Tác giả: Nguyễn Kiến Việt
Tác giả, theo bài viết, là con trai một gia đ́nh H.O. Sau đổi đời
1975, khi ông bố sĩ quan đi tù cải tạo, bà mẹ công chức VNCH, trở
thành “bà bán chợ trời” rồi “tiến lên” làm bà bán thuốc lá lẻ. Bài
viết về nước Mỹ đầu tiên của ông kể chuyện lá cờ vàng, không phải ở
Mỹ mà là ở Việt Nam sau Tháng Tư 1975, với nhiều t́nh tiết đặc biệt.
Mong Nguyễn Kiến Việt sẽ tiếp tục viết thêm.
Mẹ tôi chỉ là một thư kư thường cho một công sở ở Sài G̣n trước năm
1975. Vào cái trưa ngày 30 tháng 4, 1975, khi biết chắc miền Nam đă
thất thủ và Việt cộng đang từ từ tiến vô Sài G̣n, mẹ tôi lặng lẽ mở
tủ lấy lá cờ quốc gia, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt vàng
bạc trong các dịp cúng giổ trong gia đ́nh, rồi đem xuống bếp, thắp
ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt. Lúc đó chúng
tôi cũng biết việc cất giữ những ǵ thuộc về chế độ cũ sẽ mang tới
tai họa cho gia đ́nh, huống chi là lá cờ quốc gia, nên mẹ tôi phải
đốt đi; nhưng những điều mà mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn
vái trước khi đốt lá cờ mang một ư nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi
không quên được.
Mẹ tôi nói: "Biết bao nhiêu anh chiến sĩ quốc gia đă chết dưới lá cờ
ni, chừ v́ thời thế mà ḿnh phải đốt đi, ḿnh cũng phải xin phép
người ta một tiếng!"
Thế rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản bắt đầu đến với
người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đ́nh khác, gia đ́nh tôi ngơ
ngác, bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của Việt
cộng. Hết "chiến dịch đổi tiền", "chính sách lương thực, hộ khẩu",
đến "chính sách học tập căi tạo đối với ngụy quân, ngụy quyền",
"chiến dịch đánh tư sản mại bản", "chính sách kinh tế mới",.. và
nhiều nữa không kể hết. Ai nói Việt cộng ngu ngốc, chứ riêng tôi th́
thấy họ chỉ vô đạo đức và kém văn hóa, kỹ thuật; chứ thủ đoạn chính
trị th́ thật cao thâm! Chính sách nào của Việt cộng cũng làm cho
người dân miền Nam khốn đốn, d́m sâu con người đến tận bùn đen.
Đầu tiên là "chiến dịch đổi tiền", họ phát cho mổi gia đ́nh một số
tiền bằng nhau, như vậy mổi gia đ́nh đều nghèo như nhau, không ai có
thể giúp ai đươc. Họ tuyên bố vàng, bạc, quư kim, đá quư là thuộc
tài sản của Nhà Nước, ai mua, bán, cất giữ th́ bị tịch thu. Kế đến
là "chính sách hộ khẩu", tức là mổi gia đ́nh phải kê khai số người
trong gia đ́nh để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo
mốc) theo tiêu chuẩn, nghĩa là mổi người (mà họ gọi là "nhân khẩu")
được 13 kg lương thực mổi tháng.
Bao vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, Việt cộng sau đó c̣n ban hành lệnh
cấm người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang
vùng khác, bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu.
Thành thử các vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc
bấy giờ cũng không thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều
bà nội, ngoại phải giấu gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành
phố nuôi con cháu bị bệnh hoạn, đau ốm, ...
Như vậy là họ đă h́nh thành một cái chuồng gia súc-người khổng lồ,
con vật-người nào ngoan ngoăn th́ được cho ăn đủ để sống, con nào đi
ra khỏi cái chuồng đó th́ chỉ có chết đói. Chính sách này c̣n cao
thâm ở chổ mà miền Nam ngày trước không có là không thể có cái việc
"các má, các chị nuôi giấu cán bộ giải phóng trong nhà" như Việt
cộng đă đĩ miệng, phỉnh phờ người dân trước đây.
Ba tôi rồi cũng đi tù "căi tạo" như bao nhiêu sĩ quan, công chức
miền Nam khác, mẹ tôi ở lại một ḿnh phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ
mổi khi hồi tưởng lại đoạn đời đă qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu ḿnh là
mẹ ḿnh hồi đó, liệu ḿnh có thể bươn trăi một ḿnh để vừa nuôi
chồng trong tù vừa nuôi một đàn con dại như vậy không ? Trong ḷng
tôi vẫn luôn có một bông hồng cảm phục dành cho mẹ tôi và những phụ
nữ như mẹ tôi đă đi qua đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.
Từ một công chức cạo giấy mẹ tôi trở thành "bà bán chợ trời" (bán
các đồ dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn
đă "tiến lên" thành một "bà bán vé số, thuốc lá lẻ" đầu đường. Thời
đó, cái thời chi mà khốn khổ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa th́ phải
tạm nghỉ v́ hễ khi có "chiến dịch làm sạch ḷng, lề đường", công an
đuổi bắt những người buôn bán vặt như mẹ tôi, th́ phải đợi qua
"chiến dịch" rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi mẹ tôi đẩy xe vô
nhà sớm hơn thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết mẹ tôi bị quân
lưu manh lường gạt, cụt hết vốn.
Thời bấy giờ, do chính sách "bần cùng hóa nhân dân" của Việt cộng đă
tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có tên đến gạt mẹ
tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là mẹ tôi cụt
vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời đó
người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên
gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ
đổi ư, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau mẹ tôi
mới biết là hắn đă tráo gói thuốc giả!
Một buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, th́
có một anh bộ đội, c̣n trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba
lỗ, quần xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá. Hồi
đó, bộ đội Việt cộng giấu, không mang quân hàm nên chẳng biết là cấp
nào, chỉ đoán là anh nào trẻ, mặt mày ngố ngố là bộ đội thường, cấp
nhỏ, anh nào người lùn tẹt, mặt mày thâm hiểm, quắt queo như mặt
chuột th́ có thể là công an hay chính trị viên,...
Anh bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng
đă rách chỉ c̣n hơn một nửa. Mẹ tôi nói: "Anh đổi cho tờ bạc khác,
tờ ni rách rồi, người ta không ăn." Anh bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc
mặt, cao giọng lạnh lùng: "Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không
tiêu được!" À, th́ ra những thằng oắt con Việt cộng này cũng biết
lên giọng của kẻ chiến thắng, giọng của kẻ nhân danh một chính
quyền! Lúc này tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn màu vàng mà hắn đang
mặc được may bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ! Mẹ tôi lẳng lặng lấy tờ tiền
rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đă đi xa, mẹ tôi ṿ tờ bạc
vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe: "Thôi kệ, một đồng bạc,
căi lẫy làm chi cho mệt... Hắn mặc cái quần..., làm chi rứa, thắng
trận rồi th́ thôi, sỉ nhục người ta làm chi nữa, con hí?". Th́ ra mẹ
tôi cũng đă nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá cờ quốc gia và điều
mà mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc rách!
Khi Việt cộng mới chiếm miền Nam, nhiều người vẫn tưởng Việt cộng
cũng là người Việt, không lẽ họ lại đày đọa đồng bào. Nhưng sau
nhiều năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng Việt
cộng xem dân miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, họ tự cho họ là phe
chiến thắng "vẻ vang" và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như
không cùng chủng tộc này.
Một hôm, đang ngồi bán thuốc lá, mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em
tôi ra ngồi bán để mẹ đi có việc ǵ đó. Một lúc sau mẹ tôi trở về và
kể cho chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể: "Mẹ đang
ngồi ngoài đó th́ nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo cờ
quốc gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu
vàng có dăi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm,
người ta tưởng là cờ quốc gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ ḍm
lên cây mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời
rồi!" Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là mẹ tôi
nh́n mọi việc bằng t́nh cảm trong ḷng ḿnh.
Thời gian trôi măi không ngừng... Cuối cùng rồi ba tôi cũng may mắn
sống sót trở về sau gần 10 năm trong lao tù cộng sản, mẹ tôi vẫn bán
thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải
t́m việc vặt vănh để kiếm sống. Đôi khi tôi tự hỏi, cuộc đời ḿnh sẽ
ra sao, liệu ḿnh có thể có một mái gia đ́nh, vợ con như bao người
khác không trong khi mà cả gia đ́nh ḿnh không hề thấy một con đường
nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với mức trung b́nh!? "Mọi
người sinh ra đều b́nh đẳng .. và ai cũng được quyền mưu cầu hạnh
phúc ..." câu ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải
sống dưới chế độ cộng sản, việc ǵ cũng bị truy xét lư lịch đến ba
đời, mới thấm thía ư nghĩa và hiểu được v́ sao người ta dùng câu ấy
để mở đầu cho bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.
Một ngày khoăng đầu năm 1990, công an phường đến đưa cho ba tôi một
tờ giấy có tiêu đề và đóng dấu của Công An Thành Phố, nội dung vỏn
vẹn "đến làm việc". Gia đ́nh tôi lo sợ là ba tôi sẽ bị bắt vô tù
lại, ba tôi th́ lẳng lặng mặc áo ra đi, h́nh như các ông "sĩ quan
học tập" về đều trở thành triết gia, b́nh thản chấp nhận thực tại.
Hay là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi th́ muốn băm vằm ǵ
tùy ư.
Rồi ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không
thấy được, công an thành phố kêu ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại
Vụ v́ gia đ́nh tôi được Nhà Nước "nhân đạo" cho đi định cư ở Hoa Kỳ!
Thật không sao kể xiết nổi vui mừng của gia đ́nh tôi với tin này,
đang từ một cuộc sống tuyệt vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến
một quốc gia tự do, giàu mạnh nhất thế giới! Những ngày sau đó lại
cũng là mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng trong nhà chỉ
để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ "Ra Trại" của ba tôi,
khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho "Dịch Vụ", ... để làm thủ tục
xuất cảnh.
Chỉ khoảng 6 tháng sau là gia đ́nh tôi lên máy bay để bay qua trại
chuyển tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nh́n xuống phi
trường Tân Sơn Nhất dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được.
Thế là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài G̣n này của tôi, nơi
mà tôi sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao
nhiêu vui buồn ở đây, mai sau chỉ c̣n trong kỷ niệm! Tôi quay lại
nh́n thấy ba tôi mặt không lộ vẻ vui buồn ǵ cả, c̣n mẹ tôi th́ nhắm
mắt như đang cầu nguyện và mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt
chuyến bay cho đến khi đặt chân xuống Thái Lan, mẹ tôi mới nói: "Bây
giờ mới tin là ḿnh thoát rồi!" Sau khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia
đ́nh chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi đổi máy bay, bay đến San
Francisco, Hoa Kỳ.
Ngày đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người
Việt, thấy lá cờ Việt Nam bay phất phới trên mái nhà, mẹ tôi nói:
"Ui chao, lâu lắm ḿnh mới thấy lại lá cờ ni, cái cờ quốc gia của
ḿnh răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?". Rồi mẹ kêu tôi đi hỏi
mua cho mẹ một lá cờ quốc gia bằng vải, đem về cất vào ngăn trên
trong tủ thờ.
Chúng tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College,
mẹ tôi cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp
ESL (English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết
essays (luận văn).
Mẹ tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là "Bạn hăy nói
các điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc ǵ đó giữa nước Mỹ
và nước của bạn" th́ mẹ tôi lại viết về lá cờ quốc gia. Ư mẹ tôi (mà
chắc chỉ có ḿnh tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ
khác nhau với hai chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay
ngộ nhận cờ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá
cờ đó không phải là lá cờ thiêng liêng của người Việt tại Mỹ. Rải
rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của mẹ tôi là
những mẩu chuyện thật mà mẹ tôi đă trải qua suốt thời gian sống dưới
chế độ Việt cộng. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi
nghĩ có lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là
có những chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng
sản). Khi bài được trả lại, tôi cầm bài luận của mẹ tôi xem th́ thấy
bà giáo phê chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ:
"interesting! ", "Narrative", "I can’t believe it!",... và cuối cùng
bà cho một điểm "D" v́... lạc đề!
Cuộc sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp,
chứng chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc
rồi. Dạo đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California,
tự nhiên giở chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng của Việt cộng trong
tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận,
đồng bào đem cả ngàn lá cờ quốc gia, nền vàng ba sọc đỏ đến biểu
t́nh trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem
trên truyền h́nh và nói với tôi: "Tinh thần của người ta c̣n cao lắm
chớ, mai mốt đây mà về th́ phải biết!" Ư mẹ tôi nói là sau này khi
không c̣n cộng sản ở Việt Nam nữa th́ chắc đồng bào sẽ hân hoan trở
về treo lên cả rừng cờ quốc gia chớ không phải chỉ chừng này đâu.
Thời gian trôi nhanh quá, chúng tôi đă xa quê hương gần 20 năm, Việt
cộng vẫn c̣n đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể
cả cha chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở
mẹ tôi đi học ESL nữa nên mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một ḿnh, buồn
lắm. Có lần tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con
lần cuối không, mẹ tôi nói: "Không, về làm chi, rồi ḿnh nhớ lại
cảnh cũ, ḿnh thêm buồn; khi mô mà ḥa b́nh rồi th́ mẹ mới về!" Ư mẹ
nói "ḥa b́nh" nghĩa là khi không c̣n cộng sản nữa.
Rồi mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán mẹ tôi bị ung
thư phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ
chức thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương
tiện, thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh
không c̣n cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm
lại đất nước Mỹ này và vĩnh viễn không c̣n nh́n thấy lại quê hương
ḿnh lần nào nữa.
Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi t́m thấy chiếc ví
nhỏ mà mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tùy
thân như thẻ an sinh xă hội, thẻ căn cước,.. Trong một ngăn ví là lá
cờ vàng ba sọc đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ mẹ
tôi đă cắt ra từ một tờ báo nào đó. Tôi bồi hồi xúc động, th́ ra mẹ
tôi vẫn giữ măi lá cờ quốc gia bên ḿnh, có lẽ lá cờ vàng hiền lành
này đối với mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của những người đă
khuất.
NGUYỄN KIẾN VIỆT
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại