Phạm Tín An Ninh
Phạm Tín An Ninh: Sinh ra và lớn lên tại Khánh Ḥa, Tuổi Quư Mùi.
Mất mẹ lúc 3 tuổi, nên sống với ông bà nội. Lúc nhỏ, theo học tại
trường Trung học Văn Hóa và Vơ Tánh Nha Trang. Nhập ngũ: Khóa 18 SQ
Trừ Bị Thủ Đức. Phục vụ tại Sư Đoàn 23 BB. Sau tháng 4/75: Đi tù tại
các trại tù Nam và Bắc Việt Nam.(Thân sinh cũng bị đi tù và chết
trong tù cải tạo vào tháng 6/1976). Vượt biên, định cư tại Vương
Quốc Na-Uy từ năm 1984. Đi học và làm việc trong ngành Ngân Hàng Bưu
Điện. Về hưu từ đầu năm 2008. Tác phẩm: Ở Cuối Hai Con Đường (2008),
Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân (sẽ xuất bản)
1-Mallorca, một ḥn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong
quần đảo Balearic. Trước khi đến đây, v́ nghĩ là đảo, nên tôi tưởng
chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng
tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường Palma rộng lớn,
kiến trúc tân kỳ, sang trọng c̣n hơn nhiều phi trường quốc tế khác
mà tôi đă từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca, nằm
trên một dăy đồi cao nh́n xuống biển xanh. Đặc biệt khu nhà thờ
Cathedral nằm bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến trúc độc
đáo, nổi tiếng theo kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.
Chiếc xe bus của công ty du lịch đưa chúng tôi đi qua vài thành phố
cảng, sang trọng và sầm uất, nằm dọc theo bờ biển, để đến Alcudia,
khu nghỉ mát nằm phía đông bắc Palma chừng ba giờ xe. Chúng tôi chọn
nơi này, v́ bờ biển đẹp, một cái vịnh nhỏ, nằm khuất sau dăy núi
Victoria, nên không có sóng và khá an toàn cho trẻ em. Những em bé
năm, sáu tuổi có thể lội ra cách bờ 50-60 mét.
Thực ra kỳ nghỉ hè này chỉ là món nợ mà vợ chồng tôi phải trả cho
con bé cháu nội. Trước đây hai năm tôi hứa với cô bé là sẽ thưởng
một kỳ nghỉ hè hai tuần lễ ở Mallorca nếu nó đọc và viết được tiếng
Việt. Chúng tôi ở trong một khách sạn, đi bộ ra biển chừng vài phút.
(Đa số khách sạn ở vùng này giống như những khu apartment, mỗi pḥng
trọ, ngoài các pḥng ngủ, c̣n có pḥng khách và bếp với đầy đủ dụng
cụ nấu ăn). Ở Bắc Âu thời tiết lạnh đến bảy, tám tháng, không có
nhiều dịp được ra biển tắm, nên con bé cháu nội rất mê biển. Sáng
nào, mới vừa thức dậy, con bé cũng giục ông bà nội ra biển, măi đến
chiều, khi trời sắp tắt nắng mới chịu trở về. Đă vậy khi về đến
khách sạn, cô bé c̣n xin được tiếp tục bơi lội trong hồ tắm của
khách sạn đến tối mịt mới chịu vào pḥng. Trong khi bà xă làm thức
ăn, tôi có nhiệm vụ ngồi trên bờ hồ trông chừng con bé.
Ở đây, hầu hết khách du lịch đến từ Âu Châu, đa số là người Bắc Âu
và Đức. Suốt tuần lễ đầu tiên, tôi không gặp người Á châu nào, ngoại
trừ gia đ́nh người Tàu làm chủ một nhà hàng buffet, sinh sống ở đây
đă lâu năm. Một hôm, khi nằm trên chiếc ghế dựa bên hồ tắm nh́n
trời, bất ngờ nghe cô bé cháu nội nói chuyện bằng tiếng Việt với một
người nào đó. Nh́n xuống hồ tôi nhận ra một cô gái tóc đen đang tắm
và đùa giỡn với con bé. Thấy tôi nh́n, cô gái lạ đưa tay vẫy, và nở
một nụ cười chào tôi. Giữa một nơi xa lạ, người đồng hương dễ quen
nhau.
Trưa hôm sau, trong lúc vợ chồng tôi nằm trốn nắng dưới cây dù lớn
ngoài băi tắm, con bé cháu nội dắt tay cô gái đến chào chúng tôi. Cô
gái tự giới thiệu tên ḿnh là Lam Khê, khoảng chừng 19, 20 tuổi,
khuôn mặt khá xinh và đôi mắt thật to, tự nhiên dễ mến. Nhưng điều
làm tôi chú ư chính là cái tên Lam Khê, trùng hợp với một địa danh
vẫn c̣n đậm trong kư ức, cho dù cuộc đời thăng trầm đây đó của tôi
c̣n có biết bao nhiêu cái tên để nhớ.
Buổi chiều, khi vợ chồng tôi và cô bé cháu nội đang ăn tối trong nhà
hàng buffet của một người chủ gốc Tàu, th́ bất ngờ thấy Lam Khê đi
vào cùng với một người đàn bà Việt Nam và một người đàn ông ngoại
quốc. Có lẽ Lam Khê đă kể về chúng tôi, nên cả hai người đến chào và
bắt tay chúng tôi. Khi đứng lên bắt tay bà mẹ, tôi bất ngờ đến giật
ḿnh khi nhận ra người đàn bà này chính là người mà tôi vừa nghĩ tới
sáng nay khi gặp Lam Khê. Trong khi tôi đang ngạc nhiên về những
cuộc hạnh ngộ bất ngờ trong đời ḿnh, th́ bà nở nụ cười giới thiệu
người đàn ông ngoại quốc đi bên cạnh:
-Đây là ông xă em. Anh người Đức. Chúng em sống ở thành phố Hamburg.
Tôi đưa tay bắt tay và gật đầu chào người đàn ông, nhưng lại hỏi bà:
-Xin lỗi, tên bà có phải là Hà Giang?
-Sao ông bà biết tên tôi? Người đàn bà trố mắt nh́n chúng tôi ngạc
nhiên.
-Không ngờ tôi lại gặp bà ở đây - Tôi vừa nói vừa kéo ghế mời cả ba
người- Hóa ra chúng ta đă từng gặp nhau. Chúng tôi xin được mời ông
bà và cháu Lam Khê.
Bà ngồi xuống bên cạnh vợ tôi, nét ngạc nhiên vẫn c̣n nguyên trên
mặt. Để đánh tan không khí căng thẳng, tôi giải thích:
- Tôi biết bà khi tôi đang ở tù ngoài miền Bắc. Sáng nay khi gặp và
biết tên cháu Lam Khê, tôi đă nghĩ ngay đến bà. Bởi cái tên Lam Khê,
tôi và đám bạn tù không thể nào quên. Không ngờ bây giờ lại gặp bà ở
đây. Xin cám ơn t́nh cảm và ḷng tốt của bà đă dành cho chúng tôi
trong những ngày sa cơ khốn khó.
Bà nh́n tôi ḍ xét. Suốt bữa ăn, chúng tôi nhắc lại những ngày vui
buồn ở vùng núi xa xăm ấy. Trong khung cảnh vui vẻ, nhưng nh́n khuôn
mặt và nụ cười không trọn, tôi có cảm giác bà ta đang ưu tư một điều
ǵ đó.
Lam Khê, cái tên khá đẹp đó lại là một khu núi rừng Thanh Hóa, tiêu
điều hoang vắng, nằm sát biên giới Lào-Việt, mà bọn tù “cải tạo”
chúng tôi bị đưa đến đây để phát rừng trồng cây, xây dựng một lâm
trường, trong một mùa hè nắng và gió Lào muốn cháy cả thịt da.
Ngày đầu mới đến, giữa một khu núi rừng xa xôi hẻo lánh, chúng tôi
chỉ thấy có hai căn nhà lá cọ vừa mới dựng lên, trong đó chỉ có vài
người ở. Họ được giới thiệu là “những bảo vệ và cán bộ lâm trường”.
Điều làm chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú là sự có mặt của một
cô con gái trẻ, trông dáng dấp e ấp thư sinh, mà lại là “thủ trưởng”
toàn bộ lâm trường này. Tôi nhớ một câu ví von của người nào đó:
“Hoa lạc giữa rừng gươm”!
Cả đội tù chúng tôi trên sáu mươi người được lệnh ngồi trên một băi
cỏ bên b́a rừng, để “nghe nữ đồng chí giám đốc lâm trường lên lớp”.
Mặc một bộ đồ công nhân màu xanh, rộng thùng th́nh, khuôn mặt không
một chút phấn son, nhưng trông khá xinh với đôi mắt thật to và buồn.
Cô chào chúng tôi bằng một nụ cười, nói năng từ tốn, tự giới thiệu
tên là Hà Giang, trước khi nói về địa thế, đặc tính khu rừng, cách
thức phát hoang và phương pháp an toàn. Cô gọi chúng tôi là các chú
và xưng ḿnh là em. Sự kiện chưa từng thấy trong những năm tù. Cuối
cùng cô nhờ anh đội trưởng cắt cử cho cô năm người để cô hướng dẫn
việc đo đạc, cấm cọc, căng giây. Tôi được may mắn nằm trong năm
thằng được chọn.
Dường như từ ngày có chúng tôi, đôi mắt của cô trông bớt buồn hơn.
Nhiều lúc cô đùa giỡn rất thân t́nh. Mỗi ngày năm đứa chúng tôi theo
cô vào rừng để đo đạc. Những lúc ấy cô thường ngồi tâm t́nh. Cô kể
về đời ḿnh và thường hỏi mỗi người chúng tôi về hoàn cảnh cha mẹ,
vợ con ở quê nhà. Nghe chúng tôi kể sự gian truân của gia đ́nh cùng
nỗi nhớ thương vô vọng, nhiều lần cô đă lau nước mắt. Thấy một anh
đeo trên cổ tấm ảnh của vợ lồng trong mảnh gỗ mun nhỏ, cô xin được
xem rồi bảo nhỏ “các chú thật chung t́nh”.
Hà Giang là một sinh viên giỏi, được gửi sang Đông Đức học về Lâm
Nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trở về đúng vào lúc đảng Cộng Sản phát
động phong trào “trí thức đi thực tế”, cô được đưa lên Lào Cai,
hướng dẫn những người dân tộc trồng và bảo vệ rừng. Mới đến Lào Cai
vài tháng, chưa quen với khí hậu khắc nghiệt và tập quán địa phương,
th́ giặc “bành trướng” Trung Quốc tràn qua biên giới. Rất may mắn,
lúc ấy cô đang về học một lớp chính trị ở Hà Nội, nên thoát nạn và
được Bộ điều vào Thanh Hóa để thành lập lâm trường mới. Đó chính là
lâm trường mà chúng tôi đang có mặt. Thực ra đây chỉ là một vùng núi
rừng hoang vắng, với ban điều hành gồm năm người, do cô làm giám
đốc, cơ sở chỉ là hai căn nhà lá, công nhân là 60 thằng tù khổ sai
bọn tôi, và dụng cụ chỉ có toàn dao phát rừng và vài cái cuốc chim!
Một hôm, thấy thấp thoáng một người đàn ông lạ, chúng tôi hỏi cô.
Ngập ngừng một lúc th́ cô mới buồn bă tâm sự. Người đàn ông ấy là
một công nhân máy kéo tiên tiến, đang phục vụ ở một lâm trường khác,
cách nơi này hơn hai mươi cây số, có nhiều tuổi đảng, được đảng bộ
sắp xếp để lâp gia đ́nh với cô, làm gương cho kế hoạch “trí thức
cùng chung sống với công nhân” của đảng mới đề ra. Mục đích làm cho
đám công nhân ít học, phấn khởi trước sự ưu ái của đảng, đem hết sức
lực ra phục vụ và trung thành với đảng. Đây cũng là “phần thưởng” để
cô được bổ nhậm về lâm trường mới này với chức danh giám đốc!
Chúng tôi ngạc nhiên, v́ gă công nhân tiên tiến này trông lớn hơn cô
nhiều tuổi, rổ mặt, đen đủi, cục mịch. Không có điều nào hợp với cô
con gái có học và dễ thương này. Cô c̣n bảo là trong trái tim cô,
không hề có một ngăn nhỏ nào dành cho anh ta, nhưng không dám làm
trái ư đảng, sẽ bị kỷ luật nặng, v́ vậy cô phải gật đầu, nhưng t́m
cách tŕ hoăn đám cưới được ngày nào hay ngày ấy. Cô nói là cô đang
trong thời kỳ “nín thở qua sông”!
Mặc dù có cảm t́nh và tội nghiệp cô, nhưng chúng tôi luôn “đề cao
cảnh giác” không dám nói điều ǵ. V́ kinh nghiệm cho chúng tôi biết,
Cộng Sản luôn gài nhiều cái bẫy chung quanh, và chuyện “mỹ nhân kế”
không phải bây giờ mới có. Một hôm, trong lúc ngồi nghỉ trưa, cô lấy
ra từ chiếc bao nhỏ, mời chúng tôi mỗi người một củ khoai lang luôc,
rồi buột miệng hỏi:
-Nghe nói các anh ở trong trại bị bọn công an hành hạ dữ lắm phải
không?
- Bọn tôi là những người thua trận, th́ chuyện bị tù đày, hành hạ
cũng là lẽ thường t́nh - Một anh bạn tù trong bọn tôi trả lời.
Cô trầm ngâm giây lác rồi lên tiếng:
- Theo em th́ trong cuộc chiến ấy, tất cả chúng ta, miền Bắc và miền
Nam, chẳng có ai chiến thắng. Chỉ có những kẻ ngu muội, luôn cúi đầu
làm tay sai ngoại bang, mà cứ tưởng là ḿnh đại thắng, để cầm tù và
hành hạ lẫn nhau thôi. Chỉ trong các nước Cộng Sản mới có chuyện lạ
đời: một lũ ngu dốt lại được giao trách nhiệm “giáo dục, cải tạo”
những người trí thức, mà đ̣i hỏi người ta phải tiến bộ tốt! Khôi hài
thật!
Bọn tôi chỉ im lặng. Những lần nói chuyện sau đó cô thường bảo là cô
rất ghê tởm cái đảng Cộng sản, nhưng muốn chống lại hay thoát ra,
phải trả bằng mạng sống, có khi làm khốn khổ cho cả gia đ́nh. Điều
làm chúng tôi vui là được lao động thoải mái, không cần phải đạt một
chỉ tiêu nào, và thường được cô cho bồi dưỡng bằng khoai, có khi ḿ
sợi. Anh em nào có áo quần dân sự hay khăn tắm mang theo, Cô nhận
mang đi đổi lấy gạo, đường hay vài loại thực phẩm khác.
Lâm trường mới khởi công vừa được hơn ba tuần th́ trại tù có lệnh
biên chế. Tôi bị chuyển sang một trại mới, tiếc nuối những ngày lao
động tương đối thoải mái, hiếm hoi trong gần bảy năm tù.
2- Chiều hôm sau, khi dắt con bé cháu nội ra hồ tắm trong khách
sạn,tôi bất ngờ gặp Hà Giangvà cô con gái Lam Khê. Hai mẹ con đang
nằm trên ghế đọc sách. Thấy tôi, Hà Giang ngồi dậy, mời tôi ngồi vào
ghế bên cạnh và vui vẻ bảo Lam Khê xuống hồ bơi và chơi đùa với con
bé cháu nội của tôi, dặn ḍ trông chừng con bé, và có nhă ư muốn đến
pḥng trọ thăm bà xă của tôi.
Chúng tôi mời cơm, nhưng bà từ chối, chỉ xin uống trà. Khi tách trà
vừa cạn, bà đề nghị chúng tôi cứ gọi bà bằng cô và đột ngột hỏi tôi:
- Anh c̣n nhớ anh Đôn không ?
Thấy tôi chau mày, bà nói thêm như để xác định:
- Trần Chánh Đôn!
Tôi hỏi lại:
- Đôn pilot, cùng toán đo đạc với tôi lúc làm việc với cô ở lâm
trường?
Hà Giang gật đầu, không nói. Một lúc, tôi thấy bà đưa khăn tay lau
nước mắt. Và sau đó, vợ chồng tôi ngồi nghe tâm sự của bà:
- Anh Đôn đă chết rồi! Tất cả là do lỗi của em. Chính em đă cung cấp
cho anh Đôn thực phẩm, thuốc men, tấm bản đồ và một chiếc la bàn, em
lấy của lâm trường khi ấy, và chỉ vẽ cho anh cách thức trốn khỏi lâm
trường cùng với ba người bạn tù khác. Với tấm bản đồ, cái la bàn và
sự hướng dẫn tường tận của em, em tin chắc là các anh ấy đă dễ dàng
trốn được qua khỏi biên giới. Không ngờ sau hơn ba tuần, khi em đang
khấp khởi mừng thầm th́ được tin tất cả đều bị bắt tại Lào. Em như
muốn quỵ xuống, mất ăn mất ngủ, nhưng cũng cố giữ b́nh tĩnh t́m cách
hỏi một số cán bộ công an trại giam. Họ cho biết là tất cả bốn anh
đều bị công an bắn chết trên đường dẫn độ từ Lào về trại, bởi các
anh đă chống cự để t́m cách thoát thân. Mặc dù tin tưởng vào thái độ
kiên cường và tư cách của các anh, dù có tra tấn thế nào các anh
cũng sẽ không khai ra sự tiếp tay trợ giúp của em, nhưng em vẫn lo
sợ bị liên lụy, nếu họ phát hiện tấm bản đồ và cái la bàn của lâm
trường th́ hậu quả khôn lường, nên em đă khẩn trương chạy về Bộ, năn
nỉ và hối lộ tất cả số tiền dành dụm để ông Thứ Trưởng cho em được
trở lại Đông Đức hai tuần, đệ tŕnh cho trường đại học cũ một số
nghiên cứu mà em vừa viết xong, sau hơn một năm tốt nghiệp và ra
thực tế ngoài lâm trường. May mắn em được ông ta gật đầu, và liên
lạc can thiệp bên ṭa đại sứ Đức cấp visa sớm. Chỉ hơn mười ngày là
em rời khỏi nước. Tất nhiên đó chỉ là cái cớ. Sau khi sang Đức, em
trốn lại ở nhà vợ chồng người bạn Đức mà em quen thân lúc c̣n học ở
đây. Ông chồng em mà anh chị gặp tối hôm qua trong quán ăn, là anh
ruột của cô bạn thân này. Anh ấy đă hết ḷng lo lắng và chở che em.
Rời khỏi Việt Nam, ngoài quê hương và gia đ́nh, em c̣n mang theo
h́nh ảnh của anh Đôn. Xin anh chị đừng ngạc nhiên, em yêu anh ấy!
Ngoài sự hiểu biết, đẹp trai với nụ cười độ lượng, em c̣n nh́n thấy
bên trong của anh Đôn là sự thủy chung và ḷng tự trong, có cả một
chút nghệ sĩ lăng mạn nữa.Thời gian làm việc bên nhau, trong khu núi
rừng Lam Khê ấy, em đă học được ở anh rất nhiều điều hay, nghe anh
hát những bản t́nh ca, đọc những bài thơ lăng mạn, tuyệt vời. Trái
tim em lần đầu tiên biết rung động. Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong
một hoàn cảnh quá nghiệt ngă. Điều duy nhất mà em có thể làm được
cho người yêu của ḿnh là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung
cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh
đang có. V́ chính những điều ấy đă làm cho trái tim em rung động, để
em biết thế nào là một t́nh yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt
cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt
nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số
phận, mà trước đó em nghĩ là sẽ tới một ngày em sẽ phải đầu hàng,
buông xuôi, bất lực.
Hà Giang ngưng lại, lau tiếp những giọt nước mắt chảy dài trên g̣
má. Tôi rót thêm trà mời cô.
Bà xă tôi hỏi:
- Cô có giữ tấm ảnh nào của anh Đôn?
- Tiếc là khi ấy anh Đôn không có tấm ảnh nào hết. Anh có cho em địa
chỉ của bố mẹ anh ở thành phố Nha Trang, nhưng em gởi mấy cái thư về
địa chỉ ấy đều bị trả lại, với lư do: người nhận không c̣n ở tại địa
chỉ này. Nghe nói bố mẹ anh đều là thầy giáo, không biết có bị đi
vùng kinh tế mới hay không?
Tôi đưa tay ngăn lời cô:
- Cô c̣n nhớ địa chỉ ấy không? Chúng tôi cũng đều là người gốc Nha
Trang. Tôi có thể hỏi thăm tin tức cho cô. Nhân tiện chúng tôi cũng
muốn biếu cha mẹ anh ít tiền, v́ Đôn cũng là bạn tù của tôi.
Hà Giang chau mày:
- Lâu quá, nên em quên, nhưng có thể em c̣n giữ ở nhà. Em xin địa
chỉ e-mail để gởi đến anh chị, nếu em t́m lại được. Em thiết tha
muốn gặp bố mẹ anh Đôn, nếu các người c̣n sống.
Thực ra chuyện Hà Giang yêu Đôn, cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nhiều
lắm. Đúng như Hà Giang nói: Đôn là một phi công trẻ. Bao nhiêu năm
trong cảnh khốn cùng, đă không làm mất đi nét đẹp trai, tính nghệ sĩ
và tư cách của Đôn. Bạn tù ai cũng quí mến. Chuyện Đôn cùng ba người
bạn tù khác trốn trại, khi tôi đă bị chuyển đi trại khác hơn tám
tháng, sau này ra hải ngoại, tôi có nghe đám bạn bè kể lại, nhưng
mỗi người mỗi cách.
Chỉ hơn một tuần về lại nhà, sau kỳ nghỉ hè khá thú vị, nhất là bất
ngờ gặp lại Hà Giang, hồi tưởng lại một thời tù đày, tôi nhận được
e-mail của Hà Giang gởi thăm, có ghi địa chỉ của ông bà Trần Chánh
Nghị, cha mẹ Đôn, ở Nha Trang.
Tôi viết thư nhờ người bạn thân c̣n ở lại Nha Trang, t́m đến địa chỉ
nhà Đôn mà Hà Giang vừa mới cho. Tôi cũng cho anh bạn biết là gia
đ́nh Đôn đă dọn đi nơi khác, nhưng từ đó hỏi thăm biết đâu có thể
t́m ra manh mối.
Sau gần hai tháng, tôi nhận được thư hồi âm của người bạn cũ. Một
đoạn trong thư làm tôi bất ngờ, nhưng sáng lên hy vọng:
“Đúng như mày viết, gia đ́nh người này đă dọn đi khá lâu rồi. Nhưng
có người láng giềng cho biết là ông bà chủ nhà đă qua đời hơn hai
mươi năm nay. Ông bà chỉ có người con trai duy nhất bị tàn tật, h́nh
như là đang đi tu ở một ngôi chùa nào đó. Tao ḍ t́m khắp nơi theo
lời kể khá mơ hồ của những người hàng xóm, đến nay vẫn chưa gặp
được...“
Tôi đọc đi đọc lại ḍng chữ “Ông bà chỉ có người con trai duy nhất“,
rồi chạy ra ngân hàng gởi một ít tiền cho người bạn, kèm theo lời
nhắn: Mày cố gắng mọi cách t́m gặp người con trai này, và hỏi có
phải tên là Trần Chánh Đôn. Có ǵ ra bưu điện gọi điện thoại cho tao
biết.
Tôi nôn nao chờ đợi, bỗng một hôm, lúc nửa đêm, điện thoại reo. Bốc
ống nghe lên, tôi vui mừng và hồi họp khi nghe tiếng của người bạn
từ Việt Nam:
“Tao đă t́m được anh ta. Đúng là Trần Chánh Đôn. Bây giờ là đại đức
Thích Thiện Ḥa. Anh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ, nằm dưới triền
núi, phía trên đèo Ngoạn Mục, đèo Bellevue đó, thuộc quận Đơn Dương,
cách Đà Lạt gần bốn mươi cây số. Chùa do người bác ruột xây dựng và
làm trụ tŕ. Tội nghiệp, ông Thiện Ḥa bị mù một con mắt và què cả
hai chân, nhưng khuôn mặt trông đẹp và phúc hậu lắm. Tao nghĩ là ông
không bao giờ rời khỏi chùa, v́ từ dưới chân núi đi lên, tao đếm hơn
năm mươi bậc tam cấp.“
Tôi viết e-mail cho Hà Giang, báo cho cô cái tin bất ngờ này. Đắn đo
măi, cuối cùng mới quyết định nói thật mọi điều. Nhớ lại nhiều lần
cô lau nước mắt khi kể về Đôn với vợ chồng tôi ở Mallorca, tôi nghĩ
là cô sẽ đau ḷng lắm khi nhận được tin này.
Sáng hôm sau tôi nhận e-mail hồi âm của Hà Giang:
“Anh Chị ơi.
Em đă khóc hết nước mắt khi nhận được tin anh Đôn. Suốt cả đêm hôm
qua em không thể nào chợp mắt. Em phải xin nghỉ làm hôm nay, và bây
giờ ḷng dạ cứ thẫn thờ. Không thể ngờ là anh Đôn vẫn c̣n sống. Em
vừa mừng nhưng cũng vừa đau ḷng lắm, khi biết anh đă bị mù một mắt
và tàn phế cả đôi chân.
Suy nghĩ măi, em mới dám nói ra điều này với anh chị, v́ anh cũng là
bạn của anh Đôn và với em như là một người anh, người chú.
- Cháu Lâm Khê, đứa con gái mà anh chị đă gặp ở Mallorca, chính là
giọt máu của anh Đôn. Trước ngày chia tay, để anh ra đi, chúng em có
đôi ngày hạnh phúc ngắn ngủi trong rừng, em tự nguyện dâng hiến cho
anh, thay cho lời hẹn ước, là dù góc biển chân trời nào, dù có phải
trải qua bao nhiêu giông băo, chúng em cũng sẽ t́m gặp để đoàn viên.
Nhưng rồi ông trời đă hại em, v́ em cứ đinh ninh là anh ấy đă chết.
Để tang cho anh đến sáu năm, em mới lấy ông chồng này, đền đáp ḷng
yêu thương và cưu mang đùm bọc của ông khi em thân cô trôi dạt xứ
người. Bây giờ biết được anh Đôn c̣n sống, nhưng đă trở thành một vị
đại đức, em vừa hối hận vừa băn khoăn, không biết phải làm sao. Em
tha thiết xin anh chị cho em một lời khuyên, để em biết ḿnh sẽ phải
làm ǵ. Bây giờ chắc anh ấy chẳng cần một sự giúp đỡ vật chất nào,
nhưng c̣n Lam Khê, dù sao nó cũng l giọt máu của anh. Làm thế nào để
cha con nhận ra nhau? Lam Khê cũng nghĩ là ba nó đă chết. Thỉnh
thoảng cháu hỏi em về ba nó. Cháu thương và hănh diện về ba cháu
lắm.“
3-Cuối cùng, vợ chồng tôi bàn tính măi nhưng cũng không t́m ra một
lời khuyên nào để giúp Hà Giang, ngoài việc hỏi cô nếu muốn gặp Đôn,
vợ tôi có thể giúp cô, cùng về Việt Nam, v́ vợ tôi sống ở Nha Trang
khá lâu, lại có thằng bạn thân ở đó, biết rơ đường đi đến vùng núi
Đơn Dương, Đà Lạt, nơi có ngôi chùa.
Không ngờ Hà Giang mừng rỡ đón nhận đề nghị này, và xin vợ tôi về
Việt Nam ngay trong tuần để đón giùm mẹ con cô tại phi trường Tân
Sơn Nhất. Đây là lần đầu tiên cô bước chân đến miền Nam Việt Nam. Số
chuyến bay và giờ đến phi trường, cô sẽ cho biết sớm.
Và dưới đây là lời kể của vợ tôi, về cuộc trùng phùng:
...Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà
khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất
là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha
con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đ́a nước mắt. Thầy đem cả
triết lư đời và đạo để an ủi, khuyến khích và hướng dẫn Lam Khê bước
đi trong cuộc sống có quá nhiều muộn phiền và bất trắc. Thầy nói
thật hay và cảm động.
Thầy kể lại chuyện trốn tù, lư do v́ sao bị bắt, chuyện thầy bị đánh
vỡ một con mắt và bị bắn nát hai bàn chân chỉ v́ thầy nhất định
không khai người nào đă giúp thầy cùng ba người bạn tù trốn trại một
cách tài t́nh mà chúng nghi ngờ, mặc dù thầy đă kịp giấu tấm bản đồ
và cái la bàn dưới một tảng đá trước khi bị bắt. Họ không đưa về
trại cũ mà giao cho một trại tù khác. Bị biệt giam ở đây đến mấy năm
mà thầy chẳng biết v́ sao không chết. Hà Giang ngồi khóc nức nở.
Sau khi mọi người t́m lại được sự b́nh tĩnh, Hà Giang xin cúng dường
cho chùa một số hiện kim, nhưng thầy Thiện Ḥa từ chối, bảo là nhà
chùa không cần một số tiền lớn như vậy. Hà Giang tha thiết xin được
đưa thầy đi sang Đức làm đôi chân giả và thay con mắt mù ḷa, thầy
cũng chối từ, bảo thầy đă quen rồi với những mất mát ấy, hơn nữa bây
giờ thầy đă tu hành, năm tháng chỉ quanh quẩn trong chùa, không cần
thiết phải đi đó đi đây. Thầy có mở một lớp học dạy các em học sinh
nghèo hiếu học trong vùng, nhưng pḥng học là gian nhà trống vách
ngay phía sau chùa.
Đêm cuối cùng ở Nha Trang, Hà Giang quyết định đổi vé máy bay, ở lại
một thời gian nữa. Cô cho biết là mẹ con cô sẽ cố gắng thuyết phục
Đôn, để mua cho anh cái xe lăn, xin được xây lại ngôi chùa mới, thay
những bậc tam cấp bằng con đường lát đá, đặc biệt phía sau chùa, từ
gian pḥng Thầy dạy học nh́n ra, đă có sẵn khu rừng với ít hoa dă
quỳ, cô sẽ cho sửa sang lại thành một khu vườn đẹp đẽ, trồng thêm
hoa, làm suối nước, và xin đặt tên là Lam Khê Viên, v́ chữ Lam nghe
cũng hợp với khung cảnh chùa chiền...
Khi ngồi viết những ḍng này, tôi không biết là những điều mong ước
của Hà Giang có được thầy Thích Thiện Ḥa chấp nhận hay không, và
cuộc t́nh đẹp và bi tráng này có c̣n sống măi trong ḷng mỗi người
cho đến thiên thu.
Phạm Tín An Ninh
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại