mà cũng không nói được, có chiếc xe chạy th́ chạy lạc hoài. Một sáng ngày mùa Đông, tuyết rơi trắng trời, lạnh thấu xương, ông bà Thanh cùng thằng con trai lớn vào nhà năn nỉ hết sức, nhờ tôi cùng đi đến văn pḥng luật sư “đă có anh Liêm hẹn rồi”. Hết sức ngỡ ngàng! Tôi tự hỏi, “ông bà nầy có chuyện ǵ mà cần luật sư?”. Chẳng biết trời cao đất rộng là dường nào, “ừ th́ đi giúp chú thím” cũng chẳng chết thằng Tây nào. Chú bắt tôi phải veston, cravaté như hai cha con của chú “cho lịch sự”. Trong lúc ngồi chờ khoảng nửa giờ đồng hồ, chú vừa kín đáo vừa bí mật vừa trịnh trọng rút ra tờ giấy được cuộn tṛn, dấu hết sức kỹ lưỡng trong ḿnh thím. Đố mà tôi biết ǵ, tôi thấy ǵ trong lúc nầy và ở đây. Chú nói “anh chỉ nói, nhờ Luật Sư lảnh giùm tôi số tiền mười một triệu tám trăm tám mươi ba ngàn đồng theo như giấy tờ ghi ở trỏng”. “Trời ơi! Chú giỡn chơi”, tôi lạnh cả người nói với chú như vậy. Đă đến đây lại ra về hay sao? Tôi vừa đưa Tờ-Giấy-Bạc-Triệu, chú Thanh nói như vậy vừa đánh liều “ba xí ba tú” cái vốn liếng ngọng nghịu, kém cỏi tiếng Anh của ḿnh. Người luật sư già không biết có nghe được ǵ không, nh́n cô thư kư đă trẻ lại c̣n thật đẹp mà nói với cô ta điều ǵ đó, tôi không nghe, không biết. Hai người lững lờ mĩm cười, tôi thấy như có cái ǵ hơi bất b́nh thường, có cái ǵ dè biểu trong đó. Liếc qua Tờ-Giấy-Bạc-Triệu, người luật sư già nét mặt vừa như thương hại mà cũng vừa như khinh bỉ cái bọn nhà quê “nghèo mà ham”, tay quăng Tờ-Giấy-Bạc-Triệu ra bàn, miệng nói “đây chỉ là Sweepstake, một loại giấy quảng cáo, đùa chơi thường thấy ở Mỹ mà thôi, các ông bà chẳng cần làm ǵ, không cần ǵ tôi”. Chưa kịp dứt lời, ông ta đă đứng dậy , đi vào không thèm“shake hand”, không cần“see you again” ǵ hết. Cô thư kư c̣n nói được một tiếng “sorry” nhưng kèm theo một nụ cười nửa miệng trịch thượng, đầy ngạo mạn, rẻ rúng. Đau ḷng! Chuyện nửa ṿng trái đất, vấp váp cũng là thường nhưng ham ăn “của trên trời rớt xuống” kiểu nầy th́ mất mặt KBC quá. Nhà thơ Rudyard Kipling của Anh nói: “Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet”, đại khái chúng ta thường nói, “Đông là Đông, Tây là Tây. Đông Tây không bao giờ gặp nhau”. Ai biết bên Mỹ chơi cái kiểu ǵ lạ vậy. Cũng như một người anh em bạn tôi, tại thành phố nầy. Một hôm nhậu “đả quá” kiểu ta đây “không say không về”. Đúng, chú ta say mèm mới về. Nhưng người say có bao giờ chịu là ḿnh say, cứ lái xe về?. May là, đêm khuya khoắc ngày Chủ Nhật, xe chạy ngoài đường cũng lơ thơ tơ liễu. Xe chú chạy tự do lane nầy qua lane kia chưa có ǵ đáng tiếc xẩy ra. Cũng c̣n chút tỉnh táo, thoáng nghĩ, “phải nhấn nút emergency cho đỡ nguy hiểm”, chú quờ quạng t́m hoài cái nút tam giác mà không ra. Ngừng xe lại, mở to đôi mắt và định thần cho tỉnh táo, thấy rồi, chú nhấn nút, vịn xe đi chung quanh xem cho chắc ăn. Bốn đèn trước sau đă cháy, tắt, cháy, tắt. Trước khi tiếp tục con đường về nhà, luôn tiện chú dựa đầu vào xe, đứng “xả cái bầu tâm sự” xuống đầy đường một cách thoải mái và khoái chí. Một chiếc xe chạy qua bóp c̣i te, te, te...Một chặng dài, xe Police theo sau “quây đèn” vàng, đỏ, xanh nhấp nhá. “Chết cha rồi!”, chú nói nhỏ giọng nhừa nhựa. Một cách khó khăn, chú tấp xe vào lề. Một Cảnh Sát bước tới, hỏi “do you need help?”. B́nh thường, tật cà lăm và kém Anh Văn đă làm chú nói mà không ai hiểu rồi, huống ǵ bây giờ. Chú bấm nút cho cửa chạy xuống, tḥ đầu ra ngoài nói một tràng nhiều quá mà sau nầy kể lại, chú cũng không biết ḿnh đă nói ǵ. Hơi rượu bay ra nồng nặc. C̣ng Số 8 lạnh và đau nơi hai cổ tay, chú tỉnh rượu liền và biết ḿnh “lảnh thẹo”. Chi phí cho mọi sự qua đi cũng hết cả ba ngàn đô la. Ba ngàn đô la lúc ḿnh mới qua chưa hơn một năm và đi làm mới được vài tháng. Vợ nhằn quá!. Biết sao!? Ham vui cũng có cái giá của nó. Có một điều, chú ngộ ra rằng, bây giờ ḿnh đă lớn tuổi rồi, đâu c̣n thuở sung sức ngày xưa đánh giặc liên miên rồi nhậu cũng liên miên, có sao đâu!? Hồi c̣n ở Trại Tù K1 Vĩnh Phú, khoảng những năm 1979, 1980 không biết từ đâu, những anh em trong tù đồn là,”những bọn tù ḿnh sẽ được Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Liện Hiệp Quốc bốc đi Mỹ, Canada, Úc...”. Những người giỏi tiếng Pháp c̣n tô thêm, “Phủ Cao Ủy Tỵ Nan Liên Hiệp Quốc là le Haut-Commissariat des Nations Unies pour le Réfugiés, viết tắt là HCR”. Tôi khoái nghe ba cái chuyện tào lao nầy nên, thuộc ḷng mấy chữ Pháp, bây giờ viết lại mà không sợ sai. Có nhiều bà, nhiều chị vạn dặm ra “thăm nuôi” chồng c̣n đem theo đôi giày, bộ đồ vét, cái cà vạt và lời dặn ḍ, “anh đi b́nh yên”. “Anh đi b́nh yên”, không phải Mỹ, Canada hay Úc mà “anh đi b́nh yên” dưới ḷng đất Bắc lạnh lùng, khắc nghiệt, không có một nấm mồ. Trong những tột cùng đau khổ và bi ai, con người vượt ra thực tại, lang thang đi t́m mộng để ủy lạo tâm sự. Mộng thường không thực, xa vời, hư ảo...tếu. Những người tù tiếp tục lao động khổ sai, biệt xứ, c̣m cơi tháng ngày xơ xác, lầm lũi...theo số phận an bài. Những bà vợ ở nhà, có người chung thủy keo sơn, có kẻ thiếu kiên nhẫn đợi chờ, bỏ đi. Những đứa con nhẹ t́nh ruột thịt với cha, có khi c̣n oán hận. Đời tù một người chiến sĩ, trăm cay ngàn đắng! Sống đau hơn chết để khỏi sống một đời tang thương. Năm 1984, tôi ra tù từ Trại Tù Z30C Hàm Tân. Đă 9 năm “Giải Phóng”, người ta đem đất nước Việt Nam thụt lùi lại trăm năm văn minh tiến bộ. Tôi đi “Xe Con Chở Khách” về Phan Thiết. Một chiếc xe đ̣ lỡ chạy bằng than củi, cũ kỹ, dơ dáy, nóng...Người trên xe toàn là mấy bà, ngồi chật ních không làm sao nhúc nhích cục cựa. Hàng hóa toàn là “hạ cám” , không có “thượng vàng”, chất nghẹt xe, ngộp thở. Thùng than gắn sau xe đỏ rực, nóng hết sức nóng, thỉnh thoảng phà vài cục than lửa vào xe như muốn đốt cháy cái tàn tích lạc hậu của cái gọi là Xă Hội Chủ Nghĩa, trở về ít nhất cái thời trước “Ngày Giải Phóng”. Hồi đó từ Sài G̣n ra Phan Thiết, chúng tôi đi Xe Đ̣ Hiệp Hưng, mỗi người một ghế bành, ngồi thoải mái. Trong xe có máy lạnh, có TV, có nhạc, có một bịch nước trà đá...Có những chuyện, đố trời mà biết, nếu ai không ở trong cái đất nước thời Việt Cộng phá hết cái văn minh, sự giàu có của Miền Nam Việt Nam đem cái nghèo đói, dốt nát ngoài Bắc vào, gọi là giải phóng. Đường phố Sài G̣n, người dân nghèo đói nằm đầy, lây lất kiếm ăn. Từ khúc đường Minh Mạng nối dài qua Ngả Sáu Chợ Lớn đến Đại Học Xá Minh Mạng, Trường Trung Học Chu Văn An, qua bên kia là Công Viên Văn Lang, người dân sa cơ thất thế từ Vùng Kinh Tế Mới về, sống không ra kiếp sống con người, nếu không muốn nói là cặn bả, rát rưởi bên lề xă hội Sài G̣n đổi đời. Nh́n đồng bào ruột thịt như vậy, hỏi ai không bàng hoàng, không xúc động!? Đă những năm 1985-1988, ở bến xe đ̣ B́nh Triệu, mua vé xe khó biết chừng nào. Xe chạy 8 giờ sáng mà phải sắp hàng lúc 12 giờ khuya vẫn có khi phải về không. Chỗ đứng sắp hàng có thể là người mà cũng có thể là cái ghế, cục gạch, chiếc chiếu...”xi phần” để bán chỗ mỗi cái 5 đồng. Tài xế, lơ xe là ông hoàng, là hung thần gây biết bao nhiêu oan khiên cho chị em phụ nữ buôn chuyến đường dài. Ngày xưa tôi học, “Chủ Nghĩa Cộng Sản nhằm bần cùng hoá nhân dân”, bây giờ mới thấy, sao mà đúng quá. Rơ là, chuyện mấy tay Việt Cộng ngu muội, nói “một ngàn lẻ một đêm” cũng không hết cái dă tâm phá tan đất nước Việt Nam, lẻ ra sánh ngang bằng Đại Hàn, Đài Loan hay ít nhất như Singapore, Thái lan, Nam Dương... đâu tàn tạ như Căm Bốt, Lào...lúc bấy giờ! Nói cho cùng, họ chính là những kẻ thù, là những tên tội đồ của dân tộc, đáng bị lịch sử phết đen mấy chữ ngắn gọn “Việt Cộng là một khối u ác tính, là dấu tích dă man của nhân loại trên đất nước Việt nam”. Cách đây hai năm và mới Thứ Sáu vừa qua, ngày 7 tháng 5 năm 2010 tức ngày 24 tháng 3 năm Canh Dần, thằng con út ra trường Đại Học 4 năm như chị nó, vợ chồng chúng tôi mừng lắm. Nghĩ, nếu không qua đây mà “kẹt” ở Việt Nam th́ tụi nó “làm ǵ trời”! Dẫu không hơn ai nhưng không “băng đảng”, “x́ ke ma túy”, “rượu trà “, “cá độ”, “Casino”, “trai gái lăng nhăng”...là mừng rồi. Ngày hôm qua, tới nhà một anh bạn ăn giổ, gặp hai ông ngồi khoe con, đứa đang học Bác Sĩ, đứa đă ra Bác Sĩ. Họ huyên thuyên không c̣n chỗ nào ḿnh “chun” lời nói vô. Nhưng họ không dám khoe những đứa con “bán trời không mời thiên lôi”. Vợ chồng tôi như đa số anh chị em ở đây, nhà cửa, xe cộ không mắc nợ, cơm ăn đầy đủ , vui vui làm một chai beer, xem TV hay gỏ cọc cọc computer, nh́n các con lành lặn lại có một chút học vấn... là hạnh phúc lắm rồi. Dám ǵ đ̣i hỏi nữa. Có ích kỹ lắm không? Người ta hết sức tội nghiệp, đẻ con ra đă tật nguyền, nhà cửa lại nghèo đói...cái ăn cái mặc c̣n chưa đủ, t́m đâu ra cái học, có ǵ để khoe với khoang. Ḿnh dẫu không nói quá lời nhưng nói quá nhiều, người ta cũng tủi chứ. Tội nghiệp! Những năm tháng đầu qua Mỹ, cứ mùa Football là ḿnh buồn thúi ruột. Mở TV ra là thấy mấy anh chàng Mỹ to con lớn xác, ăn mặc kỳ quái, quăng banh bầu dục rồi ôm nhau vật lộn chất đống mà người coi sao đông quá, hào hứng quá. Ḿnh cứ nghĩ, Football là đá banh chứ. Ai đời, Football là môn chơi lạ quá là lạ, trên trái đất, chỉ có ở cái xứ sở nầy mà thôi. Nhưng dần dần, các con tôi cả trai lẫn gái, lớn và nhỏ, đều mê hết trơn. Nhưng may, không có đứa nào “cá độ”. “Cá độ” Football, Basket ball. Baseball... ở đây đă có đứa tán gia bại sản, có đứa chạy qua Tiểu Bang khác trốn nợ, có đứa vợ chồng ly dị...chớ giỡn sao. Rồi ngày một, ngày hai ham vui với con, tụi nó chỉ cho. Mấy năm nay vợ chồng tôi cũng biết được chút chút. Hóa ra Football quăng nầy lại hay hơn Football đá thời ḿnh ở Việt Nam gọi là túc cầu mà bây giờ Việt Cộng gọi là bóng đá. Chúng tôi cũng biết vui khi đội Dallas Cowboys được “touch down”, “interception” hay không vui chút nào khi Quartback Tony Romo bị “intercepted” hay”sacked”, “fumbled”... Đội Kansas City Chiefs của ông Lamar Hunter dù là đội nhà nhưng, vợ chồng tôi không thích chút nào. Nó càng ngày càng tệ, không muốn coi, nói ǵ ủng hộ, thà Indianapolis Colts, New Orleans Saints...c̣n hơn. Ngày 7 tháng 2 năm 2010 vừa qua, trận Super Bowl lần tứ 44 giữa Saints và Colts. Ai có ngờ, Saints thắng Colts 31/17. Trận nầy sơ sơ có trên 100 triệu người coi. Tiền quăng cáo 3 triệu cho 30 giây. Tổng Thống Obama cũng “mê” huống ǵ dân thường, đă mời các Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ, các viên chức chính quyền vào Toà Bạch Ốc cùng coi cho vui. Super Bowl Ngày Chủ Nhật là ngày hội lớn của người dân Mỹ, có đủ cả trai, gái, già, trẻ, giàu, nghèo, homeless...luôn cả bệnh hoạn cùng vui vầy mà.

Một đời người, người ta cho trọn lỏn trong môt trăm năm là “ba vạn sáu ngàn ngày”. Nhưng mấy ai có được!? Tuổi trẻ th́ không biết ǵ. Tuổi già trên năm mươi đă thấy gần đất xa trời. Tuổi thanh niên, trung niên, người Việt Nam đă bị vùi dập trong thời chinh chiến. Một bầu trời trong xanh, trăng sao, thanh b́nh đâu dễ t́m thấy cho những mối t́nh thơ mộng, lăng mạn. Chiến tranh cay nghiệt luôn len lỏi vào hang cùng ngơ hẻm, rừng sâu, biển thẳm...Tôi biết “chạy tản cư” từ trong bụng mẹ thời Việt-Pháp-Nhật. Cha mẹ dạy trốn đạn dưới hầm trong nhà khi Việt Minh với Pháp bắn nhau lúc chưa tới mười tuổi. Trên đường cái quan, trong các hương lộ mấy lần suưt chết v́ ḿn, lựu đạn của mấy anh du kích của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng. Rồi cái tuổi đẹp nhất hai mươi, ba mươi và kéo qua tới bốn mươi...th́ quân trường, chiến địa và tù đầy. Thêm một chục năm nữa đến cái tuổi năm mươi phải sống cảnh cá chậu chim lồng oan nghiệt trong một xă hội có mị danh và “chơi chữ” là Xă Hội Chủ Nghĩa Chủ Nghĩa Xă Hội vô nghĩa, vô nhân, vô hậu...vô cùng man rợ như kiếp người nô lệ sống thời tiền sử. Những oái oăm, éo le của những mối t́nh trong thời chiến tranh, thấy mà đứt ruột. Thằng bạn tôi đó, hôn thê của nó mười năm t́nh ái, chờ ra Thủ Đức làm đám cưới. Chưa chi, nó đă chết cháy ở Ḥa Tân như đă nói ở trên. Con nhỏ ở vậy suốt đời cho đến bà già góa, chưa bao giờ có một tấm chồng. Sự sống và cái chết, lằn ranh mỏng manh quá đến nỗi nụ cười, tiếng khóc vẫn c̣n h́nh dáng, dù đă ra người thiên cổ từ hồi nào. Bạn bè không nói đâu xa, chỉ thời Trung Học Phan Bội Châu Phan Thiết và Trung Học Chu Văn An Sài G̣n hằng ngàn đứa, bây giờ đếm trên đầu ngón tay. Chiến tranh ngoại lai đă giết chết tụi nó hết trơn. Chiến tranh vô lư hết sức, tụi nó dù bạn bè, dù anh em ruột thịt, đă quây đầu súng bắn chết nhau. Sự chia ĺa, ly tán là tan thương xiết kể. Anh em, bà con thân thuộc hằng ngày vẫn thấy nhau như kẻ thù truyền kiếp trong cái “nề nếp” giáo điều Cộng Sản đă đi vào lịch sử loài người như những trang kỳ quái nhất của nhân loại. Ngồi đây, nghĩ đến những đứa bạn ngày xưa “chịu chơi” ngoài mặt trận, bây giờ không c̣n tay, không c̣n chân, không c̣n mắt...Một thằng em bạn, ngồi rung cặp đùi cụt: “Ngày xưa xả thân v́ nước. Ngày nay bán nước nuôi thân”. Họ c̣n đó là những ám ảnh nỗi đau không rời. Họ không đau v́ làm thương binh chứ đâu là phế binh, mà đau v́ bắt phải buông súng“đầu hàng vô điều kiện”. Bây giờ chung đụng với kẻ thù cao ngạo, ngang ngược, xách mé, miệt thị bằng nửa con mắt. Đau lắm! Nhục. lắm! Chưa nói, họ làm ǵ, làm sao để mà sống cho chỉ cá nhân ḿnh, nói ǵ vợ, con, cháu, chắt...Người anh cột chèo, Đại Úy Pháo Binh, giải ngũ từ năm 1968, hiện đang sống ở Việt Nam, thường tâm sự: “trước nghịch cảnh, ḿnh muốn tự tử nhưng, không đủ can đàm. Thường đêm thắp nhang van vái, xin ông bà linh thiêng cho ḿnh “đi” sớm. Có lẻ số c̣n chịu “kiếp đọa” nên anh vẫn sống ĺ trên thế gian đầy oan khốc. Chú may qua Mỹ, cũng nhờ ơn trên. Dẫu ǵ, cũng không chung đụng với Bọn Đầu Trâu Mặt Ngựa”. Ảnh thường kêu tụi Việt Cộng là “đầu trâu mặt ngựa” từ sau Hiệp Định Genève năm 1954, bỏ Bắc vào Nam. Đất nước Việt Nam không may nằm sát bên Tàu quá to lớn và tham lam mà phải bị gần một ngàn năm thống thuộc. Và cũng gần một trăm năm bành trướng thuộc địa và Đạo Thiên Chúa mà Việt Nam bị người Pháp đô hộ. Năm mươi sáu năm kể từ 1954 đến nay, đất nước Việt Nam vô phước lại bị những thằng, những con “ngụy danh” chuyên chính vô sản đem thụt lùi tiến bộ cả năm mươi năm, chưa nói đến, tụi nó tàn sát đồng bào ruột thịt của ḿnh c̣n dă man hơn Giặc Tàu, Giặc Tây, Giặc Nhật. Ôi Việt Nam, bao giờ thôi chinh chiến!? ./.

NGUYỄN THỪA B̀NH



 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại